* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu

* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos 

* Biệt kích  -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV

* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí

* Khảo  Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo

* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý

* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery

* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer

 

ĐẶC BIỆT

  1. Served  In A Noble Cause

  2. Hào Kiệt For Rent

  3. Trò Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

  4. Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

  5. Văn Kiện Về Quyền Con Người

  6. Liberal World Order

  7. The Heritage Constitution

  8. The Invisible Government Dan Moot

  9. The Invisible Government David Wise

  10. Montreal Protocol Hand Book

  11. Death Of A Generation

  12. Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư

  13. Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  14. Phân Định Chính Tà

  15. Giáo Hội La  Mã:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

  16. Secret Army Secret War - CIA Giải mật

  17. Mật Ước Thành Đô: Trò Bịa Đặt

  18. Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập

  19. Lãnh Hải Việt Nam ở Biển Đông

  20. Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

  21. Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

  22. Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

  23. Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

  24. Trò Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

  25. Hài Kịch Nhân Quyền

  26. CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

  27. Tội Ác PG Ấn Quang

  28. Âm mưu của Ấn Quang

  29. Vụ Đài VN Hải Ngoại

  30. Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

  31. Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

  32. Lịch Sử CTNCT

  33. Tượng Đài: Lưu Xú - Lưu Manh

  34. Về Tác Phẩm Vô Ðề

  35. Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh

  36. Bút Ký Tôi Phải Sống

  37. Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

  38. Đặc Công Đỏ Việt Thường

  39. Kháng Chiến Phở Bò

  40. Băng Ðảng Việt Tân

  41. Mặt Trợn Việt Tân

  42. Tù Binh và Hòa Bình

  43. Nước Mắt Trước Cơn Mưa

  44. 55 Ngày Chế Độ Sài Gòn Sụp Đổ

  45. Drug Smuggling in Vietnam War

  46. The Fall of South Vietnam

  47. Giờ Thứ 25

  48. Economic assistant to South VN 1954- 1975

  49. RAND History of Vietnam War era

  50. Chiến Sĩ Vô Danh 

 

 

     LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

-07/2008 -08/2008 -09/2008 -10/2008 -11/2008 -11/2008

-12/2008 -01/2009 -02/2009 -03/2009 -04/2009 -05/2009

-06/2009 -07/2009 -08/2009 -09/2009 -10/2009 -11/2009

-12/2009 -01/2010 -03/2010 -04/2010 -05/2010 -06/2010

-07/2010 -08/2010 -09/2010 -10/2010 -11/2010 -12/2010

-01/2011 -02/2011 -03/2011 -04.2011 -05.2011 -06.2011

-07/2011 -08/2011 -09/2011 -10/2011 -11/2011 -12/2011

-05/2012 -06/2012 -12/2012 -01/2013 -12/2013 -03/2014 -09.2014 -10.2014 -12/2014 -03/2015 -02/2015 -02/2015 -02/2015 -02/2016 -02/2016 -03/2016 -07/2016 -08/2016

-09/2016 -10/2016 -11/2016 -12/2016 -01/2017 -02/2017

-03/2017 -04/2017-05/2017 -06/2017 -07/2017 -08/2017

-09/2017 -10/2017 -11/2017 -12/2017-01/2018 -02/2018

-03/2018 -04/2018 -05/2018 -06/2018 -07/2018 -08/2018

-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019

-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019 

 

Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. Mar/2017. 

Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017. Jul/2017. Aug/2017.

Sep/2017. Oct/2017. Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018.

Feb/2018. Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018. Nov/2018.

Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019

May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019

 

Beginner's Guide Web Design

Responsive Web Design

Professional Web Design

Learning Web Design 4

A List Apart Responsive Web Design

Responsive Web Design Ethan

The Book of CSS3

Mastering Resposive Web Design HTML 5

HTML Tutorial

HTML5 CSS3 Responsive Cookbook

Principle of Web Design

Real Life Responsive Wed Design

Learning Responsive Web Design

Learn HTML and CCS

Pro HTML 5 Accessi

Thiết Kế Web


http://www.expression-web-tutorials.com/

https://www.w3schools.com/howto/howto

_css_social_media_buttons.asp

https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q

https://www.codecademy.com/en/forum_

questions/532619b28c1ccc0cac002730

https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp

https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp

https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp

https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro

https://archive.org/details/responsivewebdesign

https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/

Computer Page

 

https://vimeo.com/

http://www.imdb.com/

https://www.crackle.com/

https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies

https://archive.org/details/feature_films

https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/

 

 

Kim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearningTrang Chủ Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

THÁNG 7-2019

 

UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV

PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT  NBCSPORT  ESPNSPORT - EPOCH

   

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thư liên lạc

trinh bui <trinhbui49@yahoo.com>

14:24, 16 thg 7, 2019 (4 ngày trước)

tới tôi

Bạn hiền thân mến,

 Chỉ qua một đôi câu trao đổi, tao có cảm nghĩ là mày đang muốn một thứ lịch sử không phải của các sử gia, bởi vì các sử gia đều viết theo thiên kiến của chế độ mà họ đang phục vụ.

Vậy thì tao thử gửi đến cho mày một cách nhìn lịch sử của cá nhân tao mà tao nghĩ nó đúng như ý của mày.

Tao không phải là một sử gia cho nên tao không hề sáng tác ra lịch sử.  Mà tao chỉ là một người đọc lịch sử, nhưng mà tao đọc thiên kinh vạn quyển;  cho nên kinh nào, quyển nào nói mà tao tin được thì tao cho nó vào kho kiến thức của mình, cái nào không tin thì tao thẳng tay loại bỏ.

Sau đây là loạt bài “Biên Khảo Về Nguyễn Tất Thành” mà tao đã đăng trên net. Tao nghĩ trước là mày coi để hiểu hơn về ý hướng của tao.  Sau nữa là mày có thể giữ nó như một tài liệu lịch sử để viết bài.

 http://quanvan.net/bui-anh-trinh-bien-khao-ve-nguyen-tat-thanh/

Ngoài ra, để mày hiểu hơn về cái nhìn của tao đối với con người của mày, tao gởi đến mày 2 bài viết về Bảy Viễn và một bài về Tướng Nguyễn Ngọc Loan, những con người mà tao cho là hảo hớn. Trong khi những sử gia của các chế độ thì không khi nào có cái nhìn đúng về những nhân vật hảo hớn của lịch sử.

https://vietcongonline.wordpress.com/2014/10/27/bui-anh-trinh-luc-luong-viet-minh-binh-xuyen/

https://vietcongonline.wordpress.com/2014/10/30/bui-anh-trinh-lay-nghia-khi-de-do-gia-tri-cua-con-nguoi/

https://vietcongonline.wordpress.com/2015/02/05/tuong-nguyen-ngoc-loan-triet-nhan-dieu-doi/

Tao rất vui khi gặp lại mày và được biết “anh hùng vẫn chưa thấm mệt”. Tao vẫn theo dõi hoạt động của mày từ ngày tao ra khỏi trại tù và bắt lại được tin tức của mày.  Giờ đây gặp lại tao thấy mày vẫn là thằng bạn mà tao đã mến mộ từ hồi nào tới giờ.

 

BÙI ANH TRINH

BIÊN KHẢO VỀ NGUYỄN TẤT THÀNH

 

 

 

Lịch sử chính trị của Việt Nam trong gần 80 năm qua quy tụ xung quanh hoạt động của nhân vật Hồ Chí Minh, do đó chỉ cần dựng lại bối cảnh 50 năm hoạt động của ông Hồ Chí Minh thì kể như là giải thích toàn bộ mọi biến chuyển khó hiểu của lịch sử Việt Nam trong thế kỷ 20.

 

Một khi đã nói lên sự thật  trái ngược với những sách vở trước kia thì không thể nào tránh khỏi đụng chạm tới những nhân vật từng có nhiệt tâm với lịch sử, nhiệt tâm với đất nước.  Và cũng không tránh khỏi được chuyện phải phản bác những luận thuyết từng thống trị diễn đàn chính trị từ trước tới nay, phía bên này cũng như phía bên kia.

 

Giờ đây đã tới lúc phải trả lại sự thật cho lịch sử, nghĩa là phải chỉnh lại các quyển sách lịch sử chính trị Việt Nam hiện được dùng để giảng dạy tại các đại học Pháp, Hoa Kỳ cũng như tại Việt Nam.  Bởi vì những sách này hoàn toàn lỗi thời so với những tài liệu mới đựoc giải mã và các hồi ký của những người trong cuộc mới được đưa ra công khai trong vòng hai thập niên vừa qua.

 

BÙI ANH TRINH

 

 (35) THANH TOÁN NHÓM CỌNG SẢN ĐỆ TỨ

 

 

Năm 1945, đầu tháng 10, Nhóm cọng sản Đệ Tứ ( Trostkist ) chạy tránh quân Pháp tại Dĩ An nghe tin Trần Văn Giàu sẽ cho bắt toàn bộ Nhóm Đệ Tứ cho nên 68 cán bộ lãnh đạo họp nhau lại để quyết định nên về Sài Gòn lánh nạn hay là ở lại rồi tùy Trần Văn Giàu muốn làm gì thì làm.  Kết quả bỏ thăm thì có 64 người ở lại, sau đó thì bị bắt giam tại Biên Hoà 1 ngày rồi chở đi Phan Thiết nhưng từ đó 64 người biến mất trên cõi đời.

 

* Chú giải :  Tại sao Nhóm Cọng sản Đệ Tứ bị tàn sát

 

 Theo tài liệu của CSVN trong quyển “Lịch Sử cách Mạng Tháng Tám” xuất bản năm 1960, Trang 319, có ghi lại giai đoạn Pháp đánh vào Sài Gòn.  Ủy ban hành chánh của Việt Minh và những đoàn thể  chống Pháp tản cư về Dĩ An/ Thủ Đức:

 

“Ta quyết định tịch thu báo Độc Lập, vạch mặt bọn phá hoại trước nhân dân;  đồng thời ra lệnh bắt bọn trùm Tờ Rốt Kít lúc ấy đang trốn ở Dĩ An, Thủ Đức (gồm bọn Nguyễn Văn Sô, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch v.v…)” .Tài liệu này xác nhận là có bắt nhưng không có nói xử tội, cũng không có nói tha.  Nhưng từ đó thì các lãnh tụ Đệ Tứ biến mất trên cõi đời.

 

Hồi ký của Vũ Thư Hiên ghi lại : “Ông Phạm Ngọc Thạch, trong một câu chuyện vui tại nhà tôi vào đầu thập niên 60, nói với ông Dương Bạch Mai: – “Mấy chả không ưa mầy, vì mầy thẳng ruột ngựa, nghĩ sao nói dzậy, làm mấy chả mếch lòng, mới lôi cái vụ mầy hợp tác với Tờ rốt kít mà rêu rao”.

 

 – “Thì mầy cũng bị mấy chả rêu rao là thân Nhật đó thôi.  Chơi với Tờ rốt kít thì mày cũng chơi chớ bộ.  Ông Dương Bạch Mai cười ngất: – “Nè, cẩn thận đó, sổ đen của mấy chả chỉ có ghi thêm chớ không có xóa đi đâu nghen”(Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, trang 279).

 

Riêng về vụ thanh toán 64 lãnh tụ Đệ Tứ và các nhà yêu nước khác thì dư luận đổ cho Trần Văn Giàu, cho ông là kẻ lừa thầy phản bạn và giết anh em.  Sau này, năm 1989, Giàu có dịp trở lại thăm nước Pháp và ông có thanh minh rằng ông không cho lệnh giết nhóm Đệ Tứ.  Ông cho rằng lệnh đó do Hạ Bá Cang ra lệnh cho Cao Đăng Chiếm (Chỉ huy phó Tự vệ cuộc Nam Kỳ, là tổ chức mật vụ của Việt Minh).

 

Tuy không còn bằng chứng nhưng hầu hết các sử gia Việt Nam tin rằng lệnh tiêu diệt nhóm Đệ Tứ là do lệnh của Hồ Chí Minh,  căn cứ vào quan điểm của HCM qua báo cáo của ông gởi cho Quốc tế cọng sản vào tháng 7 năm 1939:  “Đối với bọn Trốt Kít không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng nào cả. Phải lột mặt nạ chúng như là tay sai của phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị”.

 

Sau đó từ Trung Hoa ông gởi thư về trong nước, chỉ rõ:  “Bọn Trốt Kít là một lũ bất lương, những con chó săn của chủ nghĩa phát xít Nhật và chủ nghĩa phát xít quốc tế”, “Tôi khuyên ai chưa đọc thì nên tìm đọc bản án xử bọn Trốt Kít ở Liên Xô và làm cho bạn bè cùng đọc. Nó sẽ giúp cho thấy bộ mặt đáng ghê tởm của chủ nghĩa Trốt Ky và bọn Trốt Kít” ( Hồ Chí Minh tuyển tập, tập 3, trang 97).

 

 Lúc đó ông còn đang phục vụ trong quân đội của Mao Trạch Đông và ông chưa biết Trotkist Việt Nam gồm có những ai, ông hoàn toàn không biết họ đã có hành động nào, bởi vì ông rời xa đất nước đã 28 năm.   Nhưng ông đang xây mộng làm nên sự nghiệp tại Việt Nam, mộng của ông bắt buộc phải có sự chuẩn thuận của Stalin cho nên ông cần phải lấy lòng Stalin bằng cách viết những bài viết tỏ ra căm thù bọn Đệ Tứ không kém gì Staline.

 

Chính phủ Việt Minh

 

Năm 1945, ngày 23-10, tại Hà Nội, dưới sức ép của ông tướng Trung Hoa là Tiêu Văn, Hồ Chí Minh và Nguyễn Hải Thần ký thỏa hiệp cọng tác giữa Việt Minh và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Cách.

 

Có hai ông tướng Trung Hoa tại Việt Nam là Tướng Lư Hán, chỉ huy trưởng quân đội và Tướng Tiêu Văn, phụ trách chính trị tại Việt Nam.  Khi mới đến Việt Nam thì tướng Tiêu Văn nắm ngay Hồ Chí Minh là người trước đây được ông ta tuyển chọn và đưa về hoạt động tại Việt Nam.  Chính Tiêu Văn là người giới thiệu Hồ Chí Minh với Tướng Trương Phát Khuê là Tư lệnh Đệ Tứ quân khu của Trung Hoa.

 

Rồi chính Trương Phát Khuê giới thiệu Hồ Chí Minh với trùm tính báo Hoa Kỳ là Thiếu tá Patti. Do đó khi mới đến Hà Nội Tiêu Văn đã nhanh chóng hội cùng Patti ủng hộ con gà của mình là Hồ Chí Minh.  Nhờ vậy mà uy tín của Hồ Chí Minh tăng vùn vụt.  Cũng nhờ vậy mà cả một đoàn quân cơ hội chủ nghĩa đang chực sẵn tại Hà Nội đã nhào vào Mặt trận Việt Minh.

 

Tuy nhiên không ngờ sau đó thì Nguyễn Hải Thần và Trương Trung Phụng về nước (Trương Bội Công đã chết tại Trung Hoa vào tháng 7 năm 1945).  Nhóm Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam, Nghiêm Kế Tổ đã đưa Tiêu Văn vào tình trạng khó xử vì Nguyễn Hải Thần chứng minh được rằng Hồ Chí Minh là Lý Thụy, tức là một tay Cọng sản được đào luyện từ Mạc Tư Khoa.

 

Tiêu Văn có thể sẽ phải chịu trách nhiệm trước Tưởng Giới Thạch vì đã sơ xuất trong việc tin dùng Hồ Chí Minh.  Vì vậy mà Tiêu Văn đành phải ém nhẹm mọi việc bằng cách bắt Hồ Chí Minh phải liên hiệp với Nguyễn Hải Thần, đồng thời từ từ tìm cách tước bớt quyền lực của Hồ Chí Minh, hỗ trợ cho phe Việt Quốc của Trương Tử Anh, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh dần dần nắm quyền lực .

 

Năm 1945, ngày 8-11, Nguyễn Hải Thần gởi tối hậu thư cho Hồ Chí Minh, yêu cầu Hồ Chí Minh từ chức ngay lập tức và thành lập chính phủ mới đa đảng.  Đồng thời Nguyễn Hải Thần cũng thông báo cho tướng Lư Hán rằng ông ta sẽ không chịu trách nhiệm nếu có xảy ra sự xung đột giữa Việt Minh và các đảng phái khác trong trường hợp Hồ Chí Minh không tuân theo tối hậu thư. ( Hsltr/Quốc gia Pháp, báo cáo của toán tham vấn chính trị tại Đông Dương gởi về cho Bộ Hải ngoại Pháp ).

 

BÙI ANH TRINH

 

*Chú thích của người viết :

 

 Đầu năm 2015 ông Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng hô hào “Học tập theo gương đạo đức Hồ Chí Minh”.  Nghĩa là ông HCM đã chết nhưng tư tưởng của ông ta còn sống.  Hoặc nói một cách văn hoa là ông ta chết nhưng mà chưa chôn.  Vậy nên người đào bới lịch sử có nhiệm vụ phải mai táng ông HCM cho kỹ càng để môi trường lịch sử Việt Nam được trong sạch.

 

Trong bài viết trên đây có 3 tấm gương đạo đức của ông HCM mà người Việt không nên học tập :

 

(1). Ông HCM gọi những đối thủ chính trị của ông là “lũ”, là “bọn”, là “chó”, “bất lương”.  Giọng điệu của ông là ngôn ngữ của dân lưu manh.

 

Chính vì giọng điệu này mà các dân quân du kích Việt Minh thẳng tay tàn sát những người Cọng sản Đệ tứ mà không hề ghê tay.  Chính bác Hồ đầy lòng nhân ái mà còn gọi là “bọn”, “lũ bất lương” thì chắc là tội lỗi đầy trời.

 

Tội nghiệp Giáo sư Hồ Văn Ngà, trước khi bị đem bi giết ông nói với mấy dân quân du kích Việt Minh : “Mấy em muốn giết qua thì giết, nhưng đừng kêu qua là Việt gian”.

 

Mấy dân quân du kích không hề biết năm 1927 Hồ Văn Ngà thi đỗ đầu vào trường đại học Ecole Centrale ở Pháp, là Hội trưởng tổng hội sinh viên Đông Dương tại Paris.  Năm 1930 ông cùng với Tạ thu Thâu tổ chức một cuộc biểu tình trước Điện Elysée để phản đối thực dân Pháp xử tử Nguyễn Thái Học và các đồng chí trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930.

 

Ông bị ra tòa và bị trục xuất về nước cùng với 18 sinh viên yêu nước khác.  Vậy mà năm 1946 ông Ngà bị Việt Minh đem bỏ vào bao bố rồi thả trôi sông bởi vì ông HCM đã nói với các dân quân du kích rằng HVN là tên chó săn của phát xít Nhật! ( Xảo trá )

 

(2). Ông HCM đã ra lệnh thanh toán những người Cọng sản Đệ tứ chỉ vì Stalin đã giết 8,2 triệu người Nga theo Trostkist.  Ông HCM biết Stalin ghét cay ghét đắng Cọng sản Đệ tứ quốc tế cho nên ông ta lấy lòng Stalin bằng cách giết hết những người Cọng sản Đệ tứ tại Việt Nam. Tất cả những người này đều là những nhà cách mạng nổi tiếng. ( Gian ác ).

 

(3).  Ông giết người một cách vô tội vạ mà không cần biết những người đó là ai, can tội gì, có làm gì hại tới ông hay không.  Người ta đã ra trình diện ông với hai bàn tay không nhưng ông vẫn giết, như là đã giết 4.000 người ra trình diện ông vào năm Mậu Thân tại Huế ( Tàn nhẫn ).

 

(36) THANH TOÁN ĐẢNG CSVN

 

 

Hồ Chí Minh giải tán Đảng Cọng sản

 

Năm 1945, ngày 11-11, Đảng Cọng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán.  Như vậy, trên lý thuyết, trong Mặt trận Việt Minh chỉ còn lại cánh Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của ông Hồ Chí Minh.  Còn ĐCSVN của ông Đặng Xuân Khu ( Trường Chinh ) chỉ là “Nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê”, chuyên phụ giúp chính phủ Việt Minh trong công tác tuyên truyền.

 

* Chú giải :  sau tháng 8 năm 1945 thì đằng sau lưng của Đặng Xuân Khu  là một rừng nhân tài Cọng sản từ các nhà tù trở về, toàn là những đại gia sừng sỏ mà Nguyễn Tất Thành tự nhắm bản lĩnh của mình thua xa rất nhiều người trong bọn họ.  Vì vậy tương lai sự nghiệp của ông bị đe dọa trực tiếp bởi các lãnh tụ Cọng sản chứ không phải các lãnh tụ của các đảng phái khác.

 

Do đó khi gặp Tiêu Văn ( Tướng chính trị của Tưởng Giới Thạch )  thì HCM nói rằng ông khó thỏa hiệp với Nguyễn Hải Thần vì bị khống chế bởi cánh Cọng sản của Đặng Xuân Khu trong Mặt trận Việt Minh. Mặt kia, khi họp Trung ương Đảng CSVN thì ông cho biết Tiêu Văn dứt khoát đòi thanh toán cánh Cọng sản. Cuối cùng ông quyết định giải tán ĐCSVN cho dầu có sự phản đối mạnh mẽ của các lãnh tụ Cọn sản đang có mặt tại Hà Nội.

 

 Hồi ký của Hoàng Tùng ghi lại:  “Hôm tuyên bố giải tán Đảng tôi không có tham dự, nhưng nghe nói lại rằng, quyết định của Bác thật là táo bạo.    Khi đưa ra bản tuyên bố giải tán đảng ở Thường vụ, người không tán thành nhất là đồng chí Trường Chinh.  (Hoàng Tùng, Những kỷ niệm về Bác Hồ).

 

Đoạn hồi ký này cho thấy Hồ Chí Minh là người quyết định giải tán đảng;  còn Đặng Xuân Khu là người “không tán thành nhất”, tức là Khu cực lực phản đối. Chứng tỏ Hồ Chí Minh đã ép buộc Đặng Xuân Khu phải giải tán đảng CSVN cho dù Khu và các lãnh tụ CS khác hoàn toàn không muốn.

 

Ngoài sự phản đối  của Đặng Xuân Khu, còn có sự phản đối của ba nhân vật Cọng sản gạo cội là Trương Văn Lệnh, Trần Đình Long và Nguyễn Thế Vinh :

 

Trương Văn Lệnh là người Nghệ An, thua ông Nguyễn Tất Thành 12 tuổi. Năm 1923 ông cùng Lê Hồng Phong, Phạm Hồng Thái tham gia Tâm Tâm Xã của Nguyễn Hải Thần.  Tháng 5 năm 1924 ông cùng Lê Hồng Phong và Lê Tán Anh được ông Đinh Tế Dân giúp đỡ vào học khóa đầu tiên của trường Võ bị Hoàng Phố;  lúc đó Nguyễn Tất Thành chưa tới Trung Hoa.

 

Năm 1925 ông cùng Lê Hồng Phong và Lê Tán Anh được Nguyễn Tất Thành móc nối gia nhập Đảng Cọng sản Trung Quốc.  Năm 1929 ông Lệnh tham  gia An Nam Cọng sản Đảng của Hồ Tùng Mậu.  Tháng 10 năm 1930 Trần Phú thành lập Đảng Cọng sản Đông Dương thì Trương Văn Lệnh cũng có mặt tại Hồng Kông nhưng ông và Nguyễn Tất Thành không tham dự.

 

Sau đó ông cùng Nguyễn Tất Thành làm việc trong trạm giao liên tại Hồng Kông của tổ chức Viễn Đông Vụ thuộc CSQT.  Việc của ông là phụ trách chuyển thư từ qua lại giữa trạm giao liên của Nguyễn Tất Thành ở Hồng Kông và trạm giao liên của Lê Quang Đạt ở Thượng Hải.

 

Năm 1931 tổ chức Viễn Đông Vụ bị đổ bể, Trương Văn Lệnh bị nhà cầm quyền Hồng Kông bắt giam vài tháng rồi trục xuất khỏi Hồng Kông, ông chạy về Thượng Hải, sống trong Tô giới của Pháp tại Thượng Hải.  Tại đây ông hoạt động trở lại cho Đảng Cọng sản Đông Dương cùng với Nguyễn Lương Bằng, Lê Quang Đạt, Lý Phương Đức. Đến năm 1932 tất cả bị bắt và giải giao về Việt Nam.  Ông Bằng bị giam tại trại Sơn La và ông Lệnh bị giam tại trại Lao Bảo.

 

 Năm 1942 Lệnh vượt ngục, trốn về Thanh Hóa rồi đi Thái Nguyên.  Qua năm 1943 Nguyễn Lương Bằng vượt ngục Sơn La, trốn về Hà Nội, rồi được ông Vũ Đình Huỳnh đưa đi Thái Nguyên.  Hai ông gặp lại nhau tại Thái Nguyên cuối năm 1943, tổ chức gầy dựng cơ sở hoạt động và bắt được liên lạc với Hoàng Văn Thụ ở Pác Bó.  Do đó so vai vế trong Đảng thì Trương Văn Lệnh thuộc loại “đại lão làng”.

 

Khi nghe Hồ Chí Minh vận động giải tán Đảng thì Trương Văn Lệnh kịch liệt chống đối, ông phê phán Hồ Chí Minh là theo Chủ nghĩa Dân tộc tư sản ( Sau này người ta gọi đó là “Tư tưởng Hồ Chí Minh” ).  Và ông kêu gọi các lãnh tụ Cọng sản hãy ly khai khỏi Mặt trận Việt Minh.

 

Nhưng chỉ vài ngày sau đó thì ông bị ám sát chết cùng một lượt với Trần Đình Long và Nguyễn Thế Vinh.  Giám đốc Công an Việt Minh thời đó là Bùi Đức Minh loan tin rằng Trương Văn Lệnh và Trần Đình Long bị Quốc Dân Đảng ám sát.  Tuy nhiên trong các tài liệu của Quốc Dân Đảng thì họ không hề biết hai ông này là ai.

 

Trần Đình Long là người tham gia Đảng Cọng sản Đông Dương từ năm 1930, tốt nghiệp học viện Stalin.  Tháng 8 năm 1945 Trần Đình Long cùng nhóm Xứ ủy Bắc Kỳ và Thành ủy Hà Nội tổ chức cướp chính quyền tại Hà Nội ngày 19-8-1945 và được Đặng Xuân Khu sắp xếp giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trong Chính Phủ Lâm thời.  Nhưng sau đó Hồ Chí Minh về tới và đề nghị các đảng viên Cọng sản nên nhường bớt ghế cho các đảng phái khác;  do đó Trần Đình Long rút lui.

 

Sau khi ĐCSĐD bị giải tán, tháng 11 năm 1945 nhà của ông Long tại chợ Đồng Xuân bị một nhóm người có vũ trang đột nhập, bắt ông mang đi rồi từ đó mất tích luôn.  Sau này Việt Minh loan tin ông ta bị Quốc dân Đảng ám sát.  Tuy nhiên cuộc đột nhập bắt ông Long có sự chứng kiến của bà Long, cho nên qua đối thoại giữa chồng bà với những người đột nhập bà biết đó là những người của Việt Minh.

 

Do đó năm 1954 bà Long nhiều lần đến gặp Trường Chinh để khiếu nại về cái chết của chồng mình nhưng Trường Chinh không tiếp.  Vì vậy bà Long dẫn 3 con xuống tàu di cư vào Nam.  Đến năm 1975 hai con trai của bà Long vượt biên sang Úc, còn lại một người con gái hiện sinh sống tại Sài Gòn ( Hồi ký của Vũ Thư Hiên ).

 

Riêng về cái chết của Nguyễn Thế Vinh thì theo như hồi ký của Vũ Thư Hiên thì chính Trường Chinh xác nhận với bà Vũ Đình Huỳnh, mẹ của Vũ Thư Hiên, là ông Vinh đã bị Đảng “thịt” rồi.  Tuy nhiên ông Trường Chinh cũng cho biết là ông không dính líu gì trong vụ này.  Lúc người ta giết rồi ông mới biết.

 

Nguyễn Thế Vinh là người cùng làng Hành Thiện với Trường Chinh, ông là con nhà giàu được du học tại Pháp cùng với người anh họ là Nguyễn Thế Rục.  Cả hai ông được một người anh họ khác là Nguyễn Thế Truyền đưa vào làm việc cho tờ báo Le Paria là cơ quan tuyên truyền của Liên đoàn Lao động Thuộc địa, một nhánh ngoại vi của ĐCS Pháp.  Sau đó Vinh và Rục lại được Truyền gởi sang học tại học viện Stalin, tuy nhiên Vinh chỉ học được nửa chừng thì bị bệnh nên phải bỏ học và trở về Pháp.

 

Cuối năm 1929 Nguyễn Thế Rục cùng với Trần Phú, Bùi Công Trừng, Ngô Đức Trì, Bùi Lâm được CSQT chỉ định về Việt Nam thành lập một đảng Cọng sản cho Đông Dương.  Ngang qua Paris, Rục rủ Vinh cùng về Việt Nam hoạt động, hai ông đi cùng một chuyến tàu.  Sau đó Rục thì bị bắt sau vụ nổi dậy của phong trào Xô Việt Nghệ Tĩnh.

 

Đến năm 1936 Rục được tha ra khỏi tù, Vinh lại gia nhập ĐCS và hoạt động bí mật trong ngành báo chí  dưới vỏ bọc là một công chức của Pháp.  Đến năm 1938 Rục bị chết vì bệnh lao. Vinh tiếp tục hoạt động với Đặng Xuân Khu.

 

Tháng 8 năm 1945 Vinh cùng với nhóm Trần Đình Long, Nguyễn Quyết, Xuân Thủy, Văn Tiến Dũng… tổ chức cướp chính quyền tại Hà Nội trong khi Đặng Xuân Khu và Hồ Chí Minh đang còn ở tại Tuyên Quang.

 

Sau khi nhóm ông Long cướp chính quyền được 3 ngày thì Khu mới về đến Hà Nội.  Qua hôm sau được tin Bảo Đại thoái vị, Khu cấp thời đề cử một chính phủ lâm thời, sắp xếp cho Hồ Chí Minh làm chủ tịch và Trần Đình Long làm Bộ trưởng bộ Ngoại Giao, Nguyễn Thế Vinh Bộ trưởng Bộ thông tin.

 

Tuy nhiên sau đó 2 ngày thì Hồ Chí Minh về tới Hà Nội, nhìn vào danh sách chính phủ lâm thời ông đề nghị rút bớt người của Đảng Cọng sản ra khỏi danh sách nội các. Do đó Nguyễn Thế Vinh phải nhường chức Bộ trưởng Thông tin cho Trần Huy Liệu.  Riêng chức Bộ trưởng bộ Ngoại giao của Trần Đình Long thì HCM kiêm luôn.

 

*Chú giải : Ông Hồ Chí Minh và lý tưởng Cọng sản

 

Theo như hồi ký của Hoàng Tùng và hồi ký của Võ Nguyên Giáp thì năm 1945 ông Hồ Chí Minh ép buộc đảng Cọng sản của Trường Chinh phải giải tán vì lý do Tướng Tiêu Văn không muốn thấy Cọng sản trong tổ chức Việt Minh.  Thế nhưng sau khi Tiêu Văn đã về Tàu thì HCM vẫn không cho phục hoạt các hoạt động chính trị của ĐCSĐD (?). Các lãnh tụ Cọng sản chìm lỉm trong dư luận quần chúng cho tới năm 1950 mới được Mao trạch Đông dựng lại đảng với tên Đảng Lao Động Việt Nam.

 

Có hai dấu hỏi được nêu ra:  Một là ông Hồ Chí Minh có thành tâm theo đuổi lý tưởng Cọng sản hay không, nếu có tại sao ông ta không cho phục hoạt các hoạt động cách mạng vô sản trong tổ chức Việt Minh sau khi Tiêu Văn đã về Tàu?  Và hai là nhân dân Việt Nam có thích chủ nghĩa Cọng sản hay không?  Nếu có thì tại sao Hồ Chí Minh lại tiếp tục giấu tung tích ĐCSVN trong khi quân đội của Tiêu Văn đã rút khỏi Việt Nam ?

 

Thực ra cả hai vấn để chỉ có một câu trả lời:  Đó là ông HCM vẫn còn bám theo Cọng sản để hy vọng còn nhận được hỗ trợ của Stalin.  Nhưng trong khi chờ đợi sự hỗ trợ của Stalin thì ông ta cần gạo của nông dân Việt Nam.

 

Tuy nhiên ông thừa biết chỉ có giai cấp phú nông và trung nông mới có gạo thừa mà nuôi các ông, còn giai cấp vô sản, tức là bần nông và cố nông thì không có gạo dư.  Nhưng phú nông và trung nông sẽ ngưng cung cấp gạo cho tổ chức Cọng sản bởi vì họ biết chế độ Cọng sản sẽ thẳng tay thanh toán họ một khi Cọng sản thành công.

 

Vì vậy mới có chuyện địa chủ  Nguyễn Thị Năm tưởng lầm mà nuôi nấng đám Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Lê Đức Thọ…Đến khi biết ra thì mới chịu phục đệ tử của Hồ Chí Minh là quá ác.

 

BÙI ANH TRINH

 

*Chú thích của người viết :

 

 Đầu năm 2015 ông Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng hô hào “Học tập theo gương đạo đức Hồ Chí Minh”.  Nghĩa là ông HCM đã chết nhưng tư tưởng của ông ta còn sống.  Hoặc nói một cách văn hoa là ông ta chết nhưng mà chưa chôn.  Vậy nên người đào bới lịch sử có nhiệm vụ phải mai táng ông HCM cho kỹ càng để môi trường lịch sử Việt Nam được trong sạch.

 

Trong bài viết trên đây có 6 tấm gương đạo đức của ông HCM mà người Việt không nên học tập :

 

(1). Mới bước chân về Hà Nội HCM xin làm làm tay sai cho Patti ( Mỹ ) nhưng khi Patti đi rồi, Tiêu Văn làm chủ tình hình tại Hà Nội thì ông làm tay sai cho Tiêu Văn. ( Hèn hạ ).

 

(2). Mượn hơi Tiêu Văn HCM  thanh toán hết các đoàn thể khác, kể cả ĐCSVN cũng không tha.  Trong khi đó mọi người cứ tưởng ông ta sống chết với lý tưởng Cọng sản, đồng cam cộng khổ với những người Cọng sản. ( Nham hiểm ).

 

(3). HCM giết đàn em của mình nhưng lại đổ cho “thế lực thù địch” Quốc Dân đảng thì ai mà không tin.  Rồi vin vào đó xúi dân quân Việt Minh đi tìm giết Quốc Dân đảng. ( Thâm độc ).

 

(4). Để triệt hạ những ai dám chống lại, HCM không từ một thủ đoạn tàn nhẫn nào.  Kể cả giết những người từng cọng tác với ông suốt mấy chục năm gian khổ. ( Tàn nhẫn ).

 

(5). Những người bị HCM giết đều là những nhà ái quốc. ( Phản bội dân tộc ).

 

(6). Lúc gian khổ thì HCM nhờ sự giúp đỡ của những người có lòng, có của.  Nhưng lúc được làm vua rồi thì thịt hết những người từng giúp đỡ mình. ( Bạc ác ).

 

(37) BẮT ĐẦU TRIỀU ĐẠI HỒ CHÍ MINH

 

 

“…đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ( Nguyễn Phú Trọng, 2015 )

 

Bắt đầu triều đại Hồ Chí Minh

 

Năm 1945, ngày 22-12, Hồ Chí Minh ký thỏa hiệp với Việt Quốc và Việt Cách.  Nguyễn Hải Thần sẽ làm Phó Chủ tịch Chính phủ.  4 Bộ dành cho Việt Minh, 4 Bộ dành cho Việt Quốc và Việt Cách.  Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ giao cho nhân vật Trung lập.  Sẽ tiến hành bầu cử Quốc hội và sắp đặt trước 20 ghế cho Việt Cách và 50 ghế cho Việt Quốc.

 

Có một số đoàn thể như Công giáo, Phật giáo cũng được sắp xếp một số ghế trong Quốc hội cho có mặt đủ các thành phần.  Ngoài ra có các đảng phái mới thành lập cũng xin tham gia tranh cử Quốc hội nên được Trường Chinh chấp thuận cho vài người được vào Quốc hội.  Trong số này có kỹ sư Trần Đăng Khoa và kỹ sư Cù Huy Cận thuộc đảng Dân Chủ, ông Nghiêm Xuân Yêm và Nguyễn Xiển thuộc đảng Xã Hội.

 

* Chú giải :  Việt Cách là tên viết tắt của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội là Hội của ông Nguyễn Hải Thần thành lập năm 1942, Hội gồm có cả Việt Nam Độc lập Đồng Minh Hội của Hồ Chí Minh và Việt Nam Quốc Dân Đảng của Vũ Hồng Khanh.

 

 Tháng 11 năm 1944 ông Hồ Chí Minh về Việt Nam, âm thầm tách ra khỏi Hội của Ông Nguyễn Hải Thần, nhập với Đảng Cọng sản Đông Dương của Trường Chinh, lập ra một tổ chức tự xưng là Mặt Trận Việt Minh.

 

 Tháng 5 năm 1945 Vũ Hồng Khanh về Việt Nam, tuyên bố tách ra khỏi Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội để sát nhập với Việt Nam Quốc Dân Đảng ở trong nước của Nhượng Tống, và Đại Việt Dân Chính Đảng của Nguyễn Tường Tam.  Rồi Khanh, Tam lại liên minh với Đại Việt Quốc Dân Đảng của Trương Tử Anh, lập thành Đại Việt Quốc Gia Liên Minh, gọi tắt là Việt Quốc.

 

Sau khi Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh tách đảng của mình ra khỏi Việt Nam Cách mạng Đồng Minh Hội thì ông Nguyễn Xuân Tiếu lại đem đảng Đại Việt Dân Xã của ông gia nhập VNCMĐMH, lúc này Nguyễn Hải Thần cho đổi tên gọi tắt là Việt Cách để phân biệt với Việt Minh của Hồ Chí Minh (Trước kia Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội cũng cọi tắt là Việt Minh).

 

Năm 1946, một ngày trong dịp tết Nguyên đán,  Hồ Chí Minh đến gặp Bảo Đại, đưa cho ông một xấp giấy và bảo rằng trong thời gian Bảo Đại đại diện cho chính phủ đi “thăm dân” ở Thanh Hóa thì “chúng tôi đã nhân danh ngài để gửi một bức thông điệp cho nước Pháp” (Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam, trang 226), xấp giấy mà Bảo Đại cầm trên tay là bản sao bức thư Hồ Chí Minh giả là Bảo Đại viết cho chính phủ Pháp, dài 3 trang giấy, ký tên Bảo Đại.

 

Lần đầu tiên Bảo Đại chạm trán với thủ đoạn của Hồ Chí Minh. Với tất cả đạo đức của một con người, ông không ngờ một chủ tịch nước lại có thể làm như thế.

 

*Chú giải :  Về nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh

 

Trong những ngày tháng ngồi trên cương vị chủ tịch nước, ông Hồ Chí Minh đã đóng vai một con người mộc mạc, giản dị, giống như một ông già nhà quê bình thản trước những trò múa may chộn rộn của chính trị.  Ông thành công rất lớn trong việc thu phục cảm tình của các nhân vật quốc tế, từ chính trị gia cho tới các phóng viên nhà báo.

 

Với bất cứ ai, và trong bất cứ lúc nào, ông cũng đều tỏ ra chân tình và cởi mở, đôi khi ông không cần giấu giếm lối suy nghĩ rất mộc mạc của ông.  Mọi lối trình bày hay lý luận đều được ông đơn giản hóa bằng những thí dụ rất chất phác.  Ngay cả lối ăn mặc hay nhà ở của ông cũng toát lên một tâm hồn bình dị.  Ông bỏ qua những lề thói xã giao chính trị rườm rà và phiền toái của của giới ngoại giao quốc tế;  nhưng không vì thế mà người ta mất cảm tình, trái lại mọi người cảm thấy ông thật gần gủi và dễ cảm thông.

 

Đặc biệt ánh mắt nhìn của ông luôn luôn khiến cho người đối diện có cảm nghĩ rằng mặc dầu chưa cất lên tiếng nói nhưng lòng ông đã chan hòa với người đối diện.  Thêm vào đó là những cử chỉ tuy đơn giản nhưng chứng tỏ sự quan tâm và ưu ái của ông đối với người được ông tiếp chuyện.  Đối với nhân dân cũng thế, ông luôn luôn ân cần với người già và từ ái đối với trẻ con.

 

Ông luôn luôn dạy cho mọi người trở nên đạo hạnh bằng cách nhắc lại những lời dạy của thánh hiền trong văn hóa Trung Quốc và văn hóa Việt Nam.  Có lẽ đây là con người thật mà ông mong muốn hướng tới nếu như hoàn cảnh không bắt buộc ông phải ra tay tàn ác và gian xảo.  Quả thực vậy, nhìn lại hành trình suốt cuộc đời ông thì thấy ông đã có những quyết định tàn tệ trong những hoàn cảnh bắt buộc.  Nếu như hoàn cảnh không bắt buộc thì ông đã không làm như vậy.

 

Tuy nhiên xét cho cùng thì tất cả mọi tình huống bắt buộc đều là những tình huống cản trở mộng ước làm nên nghiệp lớn cho cá nhân ông.  Bình thường thì ông thích hòa bình, nhưng nếu cần chiến tranh để thâu tóm quyền lực thì ông rất sẳn lòng phát động chiến tranh.  Bình thường thì ông rất muốn nhân nghĩa nhưng khi cần tiến hành một mưu đồ riêng, ông sẳn sàng gian xảo và bạc ác.  Trong con người của ông không hề có hối hận hay nhân hậu.  Ông dạy người ta rất nhiều điều trong sách thánh hiền nhưng chưa khi nào ông tỏ ra quân tử.

 

Trong con người của ông Hồ Chí Minh cũng không hề có chuyện quang minh chính đại, trái lại ông rất thích những tiểu xảo lừa bịp, ngay cả trong những khi không cần thiết.  Hồi ký của Vũ Thư Hiên có ghi lại một câu chuyện nói lên tính cách riêng của ông Hồ Chí Minh:

 

“Cha tôi có kể chuyện khi đi thăm bức tường công xã Paris ở nghĩa trang Père Lachaise (1946), có các quan chức Pháp tháp tùng, ông Hồ sụt sùi khóc, lấy khăn tay thấm nước mắt.  Trở về khách sạn, cha tôi hỏi làm sao ông khóc được, ông trả lời:   “Mình làm chính trị, khi cần khóc phải khóc được, khi cần cười phải cười được, mới làm chính trị được chứ” ( Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, trang 459 ).

 

Câu chuyện này có thể làm một chứng minh để giải thích tại sao tia mắt nhìn thân mật, từ ái của ông Hồ Chí Minh lại trái ngược với những hành động bạc ác của ông. Một khi ông dùng giọt nước mắt chính trị để lừa bịp các quan chức Pháp thì ông cũng không ngại gì mà không dùng ánh mắt từ ái để bịp nhân dân Việt Nam bởi vì đối xử với nhân dân cũng là chính trị.

 

Nếu ai không tin lời của những nhân vật Cọng sản đã phản tỉnh như cụ Vũ Đình Huỳnh thì cũng có thể suy ra từ lời kể của Võ Nguyên Giáp trong hồi ký Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên :

 

“Bác chỉ định mấy đồng chí cùng đi. Thấy một đồng chí mang dép, Bác bảo về nhà thay giày.  Bác nói:  Khi nào gặp “người ta”, tôi ăn mặc thế nào mặc tôi, nhưng các chú thì phải cho tề chỉnh”.

 

Ông bảo cán bộ của ông là không được mang dép khi đi theo ông đến gặp phái đoàn Pháp nhưng trong khi đó thì… chính ông lại cố tình mang dép.  Rõ ràng chuyện mang dép là chủ trương đóng kịch của ông chứ không phải xuất phát từ một tâm hồn bình dị. Dĩ nhiên Võ Nguyên Giáp viết lên đoạn này không phải là nhằm lật mặt giả dối của ông Hồ Chí Minh, ông Giáp chỉ muốn chứng tỏ rằng ông Hồ Chí Minh không phải là người cẩu thả, xềnh xoàng trong vấn đề ăn mặc;

 

Nhưng vô tình Võ Nguyên Giáp cũng cho người đời một bằng chứng là Hồ Chí Minh luôn luôn đóng kịch, chẳng những đóng kịch với “người ta” mà ông còn mang đôi dép râu để đóng kịch với toàn dân Việt Nam

 

Không những ông đóng kịch làm một ông vua hiền đức mà trong sâu xa tận đáy lòng ông lại muốn được dân chúng Việt Nam tôn vinh như một bậc thánh. Ước vọng của ông được nêu rõ trong tác phẩm Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch, ông mượn tên của Trần Dân Tiên để vẽ ra hình ảnh mà ông mong muốn:

 

“Ở ngoài mặt trận các chiến sĩ hô lớn, vì tổ quốc, vì Bác Hồ tiến lên! Vì Bác Hồ mà những người lao động trong nhà máy và trên đồng ruộng tăng thêm năng suất.  Đối với nhi đồng tên Bác như là một người mẹ hiền.  Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoãn… Nhân dân gọi chủ tịch là cha già của dân tộc”.  “Chủ tịch trở thành “cha Hồ” của dân tộc Việt Nam”!

 

Chính vì muốn được tôn thờ như thánh sống mà cuộc sống riêng tư của ông hoàn toàn bị người khác chi phối.  Bút ký của Nguyễn Minh Cần, Vũ Thư Hiên và sử gia Hoàng Tranh cho thấy Trường Chinh và những nhân vật chủ chốt trong ĐCSVN đã không tán thành khi ông ngỏ ý muốn lập gia đình hoặc được tái hợp với người vợ cũ là Tăng Tuyết Minh.

 

Người ta đã viện lý do rằng nhân dân đã coi Bác như thánh sống, mà nay Bác lại tỏ ra ham hưởng thụ như mọi người trần tục thì coi không được.  Do đó họ từ chối ước muốn của ông và sắp xếp cho ông tiếp tục sống trong một căn nhà riêng giản dị với một vườn cây và một cái ao cá.

 

Người đời sau thăm viếng nơi ở của Hồ Chủ tịch đã xúc động với hình ảnh một căn nhà gỗ đơn sơ với tất cả những vật dụng đơn sơ như đôi dép râu và chiếc áo cán bộ 4 túi.  Nhưng người đời không ngờ rằng đó là phông cảnh của các nhà đạo diễn CSVN.  Bác đã muốn tỏ ra đơn sơ, giản dị thì họ sắp xếp cho Bác những thứ giản dị hơn.  Ngoại trừ món thuốc lá “ngoại” là họ không nỡ cắt đi của Bác chứ đúng ra thì họ muốn Bác chỉ hút thuốc rê mới phù hợp với vai diễn.

 

Rốt cục ông Nguyễn Tất Thành gieo nhân nào thì ông đã gặt quả nấy, ông muốn đóng vai một người tu hành thì rốt cuộc người ta cho ông tu thật.   Nhưng cuộc sống tu hành quả là cực hình đối với một con người nhiều ham muốn như ông.

 

BÙI ANH TRINH

 

*Chú thích của người viết :

 

 Đầu năm 2015 ông Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng hô hào “Học tập theo gương đạo đức Hồ Chí Minh”.  Nghĩa là ông HCM đã chết nhưng tư tưởng của ông ta còn sống.  Hoặc nói một cách văn hoa là ông ta chết nhưng mà chưa chôn.  Vậy nên người đào bới lịch sử có nhiệm vụ phải mai táng ông HCM cho kỹ càng để môi trường lịch sử Việt Nam được trong sạch.

 

Trong bài viết trên đây có 4 tấm gương đạo đức của ông HCM mà người Việt không nên học tập :

 

(1). Chính phủ Hồ Chí Minh đầu tiên không có ai là Cọng sản bởi vì ĐCSVN đã bị ông HCM giải tán từ tháng 11 năm 1945 rồi.  Thế mà sau này ông nói với dân chúng rằng chính phủ đầu tiên của ông toàn là Cọng sản cả. ( Gian trá ).

 

(2). Chính phủ đầu tiên của ông HCM có cả Việt Cách, Việt Quốc, đảng Dân Chủ, đảng Xã Hội.  Thế nhưng chỉ 2 năm sau thì những người của các đảng phái khác đã biến mất trên cõi đời, một số ít đào thoát ra nước ngoài. ( Tàn ác ).

 

(3). HCM đã giả danh Bảo Đại để viết thư cho chính phủ Pháp, rồi sau đó lại đưa bản sao cho Bảo Đại xem nhằm bắt Bảo Đại phải nhận với Pháp là chính BĐ đã viết. ( Vô liêm sỉ ).

 

(4). Làm chính trị phải khóc, phải cười;   chẳng khác gì bọn xảo trá, điếm đàng.  Thế mà lại là “cha già của dân tộc Việt Nam” ?!.  Cái chức cha già dân tộc cũng là do HCM tự xưng chứ không ai phong cho ông ta. ( Lưu manh ).

 

(38) QUAY RA BẮT TAY VỚI PHÁP

 

 

Quân Pháp tái chiếm Việt Nam

 

Năm 1945, sau khi quân Đồng Minh đánh thắng quân Đức, lãnh tụ quân kháng  chiến Pháp là De Gaule lên làm Tổng thống nước Pháp.  Ngay lúc đó ông phải đối đầu với 2 vấn đề lớn là tái thiết nước Pháp sau chiến tranh và chiếm lại các xứ thuộc địa để có thể vơ vét nguồn lợi tức thực dân đem về phục hồi kinh tế cho nước Pháp.

 

Tuy nhiên chuyện tái chiếm thuộc địa bị cản trở bởi người hùng của Thế chiến thứ 2 là Hoa Kỳ.  Nhân dân Hoa Kỳ đã từng đứng lên chống lại chế độ thực dân và tự giải phóng đất nước ra khỏi chế độ thực dân của nước Anh, vì vậy người Hoa Kỳ luôn luôn chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ cũng như hủy bỏ chế độ thuộc địa trên toàn thế giới.

 

Vì vậy ngay sau khi Thế chiến chấm dứt, các chính trị gia Hoa Kỳ hô hào cho phong trào giải phóng thuộc địa.  Họ nhân danh công bằng và nhân danh  văn minh tiến bộ để làm áp lực buộc các nước thực dân phải nhả các thuộc địa.

 

Để đối phó với áp lực của Hoa Kỳ cũng như để đối phó với phong trào đòi lại chủ quyền của các nước thuộc địa, nước Anh và nước Pháp thành lập ra tổ chức Liên Hiệp Anh và Liên Hiệp Pháp nhằm trao trả độc lập cho các xứ thuộc địa, nhưng chỉ trên danh nghĩa vì họ vẫn giữ quyền quản trị tài chính, quân sự và ngoại giao.

 

Riêng đối với VN thì người Pháp không thể đặt Bảo Đại lên ngai vàng vì Bảo Đại đã phản bội nước Pháp, tuyên bố hủy bỏ các hiệp ước bảo hộ của Pháp.   Vì vậy người Pháp quay sang ý đồ đưa cái ngai đó cho Hồ Chí Minh vì thấy ông ta còn dễ chịu hơn cả Bảo Đại hay những nhà ái quốc Việt Nam khác như Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Trần Trọng Kim, Trương Tử Anh, Nguyễn Hải Thần, và nhất là Ngô Đình Diệm.

 

Tổng thống Pháp De Gaule quyết định mở cuộc thương lượng với ông Hồ Chí Minh, là người đang cầm đầu chính quyền tại Hà Nội, để thuyết phục ông ta chấp thuận cho quân đội Pháp được đổ bộ lên Bắc Việt để thiết lập lại các tổ chức cai trị của Pháp trước đây.

 

Trước khi nói chuyện với Hồ Chí Minh thì người Pháp phải nói chuyện với 180.000 tay súng đang làm chủ tình hình tại Bắc Việt Nam.  Đó là đội quân của ông Tưởng Giới Thạch.  Do đó De Gaule cho tiến hành song song hai nhánh tiếp xúc, một nhánh tiếp xúc với ông Tưởng Giới Thạch và một nhánh tiếp xúc với ông Hồ Chí Minh.

 

Hồ Chí Minh tiếp xúc với đại diện của Pháp

 

Năm 1946, ngày 16-2, Hồ Chí Minh tiếp trung Tá Sainteny là đại diện của Chính phủ Pháp.  Hồ Chí Minh thỏa thuận trên nguyên tắc rằng quân Pháp được quyền trở lại Việt Nam và Việt Nam sẽ nằm trong Liên Hiệp Pháp.  Ngày 19-2, Sainteny lại gặp Hồ Chí Minh và đề nghị chuyện Pháp sẽ đổ quân lên Bắc Việt.

 

Theo hồi ký của Bảo Đại thì ông được biết chuyện Hồ Chí Minh bắt buộc phải thỏa hiệp với Pháp qua lời tâm tình củaVõ Nguyên Giáp. Ông Giáp đã tự tìm đến nhà Bảo Đại và thái độ của ông ta được kể lại tỉ mỉ:

 

“ Một tuần sau, trong khi tôi đang ăn sáng thì có người gõ cửa, đó là Võ Nguyên Giáp. Ông ta bảo với tôi rằng:  – Cần phải thực tế, thưa ngài.  Ông ta trả lời nhưng đầu vẫn cúi xuống.   – Anh định nói gì?   – Tôi muốn nói là, cần phải chịu thằng Pháp vậy…

 

 Trước câu trả lời lạ lùng đó, tôi kêu lên:   – Thật tôi không thể hiểu nổi các anh.  Tôi nhận độc lập từ tay Nhựt.  Tôi thoái vị.  Tôi rời khỏi quyền hành cho các anh, thế mà bây giờ, các anh lại đi thụt lùi…

 

 – Làm cách nào bây giờ thưa ngài? … Chúng ta làm cách nào để chống lại đây?  Chúng ta có quân đội nhưng không có đạn ( Con Rồng Việt Nam, trang 229).

 

Khi hồi ký của Bảo Đại xuất bản thì Võ Nguyên Giáp còn sống mạnh khỏe, và ông Giáp không hề lên tiếng bác bỏ chi tiết này, vậy thì chuyện này có thật. Không cần lời thổ lộ của Võ Nguyên Giáp thì ai cũng thấy rõ là quân Pháp sẽ tái chiếm Bắc Việt và người Việt không làm gì được vì không có súng đạn.

 

Năm 1946, ngày 23-2, lúc 7 giờ sáng, Hồ Chí Minh đến chỗ cư ngụ của Bảo Đại và đề nghị Bảo Đại lập chính phủ để đứng ra điều đình với Pháp về chuyện quân Pháp sẽ đổ bộ lên Bắc Việt.  Bảo Đại nói rằng ông cần bàn bạc với một số nhân vật chính trị khác tại Hà Nội trước khi trả lời ông Hồ.

 

Lúc 8 giờ 30, Bảo Đại họp với Trần Trọng Kim và những chính trị gia “không Cọng sản”.  Lúc 10 giờ, Hồ Chí Minh lại một lần nữa gọi điện thoại thúc giục.  Lúc 12 giờ trưa, sau khi bàn thảo, Bảo Đại thông báo cho Hồ Chí Minh là ông chấp nhận đứng ra lập chính phủ mới để nói chuyện với Pháp.  Tuy nhiên đến 1 giờ trưa thì Hồ Chí Minh mời Bảo Đại đến gặp ông ta và thông báo là ông ta xin rút lại đề nghị trước đó (Hồi ký Bảo Đại).

 

* Chú giải :  Hồi ký của Bảo Đại cho biết ông không hiểu chuyện gì đã xảy ra trong khoảng thời gian từ 10 giờ sáng cho tới 1 giờ trưa khiến cho Hồ Chí Minh đổi ý.  Theo dự đoán của Bảo Đại thì có lẽ trước đó người của các đảng phái khác như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh…không chịu ký vào hiệp định này vì có thể bị coi là phản quốc cho nên Hồ Chí Minh và bộ tham mưu của ông ta cũng không dám.  Vì vậy Hồ Chí Minh đẩy Bảo Đại ra đứng mũi chịu sào trước dư luận quần chúng.

 

Nhưng về lý do tại sao Hồ Chí Minh rút lại đề nghị thì Bảo Đại cho rằng có lẽ Tướng Tiêu Văn và Lư Hán đã ăn tiền của phe Hồ Chí Minh nên buộc Vũ Hồng Khanh phải cùng chịu ký chung với Hồ Chí Minh trong bản thỏa hiệp này, vì vậy mà Hồ Chí Minh yên tâm không có sự phản đối nên rút lại lời đề nghị.

 

Dự đoán của Bảo Đại hoàn toàn không đúng, bởi vì so lại với sưu tập báo chí của Đoàn Thêm thì Tướng Lư Hán về Trung Hoa ngày 26-1-1946, và Tướng Tiêu Văn được gọi về đột ngột là ngày 23-2-1946.  Như vậy áp lực của Lư Hán và Tiêu Văn trong chuyện ký hiệp định vào ngày 6-3-1946 là không có.

 

Tuy nhiên chi tiết Tiêu Văn được gọi về Trung Hoa đúng ngay vào vào ngày 23-2-46 có thể giải thích được nguyên do thay đổi ý kiến của Hồ Chí Minh trong ngày 23-2-46 :  Trước đó, từ ngày 16-2 Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với Sainteny về việc ký hiệp định do phía Pháp đề nghị.  Dĩ nhiên để làm áp lực cho Hồ Chí Minh chịu ký thì Saiteny phải thông báo cho các ông biết rằng Pháp đang điều đình với Tưởng Giới Thạch để quân Trung Hoa rút về.

 

Lâu nay Hồ Chí Minh đã dựa vào thế của Tiêu Văn mà làm mưa làm gió trên chính trường Việt Nam, kể cả dùng áp lực của Tiêu Văn mà giải tán Đảng Cọng sản của Trường Chinh.  Do đó nếu quân Tàu rút đi thì quân Pháp sẽ ung dung đổ bộ vào, có ngăn cản cũng vô ích vì không có súng đạn.

 

Vậy nếu muốn tiếp tục được công nhận là chính phủ đại diện cho dân tộc Việt Nam thì chỉ có nước là bắt tay với Pháp.  Hễ Pháp công nhận chính phủ Việt Minh đại diện cho dân tộc Việt Nam thì Hồ Chí Minh vẫn là quốc trưởng của Việt Nam.

 

Ngược lại nếu Pháp bắt tay đàm phán với Bảo Đại thì Bảo Đại sẽ trở thành quốc trưởng Việt Nam.  Hay là Pháp bắt tay đàm phán với Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam … thì chính phủ của Nguyễn Hải Thần, Nguyễn tường Tam sẽ trở thành tổ chức đại diện cho dân tộc Việt Nam.

 

Áp lực phủ phàng của Pháp khiến cho nội bộ Việt Minh bối rối.  Họ nghĩ rằng có thể quân Trung Hoa sẽ rút khỏi Việt Nam.  Tuy nhiên trong hiện tại thì quân đội Trung Hoa vẫn còn đó và Tướng Tiêu Văn cũng còn đó.  Nếu Việt Minh ký thỏa ước chấp thuận cho quân Pháp trở lại Việt Nam trong khi quân Trung Hoa vẫn còn làm chủ tình hình tại Việt Nam thì hóa ra Việt Minh rước quân Pháp vào để đuổi quân Trung Hoa?!  Trong trường hợp đó thì Tướng Tiêu Văn sẽ vặn cổ HCM vì ông ta đã phản bội.

 

Vì vậy, có một cách hay nhất là đưa Bảo Đại ra làm trái độn, Bảo Đại sẽ nhân danh Việt Minh thành lập một chính phủ mới và ký hiệp ước với Pháp.  Trong khi đó HCM vẫn nắm toàn bộ binh lực hiện có của lực lượng cách mạng Việt Nam.  Làm như thế thì người Pháp sẽ không thể ký với phe không Cọng sản như Trần Trọng Kim, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần vì đã ký với Bảo Đại rồi.

 

Vì vậy mà Hồ Chí Minh đích thân đến nhà của Bảo Đại để yêu cầu Bảo Đại đứng ra lập chính phủ mới vào lúc 7 giờ sáng ngày 23-2-46.  Tuy nhiên sau 10 giờ sáng hôm đó thì nhân viên tình báo từ phi trường cho biết Tiêu Văn đã ra phi trường về Trung Hoa, với toàn bộ nhân viên tùy tùng và tư trang hành lý, thì  hóa ra chuyện mà Sainteny nói trước là có thật.  Vì vậy không cần phải đưa Bảo Đại làm trái độn nửa.

 

Năm 1946, ngày 28-2, Trung Hoa và Pháp ký Hiệp ước.  Pháp trao trả nhượng địa Quảng Châu Loan và Tưởng Giới Thạch rút quân ra khỏi Việt Nam.

 

Năm 1946, ngày 2-3, Quốc hội nhóm họp, cử ra một “Chính phủ Liên Hiệp Kháng chiến” và một “Ủy ban Kháng chiến”.  Chính phủ do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, Nguyễn Hải Thần làm Phó, Huỳnh Thúc Kháng Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Nguyễn Tường Tam Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Võ Nguyên Giáp Chủ tịch Ủy ban kháng chiến và Vũ Hồng Khanh Phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến.

 

BÙI ANH TRINH

 

*Chú thích của người viết :

 

 Đầu năm 2015 ông Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng hô hào “Học tập theo gương đạo đức Hồ Chí Minh”.  Nghĩa là ông HCM đã chết nhưng tư tưởng của ông ta còn sống.  Hoặc nói một cách văn hoa là ông ta chết nhưng mà chưa chôn.  Vậy nên người đào bới lịch sử có nhiệm vụ phải mai táng ông HCM cho kỹ càng để môi trường lịch sử Việt Nam được trong sạch.

 

Trong bài viết trên đây có 4 tấm gương đạo đức của ông HCM mà người Việt không nên học tập :

 

(1).  Mỹ vào Hà Nội thì HCM theo Mỹ.  Mỹ đi Tàu vào thì HCM theo Tàu.  Tàu đi Pháp vào thì HCM theo Pháp.  Sau này Pháp đuổi HCM lên rừng thì HCM theo Mao Trạch Đông.  Rồi Mao Trạch Đông sai ông đánh Mỹ cho tới người Việt Nam cuối cùng thì ông ta cũng đánh.  Vậy có phải là bất lương hay không ? ( Tráo trở vô lương ).

 

(2). Bắt tay với Pháp thì sợ chúng chưởi cho nên HCM đẩy Bảo Đại ra chịu đòn thay cho mình.  Sau lại lừa Bảo Đại ra khỏi nước rồi không cho về.  Lại còn chưởi Bảo Đại là trốn ra nước ngoài ăn chơi. ( Lưu manh ).

 

(3).  Lúc Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam, vua Bảo Đại tuyên bố Việt Nam độc lập, hủy bỏ các hiệp ước bất công giữa Triều Nguyễn và thực dân Pháp.  Thế mà chính HCM viết sách tố điêu rằng : “Bảo Đại tuyên bố bỏ chủ cũ thay chủ mới”.

 

Giờ đây chinh ông ta mới là “bỏ chủ Tàu bắt tay với kẻ thù thực dân Pháp”.( Phản quốc).

 

 

(39) HỦY BỎ LỜI TUYÊN BỐ ĐỘC LẬP

 

 

“…đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ( Nguyễn Phú Trọng, 2015 )

 

Thỏa ước Sơ Bộ mùng 6 tháng 3

 

Năm 1946, ngày 6-3, Hồ Chí Minh ký với đại diện Cao ủy Pháp là Sainteny một thỏa ước tạm thời, gọi là “Thỏa ước Sơ Bộ”:

 

(1). Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là quốc gia Tự Do, có chính phủ, quốc hội, quân sự và tài chánh riêng biệt. Nằm trong Liên Bang Đông Dương và ở trong Liên Hiệp Pháp. Việc thống nhất 3 Kỳ sẽ do trưng cầu dân ý.  (2). Chính phủ Việt Nam tuyên bố sẳn sàng tiếp đón quân đội Pháp vào thay thế quân Tàu.

 

Ngoài ra hai bên còn ký một hiệp ước phụ:

 

(1).Việt Nam có quân đội 10.000 quân do sĩ quan Việt Nam chỉ huy. Pháp có 15.000 quân, kể cả quân có sẳn ở phía bắc vĩ tuyến thứ 16.  (2). Những đơn vị quân Pháp có trách nhiệm canh giữ tù binh Nhật phải rút về nước trong vòng 10 tháng.  Quân còn lại sẽ rút đi trong vòng 5 năm, mỗi năm rút 1/5 tổng số quân.  (3). Pháp không được dùng quân Nhật cho mục tiêu quân sự của mình.

 

* Chú giải : Ông Hồ Chí Minh hủy bỏ lời tuyên bố độc lập

 

Trước khi thỏa ước được ký kết, Sainteny đã tường trình lên cấp trên về những thỏa thuận của HCM trong cuộc tiếp xúc mật trước đó 20 ngày :

 

“Ông Hồ Chí Minh thôi hẵn không dùng từ “độc lập” nữa… … càng nên làm ngay vì có một cái lợi đáng kể là không cần phải nhắc tới từ “độc lập” nữa… …Ông Hồ Chí Minh lần đầu tiên mong muốn cuộc hội đàm giữa ông với Sainteny được giữ bí mật (sic). ( Tài liệu của sử gia Philippe Devillers “ Paris, Saigon, Hanoi”, bản dịch của Hoàng Hữu Đản trang 165, 166 ).

 

Phân tích kỹ tinh thần thỏa ước 6-3 thì phía Pháp vẫn tránh né dùng chữ “Độc Lập” (Independence) mà chỉ dùng chữ “Tự Do” (Liberty).  Về phía Hồ Chí Minh thì chấp nhận cho Pháp đem 15.000 quân vào Bắc Việt Nam để giải giới quân Nhật, rồi sau 5 năm sẽ rút hết số quân này.  Và chấp nhận Việt Nam trở thành 3 Tiểu bang của Liên Bang Đông Dương gồm 5 Tiểu bang là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Căm Bốt và Lào.

 

Chính ông Hồ Chí Minh đã ký văn kiện chấp nhận Việt Nam chỉ Tự Do trong Liên Hiệp Pháp cho nên hai chữ Độc Lập mà ông tuyên bố vào ngày 2-9-1945 đương nhiên không còn giá trị.  Lúc ký văn kiện này thì ông có đầy  đủ tư cách pháp nhân vì  ông đang cầm đầu một  chính phủ do Quốc hội  đề cử.  Quốc hội này đã được dân chúng bầu lên vào ngày 6-1-1946.

 

Hồi ký của Nguyễn Tường Bách ( em ruột của Nguyễn Tường Tam) ghi lại phản ứng của đảng viên Việt Quốc khi nghe tin ký Hiệp định với Pháp:  “Phản ứng của một số anh em trong Việt Quốc thực là kịch liệt.  Ở trong vừa triệu tập Trung ương cấp thời, thì thấy ở ngoài có tiếng ồn ào.  Tôi vội chạy ra.  Từ cửa bước vào độ hai chục anh em, già có, trẻ có hô lên:  “Phản đối hiệp định đầu hàng, phản đối quân Pháp đổ bộ”.  Vài ủy viên trung ương vừa giải thích là Trung ương Đảng họp hội đồng để bàn, thì hai người xua tay ngay:  “Hội đồng là hội đồng chuột!…”.  Chưa bao giờ tôi thấy đảng viên quần chúng mà lại công kích trung ương như vậy”.

 

Sau đó thì một số người Việt Quốc, trong đó có Nguyễn Tường Bách, tổ chức biểu tình phản đối Hiệp định.  Công an Việt Minh giải tán đám biểu tình, xảy ra xô xát.  Có 5 người bị bắt và tòa án Việt Minh kết án mỗi người mấy tháng tù .

 

Năm 1946, ngày 6-3, trong khi Pháp và Hồ Chí Minh đang ký Hiệp ước tại Hà Nội thì Tướng Leclerc của Pháp cho đổ quân xuống Hải Phòng.  Mặc dầu Tưởng Giới Thạch đã ký Hiệp ước rút quân với Pháp nhưng các tướng lãnh Trung Hoa tại Hải Phòng cho rằng phải chờ lệnh của Tổng Tư lệnh Đồng Minh là Tướng Mac. Arthur.

 

Tuy nhiên quân Pháp vẫn đổ bộ, quân Trung Hoa nổ súng, có 24 binh lính Pháp bị chết. Đến ngày 13-3 mới có lệnh chính thức của Tưởng Giới Thạch, ra lệnh cho quân Trung Hoa phải để cho quân Pháp đổ bộ còn quân Trung Hoa chuẩn bị rút về nước.

 

Năm 1946, ngày 13-3, Vụ trưởng Vụ Á-Úc tại Quai d’Orsay ( Phủ Thủ tướng Pháp ) đã gởi một văn thư cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Georges Bidault:  “Chính phủ Pháp ngạc nhiên về việc đưa tin quá chậm trễ, càng sửng sốt và xúc động khi đọc đến các điều khoản của Thỏa ước này:  quy định rút quân đội Pháp ra khỏi các miền của Việt Nam mỗi năm là 1/5,  liên tục trong thời hạn 5 năm thì hết” (Hsltr/Quốc gia Pháp).

 

Văn thư này chứng minh rằng Thỏa ước Sơ bộ chỉ là màn kịch do Toàn Quyền D’Argentlieu và Bộ trưởng bộ Ngoại giao Georges Bidault đạo diễn mà ngay cả Thủ tướng nước Pháp cũng không hay biết.

 

Cũng trong ngày này Bộ trưởng Bộ Thuộc địa chỉ thị cho D’Argenlieu về vấn đề  sẽ có trưng cầu dân ý về việc sát nhập Nam Kỳ vào nước Việt Nam:  “ chúng ta có thể tổ chức một chiến dịch tuyên truyền nhằm ngăn cản không cho nó sát nhập với Bắc Kỳ, dưới khẩu hiệu “Nam Kỳ của người Nam Kỳ” (Hsltr/Quốc gia Pháp).

 

Năm 1946, ngày 17-3, Cao ủy D’Argenlieu nhờ Sainteny chuyển cho ông Hồ Chí Minh một bức thư , đề nghị được nói chuyện với Hồ Chí Minh trên chiếc tuần dương hạm Emile-Bertin đậu gần cảng Hải Phòng vào ngày 24-3.  Trong thư nói rõ :  “Tất nhiên Ngài sẽ được đón tiếp với tất cả những nghi thức long trọng xứng đáng, có đại bác bắn chào mừng, có hàng rào danh dự, có những tiếng tung hô v.v…”(Hsltr/Quốc gia Pháp).

 

* Chú giải : Có rất nhiều sử gia đọc đoạn thư này nghĩ rằng Argenlieu coi khinh con người của ông Hồ Chí Minh, Argenlieu cho rằng ông Hồ ham thích được hưởng lễ nghi vinh quang.  Không ai tin Argenlieu bởi vì HCM không thể nào tệ mạt như vậy được.  Nhưng không ngờ sau đó 1 năm, ông Hồ Chí Minh đã viết trong tự truyện của mình dưới tên Trần Dân Tiên:

 

“Rồi cuộc gặp gỡ giữa Hồ Chủ tịch và Đô đốc Đác-giăng-li-ơ tại vịnh Hạ Long với nhiều nghi thức long trọng :  hai mươi mốt phát đại bác chào khi Hồ Chủ tịch đến, hai mươi mốt phát đại bác chào khi Hồ Chủ tịch đi, hạm đội Pháp duyệt binh, v.v…”.

 

Ngoài ra ông D’Argenlieu còn ghi vào nhật ký của ông sau khi gặp Hồ Chí Minh:  “Khi tôi nói lên niềm vui của tôi được thấy mối tình bạn truyền thống giữa nước Pháp và nước Việt Nam phục hồi, ông Hồ Chí Minh đáp lại ngay:  “Vâng, thưa ông Cao ủy, tình bạn giữa hai dân tộc, nhưng mà nó sẽ phải trở thành tình anh em”.  Tôi đã gật đầu một cách lịch sự và mĩm cười” ( Tư liệu của Devillers trong tác phẩm Paris-Saigon-Hanoi).  Argenlieu cười mũi vào cái tình anh em của ông Hồ Chí Minh, có nghĩa là ông ta thừa biết là bác Hồ Chí Minh đang đóng kịch.

 

Năm 1946, ngày 16-3, Bảo Đại dẫn một phái đoàn sang thăm hữu nghị nước Trung Hoa.  Nghiêm Kế Tổ làm Phó trưởng đoàn nhưng người thực sự có quyền trong đoàn là Hà Huy Giáp.

 

* Chú giải :  Sau này trong một bài tùy bút, Nguyễn Tường Tam cho biết chuyện cử Bảo Đại sang Trung Hoa là âm mưu của chính ông,  ông muốn gửi Bảo Đại sang Trung Hoa để hiệp với Tưởng Gới Thạch mà lật đổ Cọng sản Việt Nam.  Lúc đó Nguyễn Tường Tam là bộ trưởng bộ Ngoại giao của chính phủ Hồ Chí Minh, chính phủ chưa được quốc gia nào công nhận nên ông xúi Hồ Chí Minh để cho Bảo Đại sang thăm Trung Hoa, nếu được Tưởng giới Thạch đón thì kể như Trung Hoa công nhận chính phủ Hồ Chí Minh.

 

Mặc dầu thuyết giải cho HCM như vậy nhưng trong thâm tâm Nguyễn Tường Tam biết lúc đó Tưởng Gới Thạch đang căm hận Cọng sản cho nên Tưởng Giới Thạch sẽ thừa dịp này mà mưu với Bảo Đại và Nghiêm Kế Tổ tìm cách đưa Bảo Đại về lật đổ HCM.  Để hỗ trợ cho âm mưu này, Nguyễn Tường Tam sắp xếp cho Nghiêm Kế Tổ là một lãnh tụ của VNQDĐ đi theo.

 

Tuy nhiên theo hồi ký của Bảo Đại thì khi ông tới Trùng Khánh chỉ được Thống chế Tưởng Giới Thạch mời riêng đến dự tiệc khoản đãi tại tư dinh của Thống chế, sau đó thì cả phái đoàn xin được tiếp kiến nhưng viên Bí thư của Tưởng Giới Thạch cho biết rằng chính phủ không thể tiếp những người Cọng sản (!).

 

Năm 1946, ngày 15-4.  Sau khi hoàn tất cuộc thăm viếng chính phủ Trung Hoa, Bảo Đại cùng phái đoàn ra phi trường Côn Minh để lên máy bay về nước thì người ta đưa cho ông một bức điện tín của HCM:  “Thưa ngài, công việc ở đây đang tốt đẹp.  Ngài có thể đi chơi nữa.  Hơn nữa, ngài sẽ rất có ích cho chúng tôi nếu vẫn ở lại bên Tàu.  Ôm hôn thắm thiết.  Ký tên Hồ Chí Minh” (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam trang 241)!

 

Một lần nữa Bảo Đại đối diện với thủ đoạn của Hồ Chí Minh, ông ta bắt buộc Bảo Đại phải lưu vong, không được trở về nước.  Nhưng ông thực sự bối rối vì lúc đó chỉ có một mình ông ngồi lại phi trường Côn Minh mà không một xu dính túi.  Va ly hành lý thì gởi theo kiện hàng về nước của phái đoàn rồi.  Không có cả một tờ giấy tùy thân, không có quần áo để thay.  Ông thò tay vào túi móc bức điện ra và đọc lại một lần nữa, hàng chữ “Ôm hôn thắm thiết” như nhảy múa trước mắt ông.  Lúc đó ông vừa mới 33 tuổi (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, trang 243).

 

Năm 1946, tháng 4, đang bối rối tại phi trường Côn Minh, Bảo Đại được một người Trung Hoa từng du học tại Pháp chú ý và hỏi thăm.  Bảo Đại giấu gốc gác của mình, chỉ cho biết vì hoàn cảnh chính trị mà bị bỏ rơi tại phi trường với hai bàn tay không.  Người này mời Bảo Đại về tạm trú tại nhà của ông ta trong khi chờ đợi Bảo Đại liên lạc với gia đình để xin tiền trợ giúp.

 

Năm 1946, ngày 15-9, sau khi nhận được tiền của gia đình, Bảo Đại thử liên lạc với Hồ Chí Minh nhưng chỉ có sự im lặng.  Ông bèn quyết định sống cuộc đời lưu vong tại Hồng Kông.  Bảo Đại có nhà riêng tại Pháp nhưng ông không thể trở về đó vì đối với Pháp thì ông là một kẻ phản bội, theo Nhật hủy bỏ Hiệp ước Bảo hộ của Pháp.

 

Thế là từ đó báo chí của Việt Minh tố cáo ông đào ngũ, sống cuộc đời ăn chơi tại Hồng Kông.  Còn báo chí của người Pháp cũng không tiếc lời nguyền rủa ông đã theo Nhật hủy bỏ Hiệp ước Bảo hộ mà triều đình Việt Nam ký với Pháp trước kia.

 

Lúc hồi ký của Bảo Đại ra đời thì hầu hết các lãnh tụ CSVN đều còn sống mạnh khỏe, thế nhưng không có một ai lên tiếng phản bác.  Chứng tỏ là chuyện có thật.

 

BÙI ANH TRINH

 

*Chú thích của người viết :

 

 Đầu năm 2015 ông Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng hô hào “Học tập theo gương đạo đức Hồ Chí Minh”.  Nghĩa là ông HCM đã chết nhưng tư tưởng của ông ta còn sống.  Hoặc nói một cách văn hoa là ông ta chết nhưng mà chưa chôn.  Vậy nên người đào bới lịch sử có nhiệm vụ phải mai táng ông HCM cho kỹ càng để môi trường lịch sử Việt Nam được trong sạch.

 

Trong bài viết trên đây có 6 tấm gương đạo đức của ông HCM mà người Việt không nên học tập :

 

(1).  Chính HCM dưới tên Trần Dân Tiên đã viết rằng’ “Ngày 10-3-1945 Nhật tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam”.  Vậy mà sau này HCM nói với toàn dân rằng chính ông ta đã tuyên bố độc lập vào ngày 2-9-1945.  Và rồi đến ngày 6-3-1946 lại ký một văn kiện thừa nhận Việt Nam chỉ là môt quốc gia “tự do” chứ không phải “độc lập”. ( Gian manh ).

 

(2). HCM bỏ tù những người yêu nước biểu tình phản đối bắt tay với thực dân Pháp. ( Phản quốc ).

 

(3). Ngày 6-3-1945 HCM ký hiệp ước bắt tay với thực dân Pháp, nhưng ngày 16-3-1945 lại cử phái đoàn sang cầu cạnh Tàu.  ( Xảo quyệt ).

 

(4). HCM ham vinh hoa phú quý đến độ Toàn quyền Pháp nói như mắng vào mặt thế mà cứ nhơn nhơn nhận lời.  Đã vậy lại còn viết sách trâng tráo khoe mẻ mà không hề biết ngượng. ( Vô liêm sỉ )

 

(5) Lừa con người ta ra nước ngoài, rồi bắt con người ta phải lưu vong, mà không chừa cho một đồng xu hay một bộ áo quần.  Đã vậy lại còn xỏ lá “Ôm hôn thắm thiết “ ( Lưu manh hạ cấp ).

 

(6). Đã đuổi con người ta ra khỏi nước lại còn đổ cho con người ta trốn ra nước ngoài ăn chơi. ( Điếm đàng ).

 

(40) LÉN KÝ HIỆP ƯỚC BÁN NƯỚC

 

 

Hội nghị Fountainebleau

 

Năm 1946, ngày 27-5, Hồ Chí Minh lên đường sang Pháp để dự hội nghị đàm phán theo tinh thần “Hiệp định sơ bộ” 6-3-1946.  Trong đoàn có Phạm Văn Đồng làm phụ tá cho Hồ Chí Minh.  Các chuyên gia tham dự trong phái đoàn gồm có Trần Ngọc Danh, Phan Anh, Trịnh Văn Bính, Tạ Quang Bửu, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Mạnh Hà, Bửu Hội, Nguyễn Văn Huyên, Huỳnh Thiện Lộc, Dương Bạch Mai, Chu Bá Phượng, Đặng Phúc Thông, Nguyễn Đệ. ( Chỉ có Trần Ngọc Danh và Dương Bạch Mai là Cọng sản ).

 

*Chú giải :  Khi Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng lên đường thì giao cho Võ Nguyên Giáp lãnh đạo về chính trị và an ninh quân sự.  Phụ giúp VNG là Vũ Anh, Cao Hồng Lãnh, Trần Huy Liệu, Bùi Đức Minh, Trần Ngọc Tuân và các sĩ quan trong nhóm Thiết Huyết.  Còn Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Văn Hoan, Trần Đăng Ninh,  phụ trách vấn đề thuế quan và tài chánh.  Tất cả những người này thuộc Việt Minh Hội từ bênTàu về.

 

Còn “Nhóm nghiên cứu Mác xít” (ĐCSVN) của Đặng Xuân Khu, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Lê Văn Lương chỉ phụ giúp Trần Huy Liệu trong công tác vận động tuyên truyền.  Đặc biệt ông HCM dẫn theo hai ông trùm CS Trần Ngọc Danh và Dương Bạch Mai vì sợ hai ông này ở lại sẽ vận động lập lại ĐCSVN và lấy lại quyền lực trong tay Võ Nguyên Giáp.

 

Năm 1946, ngày13-9.  Sau 3 tháng rưởi trường kỳ thương lượng,  hội nghị Fontainebleau bế tắc vì Pháp chẳng những không muốn giao trả Nam Kỳ mà cũng không muốn giao trả cả Bắc và Trung Kỳ vì quân của họ đã chiếm xong toàn Việt Nam.  Phạm Văn Đồng dẫn phái đoàn về trước.  Riêng ông Hồ Chí Minh ở lại với hai ông trùm Cọng sản là Trần Ngọc Danh và Dương Bạch Mai.  Ngoài ra còn có giáo sư Hoàng Minh Giám thuộc đảng Xã Hội Việt Nam.

 

Hiệp ước bán nước

 

Năm 1946, ngày 14-9, một ngày sau khi Phạm Văn Đồng và phái đoàn lên đường trở về.   Ông Hồ Chí Minh dẫn theo ông Hoàng Minh Giám đang đêm đến nhà riêng của Bộ trưởng bộ Thuộc địa Pháp Moutet để cố kiếm cho được một văn bản, bất cứ văn bản gì ( Hồi ký của Sainteny ).  Giáo sư Hoàng Minh Giám làm thông dịch viên và soạn văn bản bởi vì HCM không đủ trình độ Pháp văn về chính trị ( Nhờ công này nên khi trở về nước HMG được HCM cử làm Bộ trưởng ngoại giao của chính phủ Việt Minh ).

 

Năm 1946, ngày 15-9.  Lúc 1 giờ sáng, Moutet ký với HCM một “Bản tạm ước” mà không cần hỏi ý kiến của Chính phủ Pháp vì nó không khác gì các chủ trương hiện thời của chính phủ.  Theo đó thì việc chủ quyền của Nam Kỳ được bỏ lững và cuộc trưng cầu ý kiến của Nam Kỳ không còn nhắc đến nữa.  Điểm quan trọng duy nhất của bản tạm ước là:  “ Sẽ cùng nhau tìm cách đạt được mọi thỏa thuận về các vấn đề có thể được đặt ra.”

 

Theo như lời kể lại của Moutet với ký giả Devillers thì lúc ký thỏa ước tạm ông đang mặc đồ ngủ, trước khi ký ông có gọi điện thoại hỏi ý kiến của Thủ tướng Pháp Georges Bidault ( Devillers; “Paris,Saigon, Hanoi” ).

 

Năm 1946, ngày 16-9, Hồ Chí Minh họp báo công bố bản thỏa ước tạm.   Đến lúc này Trần Ngọc Danh và Dương Bạch Mai mới biết ông HCM lén hai ông đi ký hiệp ước mà không hề bàn bạc trước và không cho hai ông đi theo. ( Thư tố cáo của Trần Ngọc Danh gởi cho Stalin ngày 10-1-1950 ).

 

Theo tự truyện của Hồ Chí Minh dưới tên Trần Dân Tiên:  “Sau khi ký bản tạm ước, báo chí Pháp  và quốc tế có đến phỏng vấn, Hồ Chủ tịch trả lời:  Hai vấn đề chính:  thống nhất và độc lập của Việt Nam chưa được giải quyết dứt khoát.  Nhưng một bản tạm ước còn hơn không có điều ước gì cả” (sic).

 

Năm 1946, ngày 19-6, Hồ Chí Minh nhờ Trần Ngọc Danh, Dương Bạch Mai và Hoàng Minh Giám tiếp tục ở lại Paris để làm đầu cầu liên lạc với chính phủ Pháp.  Sau đó ông quá giang một tàu của Hải quân Pháp đuổi theo phái đoàn của Phạm Văn Đồng.  Trong khi đó dư luận quốc tế đinh ninh là bản hiệp ước nằm trong túi HCM là kết quả 4 tháng đàm phán của phái đoàn thương thuyết Việt Nam.

 

* Chú giải :  Sở dĩ HCM gài cho các ông Trần Ngọc Danh, Dương Bạch Mai và Hoàng Minh Giám ở lại là vì sợ các ông về nước sẽ lòi ra HCM ký hiệp ước mà không có ai đi theo, không có ai chứng kiến, tức là bán nước.

 

Thâm độc hơn nữa là khi về đến Việt Nam ông HCM phao tin Trần Ngọc Danh và Dương Bạch Mai đã phản bội nên ông không cho hai ông về nước, buộc phải sống lưu vong. ( Đến năm 1949 Pháp trở mặt với HCM bắt giam hai ông nhưng TND thoát được qua Tiệp Khắc, DBM bị giải về VN và đưa đi đày tại Kontum.  Còn Hoàng Minh Giám được trở về nước vào tháng 11-1946 để nhận chức Thứ trưởng Ngoại giao và sang năm sau giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao ).

 

Gọi là hiệp ước bán nước bởi vì nó được ký kết trong một điều kiện mờ ám, tại nhà riêng, vào ban đêm;  không có một viên chức cao cấp nào của Chính phủ Việt Nam, cũng không có một nhân viên văn phòng nào của ông Bộ trưởng Pháp.  Những gì hai bên thương lượng với nhau hoàn toàn không có ai chứng kiến.

 

Có Trời mới biết hai bên đã thỏa thuận với nhau những gì. Nhưng chắc chắn phải là thỏa thuận bất lợi cho đất nước Việt Nam.  Nếu không tại sao ông HCM không dám thương lượng công khai và ký kết công khai?  Trong khi trước đó phái đoàn thương thuyết của chính phủ Việt Minh đã kiên quyết không nhượng bộ.

 

Rõ ràng ông Hồ Chí Minh đã đơn phương nhượng bộ một số điều kiện nào đó nhằm bảo vệ địa vị làm vua của ông ta ( Thà làm Chủ tịch bù nhìn cho Pháp còn hơn trở về quê với tư cách của một người hầu bàn trên tàu buôn ). Còn ông Hoàng Minh Giám được giao cho chức Bộ trưởng Ngoại giao là để bịt miệng về những gì đã thỏa thuận tại nhà riêng của Bộ trưởng Moutet.

 

Năm 1946, ngày 23-10, mặc dầu Võ Nguyên Giáp đã thanh toán hết các lực lượng đối nghịch là Việt Quốc và Việt Cách nhưng vẫn còn nhiều người thuộc các đảng phái không Cọng sản biểu tình thóa mạ Bản Tạm ước mà ông Hồ Chí Minh đã ký với Bộ trưởng bộ Thuộc địa Pháp.  Theo báo Cứu Quốc của Việt Minh số ra ngày 1-11-1946 thì có hơn 300 người chống đối bị bắt và bị đưa đi an trí.

 

Năm 1946, ngày 2-11, Hồ Chí Minh lập chính phủ mới vì các ông không Cọng sản trong chính phủ đã bị Võ Nguyên Giáp thanh toán hết. Một số lưu vong, một số mất tích . Chính phủ này mới thực là chính phủ Việt Minh vì không còn các đảng phái khác.  Ngày 9-11 Quốc hội nhóm họp để biểu quyết Hiến Pháp nước Việt Nam.  Tuy nhiên chỉ còn 242 dân biểu trên tổng số 444 dân biểu, số còn lại bị Võ Nguyên Giáp thủ tiêu hay bắt giam, một số chạy ra nước ngoài.

 

Sự thực của hội nghị Fountainebleau

 

Sau này không thấy sử gia nào thử tìm hiểu vì sao khi phái đoàn đi dự hội nghị bằng máy bay nhưng khi trở về thì lại đi trên 2 chiếc tàu thủy.  Thời gian phái đoàn lưu lại Pháp trong 3 tháng rưởi đủ để cho tình thế quân sự tại Đông Dương đã hoàn toàn đổi khác, rồi lại thêm 1 tháng đi tàu thủy nữa là vị chi hơn nửa năm tính từ ngày ký kết Thỏa ước Sơ bộ.  Hai nhân vật chính của Việt Minh là Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng cũng như hai nhân vật sừng sỏ của CSVN là Trần Ngọc Danh và Dương Bạch Mai bị vô hiệu hóa gần nửa năm trời.

 

Ông Hồ Chí Minh phải trở về với một bản tạm ước “dõm” nằm trong túi.  Khi đi thì đi cả đoàn bằng máy bay, khi về thì chỉ có một mình ông quá giang trên một chiếc tàu thủy của Hải Quân Pháp.  Thế nhưng trong tự truyện ký tên Trần Dân Tiên, ông lại huênh hoang:

 

“Chủ tịch về sau trên chiếc tàu chiến Đuy-mông-đuyết-vin (Duymont Duuurville) của Pháp.  Cách đây trên 30 năm, Chủ tịch đi Pháp, làm phụ bếp trên một chiếc tàu buôn.  Ngày nay Chủ tịch đi trên một chiếc tàu chiến, là thượng khách của nước Pháp”.  Không thấy ông nhắc tới cái ngày ông lên đường cùng với phái đoàn bằng máy bay .

 

Mỹ và Pháp đã bỏ lỡ cơ hội? :  trong sách Ho Chi Minh, A Life, sử gia William Duiker đã nhiều lần nhắc đi nhắc lại rằng Paris và Washington đã bỏ lỡ cơ hội không nắm tay Hồ Chí Minh khi ông này giơ tay cho họ bắt vào năm 1946.  Tuy nhiên nếu xét kỹ tình hình thời đó thì chuyện bắt tay này không thể nào xảy ra được.

 

Thời đó lực lượng vũ trang của HCM chưa có tới một tiểu đoàn, súng chưa có tới 500 cây thì làm sao cự lại gần 30.000 quân Pháp mới tái lập sau khi bị Nhật bắt làm tù binh.  Ngoài ra lúc đó còn  có 15.000 quân Pháp đang trên đường đến Việt Nam và chính phủ Pháp đã có kế hoạch chuyển thêm 70.000 quân trong năm 1946.  Với một lực lượng như thế thì người Pháp cần gì nắm tay ai ?

 

Hồi ký của Trung Tá tình báo Pháp Sainteny là người đứng ra điều đình với Hồ Chí Minh cho biết:  “Để đạt được mục đích đối với chúng tôi, Hồ Chí Minh đủ sáng suốt để không đòi hỏi quá nhiều như một số đối thủ của ông ta.  Trong khi những người này đòi độc lập hoàn toàn và dứt khoát như điều kiện tiên quyết để thương thuyết thì Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sàng bằng lòng với sự độc lập tương đối…” ( Jean Sainteny, Face à Ho Chi Minh, trang 57).

 

Và tự truyện của HCM dưới tên Trần Dân Tiên :  “Căn cứ theo hiệp định này, nước Việt Nam thừa nhận ở trong khối Liên hiệp Pháp, thừa nhận những quyền lợi về kinh tế và văn hóa Pháp tại Việt Nam…Đây là một lúc khá khó khăn cho Hồ chủ tịch.  Báo chí của Nguyễn Tường Tam và Nguyễn Hải Thần công kích Chủ tịch kịch liệt.  Vu cáo Chủ tịch đã để cho Pháp mua chuộc.  Nhân dân không bằng lòng, vì họ căm thù sâu sắc bọn Pháp thực dân”.

 

Đây là chính HCM thú nhận trên giấy trắng mực đen chứ không ai nói oan.  Ông ta đã đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân để duy trì quyền lợi riêng, hay nói cho rõ hơn là ông ta đã bán nước.  Vậy mà ông ta còn dám trơ tráo quay ngược trở lại chưởi  Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần… là “lũ bán nước”.

 

BÙI ANH TRINH

 

*Chú thích của người viết :

 

 Đầu năm 2015 ông Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng hô hào “Học tập theo gương đạo đức Hồ Chí Minh”.  Nghĩa là ông HCM đã chết nhưng tư tưởng của ông ta còn sống.  Hoặc nói một cách văn hoa là ông ta chết nhưng mà chưa chôn.  Vậy nên người đào bới lịch sử có nhiệm vụ phải mai táng ông HCM cho kỹ càng để môi trường lịch sử Việt Nam được trong sạch.

 

Trong bài viết trên đây có 6 tấm gương đạo đức của ông HCM mà người Việt không nên học tập :

 

(1). Một mình Chủ tịch nước nửa đêm lẻn đến nhà riêng của một ông Bô trưởng của nước thù địch để thương lượng mà không có ai chứng kiến thì rõ ràng là bán nước chứ không chạy chối đi đâu được.  Đã vậy lại còn bắt giam 300 người phản đối, nhưng những người phản đối lại là những người yêu nước ! ( Phản quốc ).

 

(2). HCM đi Paris để lấy tiếng khoe khoang mà không thấy được mưu đồ của Argenlieu là vô hiệu hóa chính phủ Việt Minh trong nửa năm trời để đưa quân tái chiếm toàn Việt Nam. ( Ngu dốt ).

 

(3). HCM dẫn theo hai ông trùm Cọng sản Trần Ngọc Danh ( em ruột Trần Phú ) và Dương Bạch Mai vì sợ hai ông này ở lại sẽ vận động khôi phục lại ĐCSVN, lật đổ cánh Việt Minh Hội, lấy lại quyền lực trong tay Võ Nguyên Giáp. Sau hội nghị thì tìm cách gài cho Trần Ngọc Danh và Dương Bạch Mai ở lại rồi về nước phao tin hai ông đã phản bội, buộc hai ông phải sống đời lưu vong. ( Nham hiểm ).

 

(4). Nửa đêm lén đến nhà riêng của một viên chức Pháp thò tay ký một bản hiệp ước có giá trị như tờ giấy lộn,  vậy mà còn trâng tráo tuyên bố là “còn hơn không có điều ước gì cả” ( Lưu manh ).

 

(5). Một mình một bóng quá giang trên một chiếc tàu Hải quân Pháp để về nước mà lại còn huênh hoang rằng “là thượng khách của nước Pháp”. ( Trơ trẻn ).

 

(6). Lén bán nước nhưng lại to họng chưởi những người yêu nước như Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần là “lũ bán nước”. ( Xảo trá ).

 

(41) THỰC LỰC CỦA HỒ CHÍ MINH VÀO NĂM 1946

 

 

Cờ đỏ sao vàng tung bay tên thủ đô nước Pháp

 

Năm 2000 Võ Nguyên Giáp cho xuất bản tác phẩm “Điện Biên Phủ, Điểm Hẹn Lịch Sử”, ông có thêm trong phần cuối sách một đoạn giải thích lại lý do phải ký Thỏa ước sơ bộ 6-3-1946:

 

“Hiệp định mồng 6 tháng 3 năm 1946.  Kẻ xâm lược buộc phải ký kết ngưng chiến, công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (sic).  Lá cờ Đỏ sao vàng của nước Việt Nam Dân Chủ Cọng Hòa tung bay trên thủ đô nước Pháp” (Bản in lần 2, trang 426).

 

Tuy nhiên các sử gia quốc tế không đồng ý với lối giải thích này: Thứ nhất, từ tháng 8 năm 1945 đến tháng 3 năm 1946 hai bên không có đánh nhau thì làm sao có chuyện Pháp bị buộc phải ngưng chiến?

 

Thứ hai văn kiện được hai bên ký kết ngày 6 -3- 46 chỉ công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do chứ không phải là một quốc gia độc lập. Vậy thì chính ông Hồ Chí Minh đã phủ nhận hai chữ “Độc Lập” mà ông từng hô hào vào ngày 2-9-1945. Đây cũng là bằng chứng cho thấy thời 1945-1954 lá cờ Đỏ sao vàng chưa phải là Quốc Kỳ của một quốc gia độc lập.

 

Thứ ba là “kẻ xâm lược” không bị buộc phải ký kết mà Hồ Chí Minh mới là người bị buộc.  Bởi vì kẻ xâm lược đang có 45 ngàn tay súng và đang kiếm tàu chở thêm 70 ngàn tay súng khác vào Việt Nam;  trong khi Võ Nguyên Giáp chỉ có  400 tay súng mà không có đạn ( Hồi ký của Võ Nuyên Giáp và hồi ký Bảo Đại ).

 

Thứ tư là lá cờ Đỏ sao vàng tượng trưng cho chính phủ Việt Minh có xuất hiện tại nước Pháp vào năm 1946 nhưng nó được treo ủ rũ trong một góc nhà có phái đoàn của Hồ Chí Minh tham dự hội nghị Fontainebleu chứ không hề có chuyện tung bay trên thủ đô nước Pháp.

 

Thứ năm là sau một lần được “tung bay” trong phòng hội đàm thì lá cờ Đỏ sao vàng phải cuốn lại và xếp xó vì quân Pháp đuổi Hồ Chí Minh chạy dài cho tới năm 1950 mới được Mao Trạch Đông dựng lại.

 

Phân tích thực lực của Hồ Chí Minh vào năm 1946

 

Tháng 7 năm 2013 lãnh tụ CSVN Trương Tấn Sang đến Washington với một món quà ý nghĩa, đó là bức thư của Hồ Chí Minh xin được theo Mỹ vào năm 1946.  Nhân dịp đó BBC online phỏng vấn sử gia Hoa Kỳ William Duiker.

 

 Với cuốn sách “Ho Chi Minh, A Life” William Duiker cho rằng Hoa Kỳ hay Pháp cứ tiếp tục nắm bàn tay của HCM năm 1945-1946 thì Việt Nam sau này không có ai theo Cọng sản….(sic).  Đó là một giả thuyết của một người ngoại quốc muốn tìm hiểu Việt Nam, họ cứ tập trung vào lãnh tụ HCM, họ đinh ninh rằng lúc đó HCM là Staline, Tito, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Fidel Castro…

 

Họ không thấy rằng những lãnh tụ như Staline, Mao… thực sự là Tổng bí thư Đảng Cọng sản của họ trong khi Hồ Chí Minh chưa bao giờ được nắm Tổng bí thư đảng cả.  Lực lượng hậu thuẩn của Staline, Mao, Tito, Fidel là kết quả biết bao nhiêu năm nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, gầy dựng cơ sở từ con số không.

 

Còn Hồ Chí Minh sau 33 năm ra khỏi nước, ông chưa có một tên quân nào và cũng không biết máu của người chiến sĩ cách mạng đổ ra tại Việt Nam ra sao.  Năm 1941, sau 30 năm lưu vong, ông ghé tạt qua căn cứ Pác Bó tại biên giới Việt- Trung trong vài tháng rồi sau đó lại sang Trung Hoa và bị bắt.

 

Mãi tới cuối năm 1944 ông mới trở về với 18 chuyên viên của Tưởng Giới Thạch.  Rồi ông lại sang Trung Hoa gặp Tiêu Văn và trở về với toán OSS Hoa Kỳ vào tháng 5 năm 1945.  Như vậy cho tới tháng 8 năm 1945 dưới tay HCM không có ai là người từng nằm gai nếm mật hoặc từng sát cánh chiến đấu với HCM, ông ta thực sự không có một lực lượng hậu thuẩn.

 

Ngoài sử gia William Duiker còn có sử gia người Pháp Philip Deviller với cuốn sách Paris-Saigon-Hanoi phát hành năm 1988.  Devillers đến Việt Nam vào tháng 11 năm 1945, lúc đó 25 tuổi, làm việc tại cơ quan báo chí của Bộ Tổng tham mưu của quân đội Pháp, đồng thời là phóng viên của báo Caravelle, báo Paris-Saigon và là thông tín viên bí mật của báo Le Monde, Paris. Ông về lại Pháp năm 1950 và trở thành sử gia chuyên nghiên cứu về Đông Nam Á.

 

Những bí ẩn khó hiểu của diễn biến thời cuộc trong những năm 1945-1947 đã ám ảnh Devillers, ông tự hứa là đừng vội chết trước khi rọi được ánh sáng vào cái năm 1946!  Ông đợi đến 40 năm sau, năm 1987, các hồ sơ lưu trữ của Bộ Quốc phòng Pháp được giải mật.

 

 Sau đó Devillers đã xin phép được đối chiếu lại với các tư liệu lưu trữ cá nhân của gia đình cựu thủ tướng Bidault và gia đình của nhà thương thuyết Sainteny.  Cuối cùng Devillers đi tới kết luận rằng chuyện đàm phán giữa Pháp và Hồ Chí Minh vào năm 1946 chỉ là một kế hoạch bề mặt của người Pháp.  Bên trong là bằng mọi giá phải giữ cho bằng được Đông Dương.

 

Tuy nhiên đáng tiếc là Devillers đã quên rọi ánh sáng về phía Việt Nam, ông quên rằng đằng sau Hồ Chí Minh là những người từng tốt nghiệp trường đại học chính trị nổi tiếng thế giới là Học viện Staline như Trần Ngọc Danh, Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Bùi Lâm, Bùi Công Trừng, Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Văn Trân, Hoàng Văn Nọn, Trần Văn Kiệt…;  từng là Ủy viên Trung ương của Đảng Cọng sản Pháp như Nguyễn Văn Tạo;  từng là Ủy viên Trung ương của Đảng Cọng sản Trung Quốc như Nguyễn Sơn và những người còn lại đều có ít nhất là 5 năm đào luyện trong các trại tù của thực dân Pháp.

 

Họ không phải là những người ngây thơ nhưng họ bị đặt trước một tình thế là không thể làm gì khác hơn.  Họ bị buộc phải ngồi đối diện với các chính trị gia Pháp mà trong tay họ không có gì cả, họ không có một lợi thế nào để có thể khả dĩ nói chuyện phải quấy với người ta.  Họ thừa biết ngồi nói chuyện bình đẳng với người Pháp tại Fontainebleu là một điều vô lý. Họ không thể đi đánh bạc mà trong lưng không có một đồng làm vốn.

 

Riêng ông Hồ Chí Minh cũng  thừa biết trong tay ông không có gì cả.  Nhưng ông cần chứng tỏ với dân chúng Việt Nam rằng ông là người duy nhất đại diện cho dân chúng Việt Nam.  Ông thừa biết nếu người ngồi tại Fontainebleau là Nguyễn Tường Tam hay Bảo Đại thì đương nhiên ông sẽ trở thành một phó thường dân, hiện nguyên hình là một người làm nghề rửa hình hay làm nghề phụ bếp.

 

Trong khi đó nếu ông còn ngồi tại bàn hội nghị thì nhân dân Việt Nam còn thắp hương van vái cho ông được thành công, người Việt Nam sẽ dồn hết nỗ lực tuyên truyền tạo uy tín cho ông để ông có thể dùng uy tín đó làm một thế mạnh để đàm phán.

 

Tại sao một người hầu bàn lại được lên ngôi thần thánh?

 

Thuở đó người dân Việt Nam nguyện một lòng đoàn kết sau lưng ông Hồ Chí Minh không phải vì ông ta tài giỏi hay sáng suốt mà vì ông ta là người duy nhất đại diện cho dân Việt để nói chuyện phải quấy với quân thù.  Tự nhiên Hồ Chí Minh được toàn dân Việt Nam đánh bóng;  mọi cá nhân, mọi đoàn thể, mọi đảng phái đều lên tiếng ca tụng ông;  lâu dần ông trở thành một nhân vật thần thánh trong truyền thuyết của dân tộc Việt Nam.

 

Nửa năm ngồi tại bàn đàm phán là thời gian đủ cho người Pháp đổ bộ 55.000 quân vào Việt Nam nhưng cũng là thời gian đủ cho ông Hồ Chí Minh từ một người hầu bàn trở thành một chính trị gia đại tài.

 

Trong suốt quyển sách Paris-Saigon-Hanoi, Devillers luôn luôn vẽ ra hình ảnh một ông Hồ Chí Minh ngây thơ trước những gian trá của phía Pháp, một Đảng Việt Quốc luôn luôn đả kích ông Hồ Chí Minh đã thỏa thuận cho quân Pháp trở lại Việt Nam và chê ông HCM đã nhân nhượng quân Pháp quá nhiều…

 

Devillers tội nghiệp cho ông Hồ Chí Minh quá thực thà và quá ngay thẳng trước các tay cáo già như Pignion, Valluy và D’Argenlieur.  Ngoài ra Devillers cũng cho rằng lẽ ra thuở đó người Pháp phải ôm ông Hồ Chí Minh vào lòng, thay vì sau này phải khổ sở đi tìm Bảo Đại.  Dervillers cho rằng mọi chuyện sẽ trở nên tốt đẹp nếu năm 1946 người Pháp chỉ cần trao cho ông Hồ Chí Minh một nửa cái mà sau này họ đã trao cho ông Bảo Đại.

 

Tuy nhiên có một điều quan trọng mà De Villers quên nghĩ tới là:  Người Pháp chỉ giao chủ quyền cho Bảo Đại vì họ thấy cần phải có viện trợ của Hoa Kỳ để duy trì đội quân bảo vệ Đông Dương nhằm chống lại sữ bành trướng của làn sóng Đỏ.  Nhưng Hoa Kỳ sẽ không chấp nhận cho Pháp bàn giao chủ quyền cho HCM, bởi vì họ biết HCM là người theo Cọng sản.

 

BÙI ANH TRINH

 

*Chú thích của người viết :

 

 Đầu năm 2015 ông Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng hô hào “Học tập theo gương đạo đức Hồ Chí Minh”.  Nghĩa là ông HCM đã chết nhưng tư tưởng của ông ta còn sống.  Hoặc nói một cách văn hoa là ông ta chết nhưng mà chưa chôn.  Vậy nên người đào bới lịch sử có nhiệm vụ phải mai táng ông HCM cho kỹ càng để môi trường lịch sử Việt Nam được trong sạch.

 

Trong bài viết trên đây có 3 tấm gương đạo đức của ông HCM mà người Việt không nên học tập :

 

(1).  Trong lúc toàn dân quyết tâm chống Pháp thì bè đảng của HCM bắt tay với Pháp. Nhưng sau này Hồ Chí Minh lại biến đổi lịch sử trở thành chỉ có một mình HCM và bè đảng của ông ta chống Pháp, còn toàn dân theo Bảo Đại, tức là toàn dân phản quốc.( Lưu manh ).

 

(2). Dân tộc Việt Nam cần có một minh chủ đứng ra lãnh đạo công cuộc chống Pháp, cho nên người ta đứng đằng sau lưng ông HCM là người từng  được Mỹ đưa về. Thế nhưng sau khi được dân chúng tôn làm minh chủ thì ông ta tự xưng là “cha già dân tộc”. Rồi nhân danh cha già dân tộc HCM giết sạch những người nào không ủng hộ ông ta. ( Gian ác ).

 

 (3). Kể từ khi được Mỹ đưa về nước vào năm 1944 cho tới khi chết, ông HCM chưa bao giờ lấy tên đảng của ông ta là đảng Cọng sản.  Vậy mà đã có 160 ngàn đảng viên Cọng sản hăng hái chết cho ngai vàng của HCM. ( Bịp bợm ).

 

 

(42) PHÁP TRỞ MẶT ĐÁNH ĐUỔI HCM

 

 

Hồ Chí Minh chạy lên rừng,  kêu gọi toàn quốc kháng chiến

 

Ngày 14-9-1946 Hội nghị Fontainebleau tan vỡ, phái đoàn đàm phán Việt Nam lên tàu trở về nước.  Riêng ông Hồ Chí Minh ở lại với ý đồ riêng.  Đêm hôm sau một mình ông lén đến nhà riêng của Bộ trưởng bộ thuộc địa Pháp để ký một văn bản chấp nhận : (1) Việt Nam không phải là một quốc gia Độc lập, mà là quốc gia Tự do.(2) Đất Nam Kỳ của Việt Nam vẫn thuộc quyền cai trị của Chính phủ Nam Kỳ Tự trị. (3) Quân Pháp được quyền trở lại chiếm đóng Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

 

Ngày 21-10-1946 ông Hồ Chí Minh về đến Hải Phòng, lúc này quân Pháp chuẩn bị chiếm Hải Phòng.  Họ đã trở mặt, thực ra 4 tháng hòa đàm tại Fontainebeau chỉ là câu giờ để quân Pháp đủ thời gian trở lại chiếm đóng toàn Việt Nam.  Trước đó họ đã chiếm hoàn toàn Nam Kỳ và thành lập “nước Nam Kỳ Tự trị” thuộc Liên Hiệp Pháp ( Nam Kỳ Quốc ).

 

Năm 1946, ngày 20-11, tại Hải Phòng, quân tự vệ Hải Phòng chặn tàu buôn của người Pháp, bắt nộp thuế, lính Pháp can thiệp.  Hai bên nổ súng vài chục lính Pháp chết và bị thương.  Ngày 23-11 Đại Tá Dèbes ra lệnh cho quân của Võ Nguyên Giáp phải ra khỏi thành phố Hải Phòng.

 

Tự vệ Hải Phòng chống cự, Dèbes ra lệnh cho hạm đội nã pháo vào dân chúng trong thành phố Hải Phòng làm chết 6.000 dân ( Hồi ký của Sainteny trong sách Face à Ho Chi Minh, trang 9; và lời kể của Đô đốc Battet, chỉ huy trưởng Hạm đội Pháp, được Lê Trọng Quát trích dẫn trong tác phẩm “Việt Nam Đi Về Đâu” trang 290).

 

Năm 1946, ngày 27-11, Tướng Valluy, quyền Cao ủy Pháp, ra lệnh cho Tướng Molière, tư lệnh quân Pháp tại Bắc Kỳ, chiếm Hải Phòng và nắm quyền thu thuế tại Cảng Hải Phòng.  Ngày 30-11, quân Pháp khiêu khích rồi tấn công quân tự vệ Việt Minh tại Đồ Sơn, Thanh Hóa.  Ngày 3-12, lính Pháp giật cờ, xé ảnh tại Phòng Thông tin của chính phủ Việt Minh tại Hà Nội.  Ngày 7-12, Võ Nguyên Giáp ra lệnh chuẩn bị tấn công.

 

Ngày 8-12, tại Hà Nội, các cán bộ Việt Minh kêu gọi dân chúng chuẩn bị kháng chiến, đào hầm, đục tường xuyên nhà nọ qua nhà kia, tản cư khỏi thành phố v.v… Ngày 10-12, công sở được lệnh thu xếp hồ sơ để di tản.  Ngày 17-12, tự vệ Việt Minh tại khu Quan Thánh – Hà Nội giết vài lính Pháp.  Quân Pháp phản ứng, bắn phá khu Hàng Bún, 17 thường dân chết.  Công sở dọn ra ngoại thành Hà Nội.

 

Năm 1946, ngày 19-12, Bộ tư lệnh quân Pháp tại Hà Nội cho mật lệnh cấm trại và tập trung quân Pháp.  Khoảng 20 giờ đêm quân của Võ Nguyên Giáp tấn công nhà máy điện Hà Nội và các nơi trọng yếu.  Hồ Chí Minh cùng chính phủ rút về Hà Đông, tuyên bố toàn quốc kháng chiến. Việc ngăn chận quân Pháp được giao cho 8 ngàn Thiếu niên Tự Vệ Hà Nội và 6 ngàn Thiếu niên Tự Vệ Nam Định.

 

Năm 1946, ngày 20-12, từ Hà Đông Hồ Chí Minh phát đi lời kêu gọi toàn quốc tiêu thổ kháng chiến:  “Bất kỳ đàn ông đàn bà, bất kỳ người già người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm dùng cuốc xuổng gậy gộc!  Mọi người đều phải hết sức chiến đấu chống thực dân xâm lược để cứu vãn tổ quốc”, “Các em quyết tử cho tổ quốc quyết sinh…”

 

Cũng vào sáng ngày 20, quân Pháp kiểm lại kết quả trận kháng chiến đêm 19-12:  có 43 dân sự Pháp bị chết và 200 người bị bắt đi làm con tin.  Trung tá Sainteny cũng bị thương khi xe bọc thép của ông bị quăng một trái lựu đạn.

 

 Lê Duẩn thanh toán Cao Đài,  Hòa Hảo

 

Năm 1947, ngày 21-1- 1947, Phối sư Trần Quang Vinh mời lãnh tụ các phe phái cùng với Việt Minh hội họp tại tòa Thánh Tây Ninh để giải quyết các vụ đánh nhau giữa cọng sản và không cọng sản.  Lê Duẩn cử luật sư Dương Minh Châu, chủ tịch Hành chánh kháng chiến tỉnh Tây Ninh, cùng Nguyễn Hữu Dụ và Trần Văn Đẩu đến dự, phía Hòa Hảo có giáo chủ Huỳnh Phú Sổ.

 

Sang đến ngày thứ hai hội nghị cũng không giải quyết được gì.  Đợi đến 6 giờ chiều một trung đoàn Việt Minh do Tham mưu trưởng Khu 7 Huỳnh Kim Trương chỉ huy đánh úp Tòa Thánh nhưng bị lực lượng phòng thủ do Thiếu úy Trình Minh Thế chỉ huy đẩy lui.

 

*Chú giải :  Trong khi quân Việt Minh tấn công thì đại diện Việt Minh là luật sư Dương Minh Châu tin chắc mình sẽ bị quân Cao Đài giết nhưng lãnh tụ Cao Đài Nguyễn Văn Thành nói:  “Các anh đừng sợ, các anh đến đây chúng tôi có bổn phận phải bảo vệ sinh mạng cho các anh”.

 

Sáng hôm sau Nguyễn Văn Thành tiễn Dương Minh Châu và hai người kia ra về trong an toàn.  Tiếc là sau đó mấy ngày Dương Minh Châu bị trúng đạn tử thương trong một cuộc hành quân của Pháp :  Mờ sáng hôm đó, được tin quân Pháp tấn công, Dương Minh Châu cùng một số cán bộ, nhân viên chạy tránh khỏi căn cứ lúc trời còn tối.  Tuy nhiên ông bị trúng đạn trong khi đang chạy lẫn trong đoàn.

 

Vết đạn súng ngắn rất gần từ phía sau chứng tỏ ông bị bắn bởi một người trong đoàn.  Những người thân của Dương Minh Châu cho rằng lẽ ra ông đã bị Lê Duẩn khai tử khi đưa ông vào làm mồi trong Tòa Thánh nhưng ông lại không chết, cho nên nếu để ông sống tiếp thì hậu quả rất bất lợi cho Lê Duẩn, vì vậy mà ông phải chết.  Cuộc hành quân của Pháp ngày đó là do Việt Minh chỉ điểm;  rồi nhân lúc quân Pháp đang tấn công thì đặc tình của Việt Minh thanh toán Dương Minh Châu.

 

Còn về phần Nguyễn Văn Thành sau khi tiễn Dương Minh Châu về rồi, lại nghe Dương Minh Châu bị phản phé một lần nữa và bị sát hại thì ông bèn dẫn binh đội của mình về hợp tác với chính phủ Lê Văn Hoạch. ( Chính phủ Nam Kỳ Tự trị )

 

Năm 1947, ngày 20-3 tại Paris; sau khi Cao ủy D’Argenlieu về Pháp, ra tường trình trước Quốc hội. Thủ tướng Ramadier tuyên bố :  “Ngày nay không phải bận tâm đến Thỏa ước ngày mùng 6 tháng 3.  Việc đó chỉ nằm trong khuôn khổ của bản Hiến pháp nội bộ của chúng tôi…”,

 

“…chỉ có dân chúng Việt Nam tự  tìm lấy lãnh tụ của mình, họ được tự do tìm kiếm, không bị chúng tôi hay bất cứ ai dùng khủng bố mà bắt buộc họ được.  Chúng tôi sẽ nghiêng mình trước lựa chọn của họ” ( Do Bảo Đại trích thuật trong hồi ký Con Rồng Việt Nam, trang 272 ).

 

Vậy là người Pháp đã quyết định loại bỏ lá bài Hồ Chí Minh. Do đó Ủy ban Kháng chiến Trung ương của ông Hồ Chí Minh trên rừng Việt Bắc được coi như là một nhóm phản loạn sẽ bị tiểu trừ.  Trong khi đó người Mỹ cũng buông xuôi vì người Pháp đã cảnh cáo với chính phủ Mỹ rằng Việt Minh là Cọng sản.  Như vậy nước Việt Nam rơi vào tình trạng vô chính phủ.  Các chính trị gia Pháp vội vàng tìm người đứng ra thành lập chính phủ để điều hành quốc gia.

 

Năm 1947, ngày 16 tháng 4, Lê Duẩn giả cách mời Huỳnh Phú Sổ đến Ba Răng ( Long Xuyên ) dự một cuộc họp giải quyết về việc quân của Việt Minh và quân Hòa Hảo chạm súng với nhau ngày càng nhiều trong khi cả hai bên đều chống Pháp.  Huỳnh Phú Sổ đến Ba Răng vào buổi sáng, diễn thuyết kêu gọi giáo dân ngưng đánh nhau với Việt Minh.  Tới chiều định trở về thì có cán bộ Việt Minh là Bửu Vinh đến báo là hai bên lại đánh nhau tại Lấp Vò.

 

 Huỳnh Giáo chủ rủ Vinh cùng đến đó giải quyết, Vinh hẹn ghe của Huỳnh Giáo chủ ghé ngang qua trụ sở của y để đón y cùng đi.  Lúc ghe của Huỳnh Giáo chủ ghé bến trụ sở thì trời đã tối, quân Việt Minh đổ ra mời Huỳnh Phú Sổ lên trụ sở nói chuyện.  Giáo chủ cùng 4 người cận vệ lên trụ sở.   Một lát sau thì toán ở dưới ghe nghe một loạt súng, tính lên tìm thầy thì bị quân Việt Minh dưới bến cản lại và đuổi về, toán này không chịu, cứ ở lại chờ đến trưa hôm sau cũng không thấy thầy mình trở lại bèn quay về.

 

Sau đó 10 ngày thì có tin Huỳnh Phú Sổ đã bị giết.. Toàn thể giáo chúng Hòa Hảo thề quyết sống mái cùng Việt Minh.  Cán bộ Việt Minh và ngay cả gia đình thân nhân cán bộ Việt Minh bị giết thả trôi sông lềnh khênh đến nổi chính quyền Pháp phải can thiệp để cản việc giết người vô tội.  Tướng Trần Văn Soái dẫn quân về hợp tác với Chính phủ Lê Văn Hoạch ( Chính phủ Nam Kỳ Tự trị ).

 

* Chú giải :  Người đời sau đọc chuyện Huỳnh Phú Sổ cứ trách ông tại sao đã biết Cọng sản Trần Văn Giàu là con người gian ác mà lại không tố cáo cho thiên hạ biết, lại còn hòa giải và mong liên kết với đảng Cọng sản.  Mới cướp được chính quyền có 13 ngày thì Cọng sản đã lùng bắt ông và xử tử em ruột của ông vậy mà ông vẫn nhận lời làm Ủy viên đặc biệt của Ủy ban Hành chánh Kháng chiến để cho những người theo ông cũng bị giết theo.

 

Người đời sau nghĩ như vậy vì không để ý tới chi tiết là Trần Văn Giàu thanh toán ông nhưng Nguyễn Bình và Hoàng Quốc Việt lại hạ Trần Văn Giàu thì tại sao ông lại không hợp tác với Nguyễn Bình, nhất là Nguyễn Bình không phải là Cọng sản.

 

Lúc Huỳnh Giáo chủ tham gia Ủy ban Hành Kháng thì chủ tịch Ủy ban Phạm Văn Bạch và đa số thành viên không phải là Cọng sản.  Hoàng Quốc Việt và Nguyễn Bình đã đuổi hết mấy tay Cọng sản trong Lâm ủy Hành chánh của Trần Văn Giàu, thay thế bằng một Ủy ban Hành kháng đa số không phải là Cọng sản.

 

Cũng không thể nói Lê Duẩn chủ trương giết Huỳnh Giáo chủ;  mà là học thuyết Cọng sản chủ trương thanh toán mọi thành phần không theo Cọng sản.  Lénine đã đặt tên cho những người không ủng hộ Cọng sản là “bọn phản động khốn kiếp”. Phật giáo Hòa Hảo không chống lại Cọng sản nhưng học thuyết Cọng sản thì chống lại tôn giáo và chủ trương tiêu diệt tôn giáo.

 

Vậy thì Lê Duẩn chỉ làm theo sách vở, sách vở nói rằng tôn giáo chỉ là thuốc phiện của nhân dân.  Do đó một khi chấp nhận theo Cọng sản thì phải chấp nhận thi hành mọi điều ác, kể cả phải tiêu diệt tôn giáo bởi vì tôn giáo kêu gọi lánh xa điều ác.  Chính một lý thuyết gia Cọng sản nổi tiếng bên cạnh Staline là Ivanov đã có một câu nói bất hủ:  “Trên con đường cách mạng y bổng phát hiên ra y còn một điểm lương tâm. Và điểm lương tâm duy nhất đó đã khiến cho y trở thành vô ích cho cách mạng” ).

 

BÙI ANH TRINH

 

*Chú thích của người viết :

 

 Đầu năm 2015 ông Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng hô hào “Học tập theo gương đạo đức Hồ Chí Minh”.  Nghĩa là ông HCM đã chết nhưng tư tưởng của ông ta còn sống.  Hoặc nói một cách văn hoa là ông ta chết nhưng mà chưa chôn.  Vậy nên người đào bới lịch sử có nhiệm vụ phải mai táng ông HCM cho kỹ càng để môi trường lịch sử Việt Nam được trong sạch.

 

Trong bài viết trên đây có 5 tấm gương đạo đức của ông HCM mà người Việt không nên học tập :

 

(1). Ngày 19-12-1946 HCM bị Pháp đuổi mới vừa chạy vừa kêu gọi kháng chiến.  Nhưng sau này lại viết lịch sử cho rằng HCM kháng chiến từ năm 1945, giấu biến chuyện HCM bắt tay với Pháp suốt năm 1946.( Xảo trá ).

 

(2). HCM ra lệnh dân chúng có gậy dùng gậy, có gươm dùng gươm để thí mạng với quân thù nhưng chính bản thân ông ta và băng đảng của ông ta không hề thí mạng với quân thù.( Bịp bợm )

 

(3). HCM kêu gọi các em thiếu niên “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” nhưng bản thân ông ta và băng đảng của ông ta chẳng hề quyết tử.  Rốt cuộc các em thiếu niên quyết tử cho HCM quyết sinh. ( Tàn nhẫn ).

 

(4). Khi bị giặc Pháp đuổi đánh thì HCM kêu gọi mọi đảng phái, mọi tôn giáo hy sinh chiến đấu cho ông ta.  Nhưng trong lúc mọi người đang chiến đấu thì HCM âm thầm diệt sạch những đoàn thể đối nghịch với ông ta. ( Gian ác ).

 

(5). Tôn giáo chủ trương làm điều lành tránh điều ác nhưng HCM lại coi tôn giáo là kẻ thù.  Ông ta chủ trương làm điều ác bằng mọi cách. ( Vô nhân ).

 

 (43) KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

 

 

Năm 1946, ngày 20-12, từ Hà Đông Hồ Chí Minh phát đi lời kêu gọi toàn quốc tiêu thổ kháng chiến:  “Bất kỳ đàn ông đàn bà, bất kỳ người già người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm dùng cuốc xuổng gậy gộc!  Mọi người đều phải hết sức chiến đấu chống thực dân xâm lược để cứu vãn tổ quốc”, “Các em quyết tử cho tổ quốc quyết sinh…”

 

Cũng vào sáng ngày 20, quân Pháp kiểm lại kết quả trận kháng chiến đêm 19-12:  có 43 dân sự Pháp bị chết và 200 người bị bắt đi làm con tin.  Trung tá Sainteny cũng bị thương khi xe bọc thép của ông bị quăng một trái lựu đạn.

 

Truyền thuyết kháng chiến chống Pháp

 

Hằng năm CSVN tổ chức kỷ niệm “Ngày toàn quốc kháng chiến” 19-12-1946.  Đây là bằng chứng cho thấy trước đó chưa có kháng chiến.  Do đó các truyền thuyết cho rằng ông Hồ Chí Minh kháng chiến chống Pháp từ năm 1945 chỉ là dối trá.

 

Khi ông Hồ Chí Minh kêu gọi kháng chiến thì 75 ngàn quân Pháp đã đổ bộ và chiếm xong toàn Việt Nam.  Họ có đầy đủ vũ khí với tàu thủy, xe tăng và máy bay. Lúc đó quân đội Pháp do tướng Valluy chỉ huy, đặt bản doanh tại Sài Gòn. Riêng tại Bắc Kỳ thì quân Pháp do tướng Morlière chỉ huy 13.000 quân và đang chờ đợi 10.000 quân tăng viện từ Pháp sẽ đến vào tháng 1- 1947.

 

Trong khi đó thì lực lượng của Hồ Chí Minh là Trung đoàn Thủ Đô, có chưa tới 1 ngàn khẩu súng, nhưng là súng mua lại của quân đội Lư Hán, không có đạn.  Một khẩu súng phải có 3,4 người thay phiên nhau sử dụng chứ không thể nào có đủ mỗi người một khẩu.  Và khi súng nổ thì nhiều khi cơ bẩm súng văng đi mất.

 

Khi Trung đoàn Thủ Đô của Võ Nguyên Giáp bảo vệ Hồ Chí Minh chạy lên Hà Đông thì giao cho khoảng 8.000 “Tự vệ thành” tức là các thiếu  niên vũ trang bằng dao, gậy, với một ít lựu đạn cố cầm chân quân Pháp để Ủy ban Kháng chiến trung ương có đủ thời giờ di tản.  Ngoài ra tại thành phố Nam Định thì cũng giao cho 6.000 thiếu niên Tự vệ thành cầm chân quân Pháp .

 

Sau này rất nhiều truyện ký và hồi ức của những thiếu niên Tự vệ thành kể lại tình cảnh dở khóc dở cười của họ lúc đó.   Một số bị chết, một số đuổi theo Ủy ban Kháng chiến, còn đa số bị kẹt ở lại, sau này họ gia nhập Quân đội Quốc gia chống lại Cọng sản.

 

Trong khi đó bác Hồ miệng hô “Các em quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” nhưng chân thì chạy vắt giò lên cổ chứ chẳng hề quyết tử… (sic).  Bác vừa chạy vừa ra lệnh : “có súng dùng súng, có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc dùng gậy”.  Đây chỉ là một tiếng kêu la trong lúc bị đánh đuổi bất ngờ chứ không hề có kế hoạch hay có tổ chức.

 

So sánh với người xưa :  So sánh với lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Vua Hàm Nghi vào tháng 7 năm 1885 thì nhà vua đã có kế hoạch và có tổ chức :  Trước đó Tôn Thất Thuyết đã cho lập chiến khu Tân Sở trong rừng Quảng trị, chuẩn bị sẵn lương thực, tiền bạc và những đường giao liên thông với các chiến khu khác từ Quảng Trị ra tới Thanh Hóa.  Mặc dầu cuộc kháng chiến của Vua Hàm Nghi không thành công tuy nhiên lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của ông là một lời kêu gọi nghiêm túc, có suy nghĩ.  Hịch Cần vương không hề kêu gọi nhân dân thí mạng với quân Pháp mà phải có tổ chức để đi đến thành công :

 

“Trẫm tài hèn đức mỏng, gặp biến cố không thể đối phó được để thành bị bức, xa giá Tam cung phải rời xa, tội ở mình Trẫm cả.  Thật là xấu hổ vô cùng.  Nhưng chỉ có luân lý quan hệ với nhau, các quan khanh sĩ không kể lớn nhỏ, tất không bỏ Trẩm.  Kẻ trí hiến mưu, người dũng hiến sức, ai giàu có bỏ của ra giúp, đồng bào, đồng chủng chớ nề nguy hiểm mới phải.

 

Cứu nguy chống đở, mở chỗ truân chuyên, giúp nơi kiển bách đều không thể tiếc tâm lực, ngõ hầu chuyển loạn thành trị, nguy ra yên, thu lại giang sơn bờ cõi, ấy là cơ hội này, phúc của tôn xã là phúc của thần dân, cùng lo với nhau, cùng nghĩ với nhau, há chẳng tốt lắm ru?”.

 

Trước tiên Vua Hàm Nghi tự nhận lỗi về phía mình, sau đó ông mới nhân danh tình đồng bào, nghĩa dân tộc mà kêu gọi người có trí giúp mưu, người có của góp của, người có sức góp sức. Cuối cùng ông hướng tới kết quả là thành công, đem lại yên bình cho xứ sở.

 

Trong khi đó Hồ Chí Minh nhân danh là một người sáng suốt hơn toàn dân, tài giỏi hơn toàn dân để ra lệnh cho mọi người thí mạng với quân Pháp mà chẳng cần biết việc thí mạng này đi tới đâu.  Đặc biệt là ông ra lệnh toàn dân thí mạng trong khi ông và băng đảng của ông ta chỉ bỏ chạy chứ không hề thí mạng (sic).

 

Cuộc rút lui thần kỳ:  Năm 2.000, Tướng Võ Nguyên Giáp viết hồi ký kể lại giai đoạn bị Pháp hất cẳng và đuổi chạy khỏi Hà Nội : “Quân và dân ta cầm chân quân địch ở khắp nơi.  Đặc biệt tại thủ đô Hà Nội, ta chiến đấu với 6.500 quân viễn chinh Pháp suốt hai tháng, gấp đôi thời gian dự định.  Trung đoàn Thủ Đô được thành lập ngay giữa vòng vây, gồm những chiến sĩ quyết tử, tiến hành một cuộc rút lui thần kỳ trước mũi súng của quân thù” (Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, in lần 2, trang 427).

 

Trung đoàn Thủ đô của Tướng Giáp đã chiến đấu với 6.500 quân Pháp suốt hai tháng.  Trận chiến đấu này mới đáng gọi là thần kỳ vì chỉ có 1 trung đoàn khoảng 2.500 người với vũ khí thô sơ mà đánh nhau với 6.500 quân tinh nhuệ của Pháp trong hai tháng trời.  Thần kỳ là ở chỗ đánh nhau khốc liệt suốt 2 tháng mà không có ai chết cả;  bên Pháp không chết một quân, bên Võ Nguyên Giáp cũng không mất một người, quả là một trận chiến thần kỳ.

 

Còn chuyện rút lui khỏi thủ đô mà cả trung đoàn không chết một người thì không có gì là thần kỳ cả.  Điều đó có nghĩa là nửa đêm cha con nhà anh lén bỏ chạy trước dân, vậy thì đâu có gì là thần kỳ?  Tuy nhiên cuộc rút lui lại trở thành tội ác vì có quá nhiều người chết, đó là các em thiếu niên tự vệ thành đã ở lại để làm vật cản đường cho quân của Tướng Giáp rút chạy.

 

Cái chết oan uổng của các em sẽ mãi mãi đè nặng lên lương tâm của người làm Tướng.  Câu kêu gọi “Các em quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” đã có một ý nghĩa chua xót là “Các em quyết tử cho Bác và Đảng được sinh”.  Lẽ ra theo đạo lý của dân tộc Việt thì Bác và Đảng phải quyết tử cho các em được sinh nhưng đàng này các ông đã làm ngược lại.

 

Tiêu thổ kháng chiến:  Càng thêm đau lòng hơn nữa là trong lời kêu gọi kháng chiến thì các ông luôn luôn nói tới cụm từ “tiêu thổ kháng chiến”.  Không biết “Tiêu Thổ Kháng Chiến” nghĩa là gì nhưng các cán bộ Cọng sản tại địa phương giải thích là đốt hết nhà cửa và chạy lên rừng, để cho quân Pháp đến nơi thì không có nhà ở và không có thức ăn ắt chúng phải đi chỗ khác.  Thế là có những thành phố như thành phố Tuy Hòa biến thành tro bụi, Thành phố Hà Đông bị san thành bình địa và thành phố Vinh chỉ còn viên gạch này chồng lên viên gạch kia.  Ngoài ra thì khắp nơi chỗ nào cũng có đốt nhà để gồng gánh dắt nhau lên rừng.

 

Có rất nhiều nhà báo cho rằng người ta đã hiểu lầm lời kêu gọi kháng chiến của ông Hồ Chí Minh mà đốt nhà, chứ không thể nào có một cái lệnh đốt nhà điên khùng như thế.  Nhưng một năm sau, chính ông Hồ Chí Minh viết sách Cuộc Đời Hoạt Động Cách Mạng Của Bác Hồ, trong đó ông cho biết nguyên do vì đâu có lệnh Tiêu thổ kháng chiến:

 

“Hy sinh thành phố lớn của mình, thực hiện chiến thuật tiêu thổ, nhân dân Mạc-Tư-Khoa đã quyết tâm hy sinh tất cả, tự tay đốt cháy thành phố, lửa đã đuổi Napôlêông; rét, đói và du kích đã tiêu diệt đại quân của Napôlêông”.

 

Hóa ra là ông học cách của dân Nga.  Tuy nhiên dân Nga làm như vậy vì quân của Pháp phải hành quân cách xa nơi tiếp tế của mình hơn 3.500 cây số, bằng đường bộ và trong thời tiết đông giá, bắt buộc đội quân viễn chinh của Napoleon phải tìm tiếp liệu ngay tại địa phương mà họ chiếm đóng.  Nhưng nếu tại đại phương không có dân chúng thì dĩ nhiên quân viễn chinh phải rút lui về phía sau để tìm cái ăn.

 

Còn trong trường hợp của ông HCM thì một khi quân Pháp bị đói thì ắt hẳn lúc đó dân chúng Việt Nam đã chết đói hết rồi.  Chứ nếu như chỉ còn một hạt gạo cuối cùng, thì quân Pháp sẽ là người ăn hạt gạo cuối cùng đó. Người ta kết tội ông HCM đã ra một cái lệnh “ngu xuẩn”, quả là không oan.

 

Tuy nhiên lấy công tâm mà xét thì có lẽ ông Hồ Chí Minh không phải là tác giả của lệnh Tiêu Thổ Kháng Chiến.  Mà là nhà thiên tài quân sự Võ Nguyên Giáp.  Ngay từ thời còn đi dạy học ông Giáp đã nổi tiếng là một thiên tài quân sự với trí nhớ tuyệt vời đã nhớ từng trận đánh của Napoléon với bao nhiêu tiểu đoàn và bao nhiêu súng đại bác.

 

Vậy thì ắt hẳn ông Giáp phải thuộc nằm lòng vì sao Napoléon bị thua tại Mạc Tư Khoa.  Và rồi có thể ý kiến của ông Giáp đã tác động đến ông Hồ Chí Minh và các ông trong Trung ương ĐCSVN khiến cho các ông quyết định ra lệnh “tiêu thổ”.

 

BÙI ANH TRINH

 

*Chú thích của người viết :

 

 Đầu năm 2015 ông Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng hô hào “Học tập theo gương đạo đức Hồ Chí Minh”.  Nghĩa là ông HCM đã chết nhưng tư tưởng của ông ta còn sống.  Hoặc nói một cách văn hoa là ông ta chết nhưng mà chưa chôn.  Vậy nên người đào bới lịch sử có nhiệm vụ phải mai táng ông HCM cho kỹ càng để môi trường lịch sử Việt Nam được trong sạch.

 

Trong bài viết trên đây có 6 tấm gương đạo đức của ông HCM mà người Việt không nên học tập :

 

(1). HCM kêu gọi mọi đoàn thể, mọi tôn giáo đứng lên chống Pháp.  Thế nhưng sau khi ông ta được làm vua vào năm 1954 thì mọi tôn giáo, mọi đảng phái trở thành kẻ có tội với chế độ Hồ Chí Minh.( Bạc ác ).

 

(2). HCM ra lệnh cho toàn dân dùng cuốc xuổng gậy gộc để đánh nhau với súng đạn của quân Pháp, thế nhưng chính ông ta và băng đảng của ông ta chạy vắt giò lên cổ chứ không hề thí mạng.( Lưu manh ).

 

(3). HCM ra lệnh cho các em thiếu niên tự vệ : “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, nhưng ông ta và băng đảng của ông ta chờ hề quyết tử. ( Tàn nhẫn ).

 

(4). HCM dùng xác của thiếu niên tự vệ để chặn đường quân Pháp hầu cho ông ta kịp thời chạy thoát.  Vậy mà khi thành công thì chớ hề có một câu cảm ơn các em, trái lại còn vênh mặt ca rằng “đường vinh quang xây xác quân thù”.( Vô ơn ).

 

(5). Bắt chước dân Nga đốt nhà tại một xứ nhiệt đới là một điều cực kỳ ngu xuẩn.  Vậy mà cũng viết sách huênh hoang là ta bắt chước Nga.  Từ đó có thể suy ra bắt chước chế độ Xã hội chủ nghĩa của Nga là khôn hay dại. ( Ngu dốt ).

 

(6). Sau này HCM căn cứ vào lời kêu gọi kháng chiến ngày 20-12-1946 để huênh hoang rằng chỉ có một mình ông ta chủ trương kháng chiến và một mình ông ta chỉ huy kháng chiến.( Bịp bợm ).

 

(44) BẢO ĐẠI VẬN ĐỘNG ĐÒI ĐỘC LẬP

 

 

Nước Nam Kỳ tự trị

 

Năm 1946, ngày 25-5, Tại Sài Gòn, Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Nam Kỳ là luật sư Béziat gửi cho Cao Ủy Pháp một bức thư chính thức xin thành lập một chính phủ lâm thời của nước Cọng Hòa Nam Kỳ.  Ngày 27-5, Cao ủy Pháp trả lời tạm thời chấp thuận việc thành lập chính phủ đó.  Tuy nhiên cũng lưu ý rằng “Nam Kỳ là một mãnh đất thuộc di sản Quốc gia Pháp” cho nên cần phải được Quốc hội Pháp thông qua (Hsltr/Quốc gia Pháp).

 

*Chú giải :  Nam Kỳ là đất bị quân Pháp đánh chiếm rồi bắt vua Tự Đức phải bán cho họ vào năm 1874 với giá do họ ấn định.  Từ đó nước Việt Nam có hai nước là nước An Nam của nhà Nguyễn và nước Nam Kỳ của Pháp.  Tháng 3 năm 1945 Nhật chiếm Nam Kỳ của Pháp rồi tháng 6 năm 1945 giao lại cho Bảo Đại, nhập trở lại nước Việt Nam.  Giờ đây Pháp thành lập nước Nam Kỳ tự trị để tách ra Nam Kỳ khỏi Việt Nam như trước.

 

Giống như Pháp đã tách Lebanon ra khỏi nước Syria, hay như Anh đã tách Singapore ra khỏi Malaysia, hay như Hòa Lan tách Đông Timore ra khỏi Indonesia. Họ làm như vậy để dân trong nước tự chống lẫn nhau;  có như vậy thực dân mới có cớ để tiếp tục duy trì quân đội của họ tại xứ thuộc địa để “ổn định an ninh” nhưng thực chất là tiếp tục thống trị xứ thuộc địa.

 

Năm 1946, ngày 1-6-1946, Chính phủ “Cọng Hòa Nam Kỳ Tự trị” do bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm Thủ tướng ra mắt dân chúng trước nhà thờ Đức Bà Sài Gòn.  Ngày 8-6 biểu tình lớn tại Hà Nội phản đối việc thành lập Nam Kỳ Quốc vì như vậy là chia cắt đất nước Việt Nam thành 2 Quốc gia.

 

Năm 1946, ngày 14-9, Hòa đàm Fontainebleau tan vỡ chỉ vì phía Việt Nam không chấp nhận tách Nam Kỳ ra khỏi nước Việt Nam.  Phái đoàn đàm phán lên đường về nước, riêng ông Hồ Chí Minh ở lại để ngày hôm sau đến nhà riêng của Bộ trưởng bộ Thuộc địa Pháp ký một bản tạm ước chấp nhận Nam Kỳ tự trị và quân Pháp được quyền chiếm đóng Bắc Kỳ và Trung Kỳ.  Ông HCM về đến Hải Phòng ngày 21-10-1946.

 

Năm 1946, ngày 10-11, Thủ tướng Nam Kỳ tự trị Nguyễn Văn Thinh tự sát vì thấy rõ Pháp chỉ lừa gạt ông để âm mưu lập trở lại hai nước Việt Nam.  Ngày 15-11 Pháp đưa Bác sĩ Lê Văn Hoạch là người của Cao Đài lên làm thủ tướng Nam Kỳ Quốc.

 

Năm 1946, ngày 19-12.  Khoảng 20 giờ đêm quân của Võ Nguyên Giáp tấn công nhà máy điện Hà Nội và các nơi trọng yếu.  Hồ Chí Minh cùng chính phủ rút về Hà Đông, tuyên bố toàn quốc kháng chiến. Việc ngăn chận quân Pháp được giao cho 8 ngàn Thiếu niên Tự Vệ Hà Nội và 6 ngàn Thiếu niên Tự Vệ Nam Định.

 

Việt Nam vô chính phủ, Pháp tìm người cai trị Việt Nam

 

Năm 1947, ngày 14-4, sau khi đã quyết định trở mặt với Hồ Chí Minh, quân Pháp hành quân lên Hà Đông truy kích Bộ chỉ huy Việt Minh, quân Võ Nguyên Giáp chạy về Hòa Bình.  Ngày 15-4 quân Pháp đánh chiếm Hòa Bình.  Hồ Chí Minh rút về Chợ Bờ, ngày 17-4 quân Pháp chiếm Chợ Bờ.  Hồ Chí Minh rút về Tuyên Quang.

 

Năm 1947, ngày 19-4, Bộ trưởng Hoàng Minh Giám trong chính phủ Việt Minh đề nghị điều đình với Pháp.  Tướng Valluy chuyển tin này về Paris với ý kiến:  (1) Buộc đối phương phải giao nộp vũ khí trong vòng 15 ngày.  (2) Chấm dứt các hoạt động gây hấn, khủng bố và tuyên truyền.  (3) Trả tự do ngay cho tất cả những con tin và tù nhân chiến tranh.  (4) Giao trả cho Pháp các quân nhân Pháp đào ngũ và các tù binh Nhật.  (5) Lưu thông tự do lập tức.  (Đây là thể thức đầu hàng chứ không phải là đàm phán).

 

 Trong khi đó Cao ủy Bollaert lại đề nghị chỉ cần giao nạp 50% vũ khí và quân đội Pháp được tự do lưu thông trên toàn quốc trong khi quân đội của Hồ Chí Minh phải ở yên một chỗ.  Paris chấp thuận lời đề nghị của Bollaert.  Bollaert cử Paul Mus đi gặp Hồ Chí Minh.  Tuy nhiên Hồ Chí Minh từ chối vì như vậy cũng là đầu hàng .

 

Năm 1947, ngày 23-4 chính quyền Pháp tại Hà Nội bãi bỏ thiết quân luật, tuyên bố trở lại tình trạng bình thường.  Dân Hà Nội tản cư chạy loạn đã trở về làm ăn như cũ. Thành lập Ủy ban lâm thời Hành chánh và Xã hội, gọi là Hội đồng An dân, do bác sĩ Trương Đình Tri làm chủ tịch.

 

Năm 1947, ngày 3-5, Bộ trưởng Quốc Phòng Pháp là Coste Floret tuyên bố quân Pháp đã làm chủ các thành phố lớn và kiểm soát các đường giao thông lớn.  Tổng số quân Pháp tại Đông Dương là 115.000.

 

*Chú giải :  Tuyên bố của Floret chứng tỏ trong năm 1946 và 1947 người Pháp đã đưa thêm vào  Việt Nam 70.000 quân như kế hoạch ban đầu của De Gaule.  Năm 1945 có 30 ngàn quân Pháp tại chỗ;  sau tháng 8 năm 1945 đưa thêm 15.000 theo như Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-46; từ tháng 9 năm 1945 tới tháng 3 năm 1946 Pháp đã dùng 145 tàu biển của Pháp, Anh và Hoa Kỳ để vận chuyển đến Đông Dương 70.000 quân.

 

Bước sang năm 1947, với 115 ngàn tay súng thiện chiến, người Pháp không cần điều đình với ai cả.  Giờ đây công việc của họ là giải quyết làm sao với phong trào đòi độc lập đang nổi lên trên toàn thế giới, phong trào này đang được Hoa Kỳ hỗ trợ mạnh mẽ.

 

Người Pháp đã giải quyết xong đối với Căm Bốt và Lào, họ muốn giải quyết luôn cho Việt Nam nhưng hơi kẹt một nỗi là ông vua Việt Nam đã từng tuyên bố hủy bỏ kác hiệp ước Bảo hộ của Pháp cho nên dân chúng Pháp đang coi ông ta là một kẻ phản bội.

 

Năm 1947, tháng 5, trong khi chính phủ Việt Minh chạy lên vùng Trung du Bắc Việt thì quân Pháp làm chủ tình hình toàn Đông Dương.  Ngày 6-5 Căm Bốt có Hiến Pháp đầu tiên, theo chế độ Quân chủ lập hiến, có Quốc Vương và 2 Nghị viện.  Ngày 11-5 Lào có Hiến Pháp đầu tiên, theo chế độ Quân chủ Lập hiến, có quốc vương, Quốc hội dân cử và Hội đồng Hoàng gia.

 

Năm 1947, ngày 19-7, một số báo ở Sài Gòn phát động chiến dịch ủng hộ Bảo Đại.  Lúc này Bảo Đại đang ở Hồng Kông và Hồ Chí Minh đang ở trên rừng Việt Bắc . Ngày 12-8 biểu tình lớn ở Huế, ủng hộ cựu hoàng Bảo Đại.  Ngày 1-9 biểu tình ở Hà Nội, ủng hộ Bảo Đại.  Ngày 5-9 Bảo Đại lên tiếng sẳn sàng tiếp kiến đại diện của dân chúng.  Ngày 14-9 biểu tình ở Sài Gòn ủng hộ Bảo Đại .

 

Sở dĩ có các cuộc biểu tình ủng hộ Bảo Đại vì nước Việt Nam đang ở trong tình trạng vô chính phủ trong khi các nước khác tại đông Nam Á và Trung Đông đang từng ngày giành lại độc lập.  Các xứ sở đó đều tự thành lập chính phủ để bàn nhận độc lập từ tay các nước thực dân.  Riêng Dân tộc Việt Nam không thể ngồi yên  nhìn sang các nước khác tại Châu Á đều đã được độc lập.

 

Riêng tại Đông Dương thì vua Cam Bốt rồi vua Lào đã đứng ra nhận độc lập, vậy thì đơn giản nhất là Việt Nam kêu ông vua Bảo Đại về là xong.  Tuy nhiên đối với ông Bảo Đại thì người Pháp có nhiều khó chịu bởi vì tháng 3 năm 1945 Bảo Đại đã tuyên bố độc lập và hủy bỏ các hiệp ước được ký kết từ trước giữa Triều đình nhà Nguyễn với chính phủ Pháp, sau đó ông ta lại từ bỏ ngôi vua với câu thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ, ông ta đã trở thành một tay phản bội dưới con mắt của nhân dân Pháp.

 

Bảo Đại đưa ra lời kêu gọi

 

Năm 1947, ngày 9-9, 24 đại diện các đảng phái và đoàn thể sang Hồng Kông gặp Bảo Đại.  Sau cuộc gặp gỡ, ngày 18-9, từ Hồng Kông Bảo Đại gửi thư về cho dân chúng Việt Nam:

 

“..Mặc dù nền độc tài (CSVN) vẫn tìm cách bịt miệng đồng bào, ngày nay tôi đã nghe thấy tiếng gọi và tiếng kêu đau thương tuyệt vọng của đồng bào, đồng bào đã vẽ nên một bức tranh thống khổ, và kê khai bao điều bất hạnh mà dân tộc Việt Nam chúng ta phải gánh chịu, sau hai năm kinh nghiệm, mà các chủ nhân (CSVN) của đồng bào đã nắm quyền cai trị tuyệt đối gây nên.

 

Như vậy, dần dà niềm hy vọng và hạnh phúc của đồng bào cũng bị mất đi, dù đã được sự tuyên truyền khôn khéo, và một lý tưởng ngoại lai cám dỗ lúc ban đầu.  Trong niềm tuyệt vọng đồng bào đã chạy đến tôi.  Đồng bào kêu gọi đến uy tín và quyền hành của tôi để đem về cho đất nước bị chiến tranh tàn phá, một cuộc chiến huynh đệ tương tàn, một nền hòa bình như ở các nước tự do và bình đẳng, một nền hòa bình căn bản của an ninh và trật tự. … …

 

Đáp ứng lời kêu gọi của đồng bào, tôi nhận sứ mạng mà đồng bào giao phó, và sẳn sàng để bắt liên lạc với nhà cầm quyền Pháp.  Với họ, tôi sẽ nghiên cứu tất cả mọi khía cạnh của những lời để nghị đối với chúng ta.

 

Trước hết tôi muốn đạt được độc lập và thống nhất, đúng như nguyện vọng của đồng bào, đạt tới những thỏa thiệp do sự bảo đảm hỗ tương, và có thể xác nhận với đồng bào là lý tưởng mà chúng ta từng dũng cảm chiến đấu trong cuộc kháng chiến gian lao, sẽ đạt được toàn diện…”

 

Năm 1947, tháng 9, Thủ tướng Nam Kỳ tự trị Lê Văn Hoạch nhận được điện văn của Bảo Đại cho biết ông ta quyết định đứng ra đại diện cho nhân dân Việt Nam nhận độc lập từ tay người Pháp.  Bảo Đại yêu cầu Lê Văn Hoạch giải tán chế độ Nước Nam Kỳ tự trị vì nó chõi với tinh thần thống nhất ba kỳ của nước Việt Nam.  Nếu ông Hoạch tự tay giải tán chính phủ Nam Kỳ thì sẽ giúp Bảo Đại dễ dàng hơn trong việc thương lượng với Pháp.   Ngày 29-9, Thủ tướng nước Nam Kỳ tự trị là Bác sĩ Lê Văn Hoạch từ chức.

 

Năm 1947, ngày 1-10, Thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân được Hội Đồng Nam Kỳ bầu làm thủ tướng nước Nam Kỳ tự trị thay cho Lê Văn Hoạch.

 

Bốn ngày sau khi ông Xuân được bầu làm Thủ tướng Nam Kỳ, Bảo Đại gởi điện văn cho Cao ủy Pháp yêu cầu bãi bỏ Chính phủ Nam Kỳ nếu như người Pháp muốn ông đứng ra nhận độc lập.  Bởi vì ông không thể nhận một nước Việt Nam mà thiếu mất Nam Kỳ. Cao ủy Bollaert vô cùng khó xử vì quả thật người Pháp chỉ muốn trao trả độc lập cho Bảo Đại có Bắc và Trung Kỳ mà thôi.

 

Tuy nhiên Nguyễn Văn Xuân đã nhanh chóng giải quyết vấn đề giùm Bảo Đại bằng cách thay tên gọi chính phủ của ông là “Chính phủ lâm thời Miền Nam Việt Nam” và đổi tên gọi Nam Kỳ thành ra là Nam Phần, có nghĩa là Miền Nam Việt Nam chỉ là một phần của Nước Việt Nam gồm 3 phần là Bắc Phần, Trung Phần và Nam Phần.

 

Còn Chính phủ Lâm thời Miền Nam Việt Nam có nghĩa là một tổ chức hành chánh tạm thời của Miền Nam trong khi chờ đợi thành lập Chính phủ Trung ương cho cả ba Miền là Miền Bắc, Miền Trung và Miền Nam. Quyết định của ông Xuân làm cho Cao Ủy Pháp Bollaert bị Paris khiển trách và dân Tây thuộc địa tại Việt Nam phản đối mạnh mẽ vì Paris đâu có chủ trương như vậy.

 

Thủ hiến Nam Kỳ De la Tour yêu cầu Nguyễn Văn Xuân điều chỉnh lại thì ông Xuân sang Hồng Kông gặp Bảo Đại và xúi Bảo Đại gấp rút điều đình với Pháp để nhận lại độc lập và thống nhất chứ không chấp nhận độc lập mà chỉ có hai Kỳ.  Sau khi xúi Bảo Đại xong, Nguyễn Văn Xuân trở lại Sài Gòn và cứ thế mà đặt tên cho chính phủ của ông ta mặc cho De la Tour muốn nói gì thì nói.

 

Bảo Đại từ chối nhận độc lập mà không có Nam Kỳ

 

Năm 1947, ngày 6-12, Bảo Đại và Bollaert gặp nhau 2 ngày tại Vịnh Hạ Long. Theo hồi ký của Bảo Đại thì vừa mới chào nhau Bollaert đã trưng ra 2 văn kiện mà người Pháp đã soạn sẵn.  Gồm một bản tuyên bố chung, trong đó Pháp công nhận Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp và một “Bản Thể Chế” quy định về quyền hạn, quyền lợi của các thành viên trong “Liên Hiệp Pháp”.

 

Bảo Đại chấp nhận bản tuyên bố nhưng từ chối Bản Thể Chế vì theo đó thì Việt Nam chỉ tiến tới mức độ bán thuộc địa là hết.  Tuy nhiên trước sự năn nỉ của Bollaert Bảo Đại miễn cưỡng ký hai chữ VT (Vĩnh Thụy) vào Bản Thể Chế.  Hai người chia tay trong bầu không khí nặng nề.

 

Năm 1947, ngày 19-12, tại Hồng Kông Bảo Đại mời họp các ông Nguyễn Văn Xuân, thủ tướng Nam Kỳ; Trần Văn Lý, Chủ tịch Hội đồng an dân Huế và Ngô Đình Diệm.  Theo hồi ký Bảo Đại thì:  “Tất cả ba người đều nhận bản tuyên bố chung thì được, nhưng khi đọc bản văn kiện nói về thể chế đều tỏ vẻ tức giận.  Diệm là người nổi sùng nhất”.

 

Trong 3 ngày bàn bạc, các ông đã đề ra những đòi hỏi tối thiểu mà người Pháp phải nhượng cho Việt Nam.  Đồng thời các ông tính trước có thể Bollaert sẽ lợi dụng chữ ký của Bảo Đại để coi Bản Thể Chế như là một văn kiện căn bản mà phía Việt Nam đã chấp nhận.  Trong trường hợp này Bảo Đại sẽ phản ứng bằng cách tuyên bố cuộc gặp mặt với ông Bollaert tại Vịnh Hạ Long chỉ là với tính cách riêng tư, không đại diện cho dân tộc Việt Nam.

 

(45) BẢO ĐẠI SẮP XẾP TIẾP NHẬN ĐỘC LẬP

 

 

Chính phủ Lâm thời Nguyễn Văn Xuân

 

Năm 1948, ngày 7-1, Bảo Đại tiếp xúc với Bollaert tại Genève, Thụy sĩ.  Hôm sau Bollaert trở lại Paris để hỏi ý kiến cấp trên.

 

Trước cao trào nổi lên đòi độc lập trên toàn thế giới với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Đế quốc Anh cũng như đế quốc Pháp đang lâm vào tình trạng kệt quệ kinh tế sau chiến tranh, họ đang cần phục hồi lại đất nước.  Người Anh và Người Pháp đã đối phó với phong trào đòi độc lập bằng cách lập ra hệ thống Liên Hiệp Pháp và Liên Hiệp Anh.

 

Tuy nhiên guồng máy thành lập Liên Hiệp Pháp bị chậm lại vì nhân dân Việt Nam muốn Bảo Đại nhưng ông này lại đòi thống nhất và độc lập thực sự chứ không chấp nhận hình thức độc lập nửa vời như hệ thống Liên Hiệp Pháp .

 

Hồi ký của Bảo Đại giải thích tâm trạng cương quyết của ông lúc đó:  “Tôi không muốn bị làm trò cười lần thứ hai nữa” (Con rồng Việt Nam, trang 304).  Ông đã từng ở địa vị số một của Việt Nam, từng có của cải vàng bạc không cần đếm, đi đâu cũng có tiền hô hậu ủng;  tuy nhiên ông cảm thấy cay đắng trong thời gian ông ở vị trí đó, bởi vì nó không khác ông vua trên sân khấu một chút nào.

 

Sau đó ông đã ngây thơ đi làm cố vấn cho một nhóm người lọc lừa gian ác và nhận lấy cay đắng khi một mình bơ vơ đứng giữa phi trường Côn Minh không có một đồng xu trong túi.  Vậy thì chuyện ông không muốn làm trò cười cho thiên hạ một lần nữa là điều dễ hiểu.  Trong lòng ông nung nấu một ý chí phục hồi danh dự.  Ông không ham địa vị, không ham quyền lực, nhưng ông cần danh dự, ông cần mọi người tôn trọng ông.

 

Năm 1948, đầu tháng 2, theo hồi ký của Bảo Đại, Thủ tướng Pháp Robert Schuman mời Bảo Đại dự tiệc tại điện Matignon, có hơn mười vị bộ trưởng cùng tiếp chuyện với Bảo Đại.  Bảo Đại tuyên bố ông chỉ trở lại Việt Nam một khi Việt Nam được độc lập và thống nhất thực sự.

 

Lời tuyên bố của Bảo Đại khiến cho dư luận Pháp chưng hửng. Báo chí Paris cho rằng Bảo Đại là kẻ tráo trở, ông ta đã phản lại hiệp ước mà nhà Nguyễn đã ký với Pháp 1884.  Để đáp lại, Bảo Đại tổ chức một buổi họp báo tại khách sạn Ritz và tuyên bố:

 

“Ngày 6-6-1884, khi ông bác Kiến Phước của tôi còn là một đứa bé, quan phụ chánh Vương quốc An Nam đã ký với nước Pháp, một hiệp ước bảo hộ.… nước Pháp long trọng cam kết che chở cho vương quốc An Nam…

 

Thế mà năm 1945, trước sự xâm lăng của Nhật Bản, và trước cuộc nổi dậy của cách mạng Việt Minh, thì đâu là những lời cam kết của Pháp?…Vậy thì ai là người đầu tiên đã không làm tròn bổn phận đối với lời cam kết?  Ai Làm cho nó trở thành lỗi thời, mất hết hiệu lực ? Ai đã vi phạm Hiệp ước?”…

 

“Giờ đây, tại sao tôi còn sang Paris? Vì tôi mong muốn hòa Bình lập lại ở nước tôi, làm ngưng đổ máu, vừa máu của nhân dân tôi lẫn máu của binh sĩ Pháp.  Thế nhưng, điều kiện để tái lập Hòa Bình phải là sự công nhận nền độc lập và thống nhất của Việt Nam…” (Con Rồng Việt Nam trang 307).

 

Năm 1948, ngày 26-3, Bảo Đại tập họp một hội nghị các đảng phái và đoàn thể. Sau khi bàn bạc hội nghị ra thông cáo rằng các đoàn thể tại Việt Nam sẽ họp nhau lại thành lập một Chính phủ lâm thời để có đủ tư cách đại diện dân tộc Việt Nam mà nói chuyện với Pháp.

 

Năm 1948, ngày 24-4, Bảo Đại họp với Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Khắc Vệ và Lê Văn Hoạch.  Các ông thỏa thuận Nguyễn Văn Xuân là người đứng đầu Nam Kỳ cũng như hai vị cầm đầu Bắc Kỳ và Trung Kỳ là Chủ tịch hội đồng an dân Bắc Kỳ và Trung Kỳ sẽ từ chức và sau đó sẽ bầu ra một Chính Phủ Lâm Thời, chính phủ này sẽ được Bảo Đại tấn phong.

 

Năm 1948, ngày 20-5, đại diện các đoàn thể nhóm họp tại Sài Gòn, gồm có các ông Đặng Hữu Chí, Hà Xuân Hài, Lê Văn Hoạch, Phạm Công Tắc, Nguyễn Khoa Toàn, Trần Quang Vinh, Hà Xuân Tế, Lê Tấn Nẫm, Trần Thiện Vàng, Nguyễn Khắc Vệ, Đỗ Hữu Thinh, Phạm Văn Hai, Đỗ Quang Giai, Lương Danh Môn, Nguyễn Văn Tuế, Nguyễn Văn Ty, Ngô Quốc Côn, Nguyễn Thúc Loan, Phạm Đình Thuyên, Nguyễn Thức, Ngô Khánh Trực, Trương Vĩnh Tống, Nghiêm Xuân Thiện, Đặng Văn Đắng…

 

Ngày 22-5 hội nghị tuyên bố thành lập Chính Phủ Lâm Thời do Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng.  Cao Ủy Pháp thừa nhận Chính phủ Lâm thời ngày 23-5 và Chính phủ Pháp thừa nhận ngày 27-5. Ngày 2-6 Nguyễn Văn Xuân công bố bản Hiến chương Lâm thời, gọi là bản Pháp Qui Tạm Thời.  Quốc Kỳ là cờ Vàng ba sọc đỏ, Quốc ca là bài tiếng gọi thanh niên của Lưu Hữu Phước .

 

Năm 1948, ngày 5-6, Nguyễn Văn Xuân dẫn đầu phái đoàn của Chính Phủ Lâm Thời ra Vịnh Hạ Long ký kết Thỏa ước với Bollaert, Cao ủy đại diện cho Chính phủ Pháp.  Buổi lễ ký kết diễn ra dưới sự chứng kiến của Bảo Đại.  Đại cương thỏa ước:

 

“Pháp long trọng thừa nhân Việt Nam độc lập và thống nhất. Việt Nam tuyên bố gia nhập Liên Hiệp Pháp với tư cách một quốc gia liên kết.  Nước Việt Nam cam kết tôn trọng mọi quyền hạn và quyền lợi của tư nhân Pháp”.  Tuy nhiên ngoài bản tuyên bố đại cương nói trên, hai bên còn ký vào Bản Thể Chế của tổ chức Liên Hiệp Pháp, Bản Thể Chế này đã từng bị Bảo Đại từ chối và Ngô Đình Diệm chống đối.  Khi ký chứng nhận vào bàn thể chế của hai bên.  Bảo Đại vẫn ký tắt hai chữ VT như trước đây .

 

Năm 1948, tháng 9, Tổng trấn Trung Kỳ là dược sĩ Phan Văn Giáo rủ Đại úy Nguyễn Ngọc Lễ trong quân đội Pháp về Huế thành lập Việt Binh Đoàn gồm 10.000 quân;  giao cho Thiếu úy Đỗ Mậu làm Trưởng Phòng 3, phụ trách huấn luyện quân đội, giao cho Thiếu úy Huỳnh Công Tịnh làm trưởng Phòng tình báo.  Các ông mở các cuộc hành quân trong khu vực Quảng Trị, Quảng Bình để tập luyện cho quân đội.

 

Kết quả khiến cho “Mặt trận Kháng chiến Bình Trị Thiên” của Nguyễn Chí Thanh tan rã.  Thanh kêu cứu với Tướng Nguyễn Sơn ở Thanh Hóa nhưng Sơn làm ngơ.  Thanh bèn chạy ra Việt Bắc gặp Đặng Xuân Khu.  Khu giữ Thanh lại làm phụ tá cho Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Văn Tiến Dũng.

 

Hiệp ước trao trả độc lập

 

Năm 1949, ngày 8-3, lễ ký kết Hiệp ước diễn ra tại điện Elysée dưới sự chứng kiến của Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Quốc trưởng Việt Nam Bảo Đại.  Đại cương Hiệp ước: “Pháp thừa nhận quốc gia Việt Nam, có tổ chức Hành chánh riêng, Tư pháp riêng, Tài chánh riêng, Quân đội riêng và có quyền liên lạc ngoại giao với các nước Đông Nam Á.  Pháp sẽ ủng hộ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc.

 

*Chú giải:  Hồi ký của Võ Nguyên Giáp ghi nhận về Hiệp ước Elysée:

 

“Với sự thúc ép của Mỹ, hai tháng sau, ngày 3 tháng 8 năm 1949, Hiệp ước Êlydê (Elysée) giữa Tổng thống Pháp Vanhxăng Oâriôn (Vincent Auriol), Bộ trưởng Bộ Pháp quốc Hải ngoại Cốt Phơlôrê (Cost Floret) và Bảo Đại mới ra đời.

 

Pháp công nhận Việt Nam Độc lập, có một quân đội 50,000 người, với những sĩ quan người Việt nhưng do người Pháp huấn luyện và điều khiển…” (Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, in lần 2, trang 124).

 

Lời thú nhận của Võ Nguyên Giáp cho thấy đất nước được độc lập từ năm 1949, công lao giành lại độc lập là của toàn dân Việt Nam và Bảo Đại.  Trong khi đó ĐCSVN và ông Hồ Chí Minh không có một chút công lao nào hết.

 

Sở dĩ phải lấy hồi ký của Võ Nguyên Giáp làm bằng chứng bởi vì hiện nay người trong nước không tin là nước Việt Nam được độc lập từ năm 1949 và do công lao của Bảo Đại.  Tất cả các tài liệu của CSVN đều cho rằng Hồ Chí Minh làm chủ đất nước từ năm 1945; rồi đến năm 1954 mới chia Miền Nam cho Ngô Đình Diệm.

 

Năm 1949, ngày 19-4, khai mạc hội nghị của Hội Đồng đại diện Nam Kỳ, kết quả biểu quyết về số phận của Nam Kỳ là 25 phiếu thuận sát nhập vào Việt Nam và 25 phiếu phản đối.

 

Như vậy số phận Nam Kỳ được bỏ lững đúng như tính toán của ngưới Pháp, nghĩa là một nửa theo Pháp, một nửa theo Bảo Đại.  Còn nếu như đa số theo Pháp thì Bảo Đại sẽ không chịu tiếp nhận độc lập.  Và nếu như đa số theo Bảo Đại thì nước Pháp sẽ mất Nam Kỳ.

 

Khi nghe kết quả 25/25 thì Bảo Đại biết người Pháp không chịu nhả Nam Kỳ.  Ông bèn tuyên bố hủy bỏ chuyến bay trở lại Việt Nam và hủy bỏ các chương trình đón tiếp ông tại Việt Nam!  Thủ tướng Pháp vội vàng cho người về Sài Gòn để giàn xếp lại.

 

Bảo Đại về Việt Nam

 

Năm 1949, ngày 23-4 Hội nghị Đại Diện dân chúng Nam Kỳ nhóm họp trở lại và biểu quyết sát nhập Nam Kỳ vào Việt Nam với tỉ số 45 phiếu thuận trên 5 phiếu chống (sic)!  Qua ngày hôm sau Bảo Đại lên đường về nước, Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân đón ông tại Singapore.

 

Các ông đã bàn nhau sắp đặt cho  Bảo Đại rời Pháp bằng máy bay của Chính phủ Pháp nhưng đáp xuống tại Singapore rồi sẽ thuê máy bay riêng về Việt Nam để dân chúng Việt biết rằng ông không phải do người Pháp đưa về mà là ông tự trở về.

 

Ông cũng không đáp xuống Sài Gòn vì còn tổ chức chính quyền Pháp ở đó, ông không muốn người Pháp ra phi trường đón ông như chủ nhà đón khách bởi vì ông mới là chủ nhà.  Ngày 28-4, Bảo Đại được dân chúng và Chính phủ lâm thời tiếp đón tại phi trường Liên Khương Đà Lạt .

 

Năm 1949, ngày 20-6, theo sự sắp xếp của Bảo Đại và các nhân sĩ Việt Nam, Nguyễn Văn Xuân nộp đơn từ chức Thủ tướng Chính phủ lâm thời.  Sau đó đích thân Bảo Đại lập chính phủ mới do chính ông làm Thủ tướng và Nguyễn Văn Xuân làm Phó thủ tướng.  Nội các mới được thành lập ngày 1-7.  Thành phố Sài Gòn được chọn làm thủ đô của nước Việt Nam mới.

 

Theo hồi ức của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy thì trước đó Bảo Đại dự tính đặt thủ đô tại Huế là trung tâm của nước Việt Nam.  Tuy nhiên một chính trị gia lỗi lạc là nhà báo Trần Văn Ân đã khuyên nên đặt tại Sài Gòn vì đặt tại Huế thì dân chúng Việt lẫn Pháp đều nghĩ rằng lãnh thổ của Bảo Đại chỉ có Bắc Kỳ và Trung Kỳ như trước đây.

 

BÙI ANH TRINH

 

* Chú thích :  Cần ghi nhớ là trong thời kỳ Pháp thuộc có 2 nước Việt Nam :

 

(1) Nước Cochinchina ( Nam Kỳ ), do vua Tự Đức ký bán cho Pháp với Hiệp ước Giáp Tuất 1974.  Điều khoản thứ 5 của Hiệp ước ghi : “Vua nước Nam thừa nhận chủ quyền đầy đủ và trọn vẹn của nước Pháp trên các đất đai nước ấy hiện chiếm” ( 6 tỉnh Nam Kỳ ).  Nước Cochinchina theo chế độ thuộc địa.  Quan lại cai trị tại các tỉnh, huyện là do người Pháp cắt đặt.  Đứng đầu là quan Thống đốc Cochinchina, do chính phủ Pháp cắt cử.

 

(2) Nước An Nam, gồm có Trung Kỳ ( Annam ) và Bắc Kỳ ( Tonkin ).  Theo điều khoản thứ 1 của Hiệp ước Giáp Thân 1884 giữa vua Kiến Phước và nước Pháp : “Nước Nam nhận và chịu nước Pháp bảo hộ, nước Pháp thay mặt nước Nam trong việc giao thiệp với nước ngoài và bảo trợ người nước Nam ở các nước ngoài”.

 

Nước An Nam theo chế độ Bảo hộ ( thuộc Pháp ).  Quan lại cai trị do Triều đình Huế cắt đặt.  Tại Trung Kỳ ( Annam ) do vua nhà Nguyễn đứng đầu, bên cạnh có quan Khâm sứ Pháp làm cố vấn.  Tại Bắc Kỳ ( Tonkin ) có các quan Tổng đốc của Triều đình nhà Nguyễn và quan Thống sứ của Pháp đứng đầu.

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lãng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


VIETNAMESE COMMANDOS

  1. Một Trang Lịch Sử

  2. Viết Lại Lịch Sử  Video

  3. Secret Army Secret War Video

  4. Đứng Đầu Ngọn Gió Video

  5. Con Người Bất Khuất Video

  6. Dấu Chân Biệt Kích Video

  7. Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

  8. Huyền thoại về:"Những người lính một thời bị lãng quên" Kim Âu

  9. Phản Bội Kim Âu

  10. Tiếng Nói Công Lý Kim Âu

  11. Vietnam’s ‘Lost Commandos’ Gain Recognition in Senate

  12. President Unit Citation at Fort Bragg

  13. Vietnamese Commando never knew U.S. declared him dead

  14. Back from the dead

  15. Bill of Compensation

  16. Miami! Gian Hùng Lộ Mặt  Kim Âu 

  17. Honoring Vietnamese Commandos

  18. Honoring South Vietnamese Army

  19. Vietnamese Commandos Win Last Battle

  20. Uncommon Betrayal

  21. Go to congress

  22. Trong Giòng Lịch Sử Kim Âu

  23. Oplan 21 Kim Âu

  24. Biệt Kích Gỉa, Biệt Kích Thật Kim Âu

  25. Xuyên Tạc Lịch Sử Kim Âu

  26. Cảm Nghĩ Đầu Xuân (2011)

  27. Những Tên Miệng Hùm Gan Sứa Kim Âu

  28. Loretta Sanchez Không Hề Gian Dối Kim Âu

  29. Ăn Qủa Nhớ Kẻ Trồng Cây Kim Âu

  30. The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.

  31. Lá Thư Tự Thú

  32. Người Tù Kiệt Xuất

  33. Hồi Chuông Báo Tử I

  34. Hồi Chuông Báo Tử II

  35. Hồi Chuông Báo Tử III

  36. Hồi Chuông Báo Tử IV

  37. Thư Trả Lời Mai Nhuệ Anh

  38. Thánh Nhân Vô Phí Vật

  39. Đặc Biệt Cho Nhóm 10%

  40. Phân Định Chính Tà

  41. Phân Ðịnh Chính Tà 1

  42. Phân Ðịnh Chính Tà 2

  43. Phân Ðịnh Chính Tà 3

  44. Hư Danh - Hư Cấu

  45. Kim Âu Trả Lời Phỏng Vấn Hồng Phúc

  46. Hồng Phúc Phỏng Vấn Tourison. Lê Ngung

  47. Sư Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  48. Tri Nhân Tri Diện Bất Tri Tâm

  49. Nguyên Uỷ Một Vụ Kiện

  50. Trả Lời Câu Hỏi Của Một Vi Hữu


 

 

Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn * Một Trang Lịch Sử

Vietnamese Commandos' History * Vietnamese Commandos vs US Government * Lost Army Commandos

Bill of Compensation * Never forget * Viết Lại Lịch Sử  Video * Secret Army Secret War Video

Đứng Đầu Ngọn Gió Video * Con Người Bất Khuất Video * Dấu Chân Biệt Kích Video * Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.* Gulf of Tonkin Incident * Pentagon Bạch Hóa * The heart of a boy

U.S Debt Clock * Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton * None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) * Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

The World Order Eustace Mullin * Trăm Việt trên vùng định mệnh * Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis * Lyndon Baines Johnson Library Musuem

Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn * Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam Bình Nguyên Lộc

Nghi Thức Ngoại Giao * Lễ Nghi Quân Cách * Sắc lệnh Cờ Vàng * Quốc Tế Cộng Sản

How Does a Bill Become Law? * New World Order * Diplomacy Protocol. PDF

The World Order Eustace Mullin * Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

Vietnam War Document * American Policy in Vietnam

Foreign Relations Vietnam Volum-1 * The Pentagon Papers * Pentagon Papers Archives

Vietnam and Southeast Asia Doc * Vietnam War Bibliogaphy * Công Ước LHQ về Luật Biển

CIA and NGOs * CIA And The Generals * CIA And The House Of Ngo * Global Slavery

Politics of Southeast Asia * Bên Giòng Lịch Sử

Dấu Binh Lửa * Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

Bách Việt  * Lược Sử Thích Ca  * Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

Douglas Mac Arthur 1962 * Douglas Mac Arthur 1951 * John Hanson, President of the Continental Congress

Phương Pháp Biện Luận * Build your knowledge

To be good writer * Ca Dao -Tục Ngữ * Chùa Bái Đính * Hán Việt

Top 10 Crime Rates  * Lever Act * Espionage Act 1917 * Indochina War * Postdam * Selective Service Act

War Labor Board * War of Industries * War Production Board * WWII Weapon * Supply Enemy * Wold War II * OSS

Richest of The World * Truman Committee   * World Population * World Debt * US Debt Clock *

An Sinh Xã Hội - Cách Tìm IP Email * Public Holiday * Funny National Days

Oil Clock * GlobalResearch * Realworldorder * Thirdworldtraveler * Thrivemovement *Prisonplanet.com *Infowars

Rally protest *Sơ Lược VềThuyền Nhân  *The Vietnamese Population in USA *Lam vs Ngo

VietUni * Funny National Days  * 1DayNotes   

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 


 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


MINH THỊ

LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

 

 

 

 

.

 

 

 

CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV

.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank

.Fed Register .Congr Record .History .CBO

.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState

.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee

.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate

.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive

.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect

.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND

-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost

.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme

.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics

.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner

.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL

.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters

.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon

.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim

.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite

.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale

.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider 

.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above

.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen

.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch

.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS

.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes

.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign

.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media  

.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty

.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway

.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity

.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua

.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị

.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen

.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại

.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền

.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu  

.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc

.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn

.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn

.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng

.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia

.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều

.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism

.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức

.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương

.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG

.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT

.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN

.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa

.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân

.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *

.Tác Phẩm * Khào  Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *