* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu

* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos 

* Biệt kích  -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV

* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí

* Khảo  Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo

* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý

* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery

* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer

 

ĐẶC BIỆT

  1. Served  In A Noble Cause

  2. Hào Kiệt For Rent

  3. Trò Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

  4. Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

  5. Văn Kiện Về Quyền Con Người

  6. Liberal World Order

  7. The Heritage Constitution

  8. The Invisible Government Dan Moot

  9. The Invisible Government David Wise

  10. Montreal Protocol Hand Book

  11. Death Of A Generation

  12. Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư

  13. Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  14. Phân Định Chính Tà

  15. Giáo Hội La  Mã:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

  16. Secret Army Secret War - CIA Giải mật

  17. Mật Ước Thành Đô: Trò Bịa Đặt

  18. Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập

  19. Lãnh Hải Việt Nam ở Biển Đông

  20. Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

  21. Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

  22. Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

  23. Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

  24. Trò Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

  25. Hài Kịch Nhân Quyền

  26. CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

  27. Tội Ác PG Ấn Quang

  28. Âm mưu của Ấn Quang

  29. Vụ Đài VN Hải Ngoại

  30. Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

  31. Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

  32. Lịch Sử CTNCT

  33. Tượng Đài: Lưu Xú - Lưu Manh

  34. Về Tác Phẩm Vô Ðề

  35. Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh

  36. Bút Ký Tôi Phải Sống

  37. Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

  38. Đặc Công Đỏ Việt Thường

  39. Kháng Chiến Phở Bò

  40. Băng Ðảng Việt Tân

  41. Mặt Trợn Việt Tân

  42. Tù Binh và Hòa Bình

  43. Nước Mắt Trước Cơn Mưa

  44. 55 Ngày Chế Độ Sài Gòn Sụp Đổ

  45. Drug Smuggling in Vietnam War

  46. The Fall of South Vietnam

  47. Giờ Thứ 25

  48. Economic assistant to South VN 1954- 1975

  49. RAND History of Vietnam War era

  50. Chiến Sĩ Vô Danh 

 

 

     LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

-07/2008 -08/2008 -09/2008 -10/2008 -11/2008 -11/2008

-12/2008 -01/2009 -02/2009 -03/2009 -04/2009 -05/2009

-06/2009 -07/2009 -08/2009 -09/2009 -10/2009 -11/2009

-12/2009 -01/2010 -03/2010 -04/2010 -05/2010 -06/2010

-07/2010 -08/2010 -09/2010 -10/2010 -11/2010 -12/2010

-01/2011 -02/2011 -03/2011 -04.2011 -05.2011 -06.2011

-07/2011 -08/2011 -09/2011 -10/2011 -11/2011 -12/2011

-05/2012 -06/2012 -12/2012 -01/2013 -12/2013 -03/2014 -09.2014 -10.2014 -12/2014 -03/2015 -02/2015 -02/2015 -02/2015 -02/2016 -02/2016 -03/2016 -07/2016 -08/2016

-09/2016 -10/2016 -11/2016 -12/2016 -01/2017 -02/2017

-03/2017 -04/2017-05/2017 -06/2017 -07/2017 -08/2017

-09/2017 -10/2017 -11/2017 -12/2017-01/2018 -02/2018

-03/2018 -04/2018 -05/2018 -06/2018 -07/2018 -08/2018

-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019

-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019 

 

Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. Mar/2017. 

Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017. Jul/2017. Aug/2017.

Sep/2017. Oct/2017. Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018.

Feb/2018. Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018. Nov/2018.

Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019

May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019

 

Beginner's Guide Web Design

Responsive Web Design

Professional Web Design

Learning Web Design 4

A List Apart Responsive Web Design

Responsive Web Design Ethan

The Book of CSS3

Mastering Resposive Web Design HTML 5

HTML Tutorial

HTML5 CSS3 Responsive Cookbook

Principle of Web Design

Real Life Responsive Wed Design

Learning Responsive Web Design

Learn HTML and CCS

Pro HTML 5 Accessi

Thiết Kế Web


http://www.expression-web-tutorials.com/

https://www.w3schools.com/howto/howto

_css_social_media_buttons.asp

https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q

https://www.codecademy.com/en/forum_

questions/532619b28c1ccc0cac002730

https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp

https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp

https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp

https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro

https://archive.org/details/responsivewebdesign

https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/

Computer Page

 

https://vimeo.com/

http://www.imdb.com/

https://www.crackle.com/

https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies

https://archive.org/details/feature_films

https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/

 

 

Kim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearningTrang Chủ Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

THÁNG 7-2019

 

UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV

PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT  NBCSPORT  ESPNSPORT - EPOCH

   

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thư liên lạc

trinh bui <trinhbui49@yahoo.com>

14:24, 16 thg 7, 2019 (4 ngày trước)

tới tôi

Bạn hiền thân mến,

 Chỉ qua một đôi câu trao đổi, tao có cảm nghĩ là mày đang muốn một thứ lịch sử không phải của các sử gia, bởi vì các sử gia đều viết theo thiên kiến của chế độ mà họ đang phục vụ.

Vậy thì tao thử gửi đến cho mày một cách nhìn lịch sử của cá nhân tao mà tao nghĩ nó đúng như ý của mày.

Tao không phải là một sử gia cho nên tao không hề sáng tác ra lịch sử.  Mà tao chỉ là một người đọc lịch sử, nhưng mà tao đọc thiên kinh vạn quyển;  cho nên kinh nào, quyển nào nói mà tao tin được thì tao cho nó vào kho kiến thức của mình, cái nào không tin thì tao thẳng tay loại bỏ.

Sau đây là loạt bài “Biên Khảo Về Nguyễn Tất Thành” mà tao đã đăng trên net. Tao nghĩ trước là mày coi để hiểu hơn về ý hướng của tao.  Sau nữa là mày có thể giữ nó như một tài liệu lịch sử để viết bài.

 http://quanvan.net/bui-anh-trinh-bien-khao-ve-nguyen-tat-thanh/

Ngoài ra, để mày hiểu hơn về cái nhìn của tao đối với con người của mày, tao gởi đến mày 2 bài viết về Bảy Viễn và một bài về Tướng Nguyễn Ngọc Loan, những con người mà tao cho là hảo hớn. Trong khi những sử gia của các chế độ thì không khi nào có cái nhìn đúng về những nhân vật hảo hớn của lịch sử.

https://vietcongonline.wordpress.com/2014/10/27/bui-anh-trinh-luc-luong-viet-minh-binh-xuyen/

https://vietcongonline.wordpress.com/2014/10/30/bui-anh-trinh-lay-nghia-khi-de-do-gia-tri-cua-con-nguoi/

https://vietcongonline.wordpress.com/2015/02/05/tuong-nguyen-ngoc-loan-triet-nhan-dieu-doi/

Tao rất vui khi gặp lại mày và được biết “anh hùng vẫn chưa thấm mệt”. Tao vẫn theo dõi hoạt động của mày từ ngày tao ra khỏi trại tù và bắt lại được tin tức của mày.  Giờ đây gặp lại tao thấy mày vẫn là thằng bạn mà tao đã mến mộ từ hồi nào tới giờ.

 

BÙI ANH TRINH

BIÊN KHẢO VỀ NGUYỄN TẤT THÀNH

 

 

 

Lịch sử chính trị của Việt Nam trong gần 80 năm qua quy tụ xung quanh hoạt động của nhân vật Hồ Chí Minh, do đó chỉ cần dựng lại bối cảnh 50 năm hoạt động của ông Hồ Chí Minh thì kể như là giải thích toàn bộ mọi biến chuyển khó hiểu của lịch sử Việt Nam trong thế kỷ 20.

 

Một khi đã nói lên sự thật  trái ngược với những sách vở trước kia thì không thể nào tránh khỏi đụng chạm tới những nhân vật từng có nhiệt tâm với lịch sử, nhiệt tâm với đất nước.  Và cũng không tránh khỏi được chuyện phải phản bác những luận thuyết từng thống trị diễn đàn chính trị từ trước tới nay, phía bên này cũng như phía bên kia.

 

Giờ đây đã tới lúc phải trả lại sự thật cho lịch sử, nghĩa là phải chỉnh lại các quyển sách lịch sử chính trị Việt Nam hiện được dùng để giảng dạy tại các đại học Pháp, Hoa Kỳ cũng như tại Việt Nam.  Bởi vì những sách này hoàn toàn lỗi thời so với những tài liệu mới đựoc giải mã và các hồi ký của những người trong cuộc mới được đưa ra công khai trong vòng hai thập niên vừa qua.

 

BÙI ANH TRINH

 

(46) MAO TRẠCH ĐÔNG CHIẾM TRUNG HOA

 

 

Năm 1947, ngày 10-12, Tư lệnh Đệ Tam Sư đoàn Nguyễn Hòa Hiệp (Cao Đài) hoạt động du kích từ Lái Thiêu đến Cần giờ (Rừng Sát) có một chi đội đóng tại Bình Qưới Tây, Lê Duẩn cho cài người của mình là Hoàng Của vào “nằm vùng” trong chi đội Bình Quới Tây của Đệ Tam Sư đoàn, anh ta được giao cho làm đại đội trưởng.

 

Ngày 10-12-1947 Hoàng Của tổ chức cho đại đội của anh ta và một đại đội khác đá banh giao hữu. Trong khi quân của hai đại đội đang mãi xem đá banh thì quân Việt Minh tràn vào đánh úp, thanh toán sạch cầu thủ cũng như khán giả rồi hốt gọn kho đạn Bình Quới Tây tẩu thoát.

 

Năm 1948, Tết Mậu Tý, tại Cần Giờ, Lê Duẩn cho Ủy ban Hành Kháng xã Cần Giờ tổ chức khao tiệc tất niên cho quân đội Đệ Tam Sư đoàn của Nguyễn Hòa Hiệp.  Trong khi đó Lê Duẩn cho quân Việt Minh của Huỳnh Văn Một giả dạng thường dân trà trộn trong đám đàn bà con nít bao vây chia cắt quân của Nguyễn Hòa Hiệp thành từng nhóm lẻ.

 

Giữa trưa, thừa lúc bộ đội đang ăn tiệc, toán thường dân áp vào ngắm nghía súng của bộ đội rồi đồng loạt chụp súng bỏ chạy trong khi đó quân Việt Minh nổ súng tràn vào thanh toán.  Nguyễn Hòa Hiệp và Vũ Tam Anh chạy về tá túc tại chi đội 4 Bình Xuyên của Mười Trí là em kết nghĩa của Bảy Viễn.   Chính những hành động huyết nhục tàn sát như thế này của Việt Minh đã khiến cho cả dân tộc lâm vào cảnh chiến tranh tương tàn sau khi Pháp không trao trả độc lập cho Hồ Chí Minh mà lại trao cho Bảo Đại.

 

Quân Mao Trạch Đông chuyển sang đà chiến thắng

 

Năm 1948, ngày 7-10, quân Mao Trạch Đông chiếm Trường Xuân ở Hoa Bắc . Ngày 17-10, tướng Lâm Bưu của Mao Trạch Đông chỉ huy 179.000 quân chiếm Trịnh Châu, bắt 100.000 tù binh.  Ngày 1-11 quân Mao Trạch Đông chiếm Phụng Thiên và kiểm soát toàn thể Mãn Châu .

 

*Chú giải :  Đài phát thanh Việt Minh liên tục ca ngợi chiến thắng của quân Mao Trạch Đông.  Kể từ đầu năm 1947 mặc dầu có lời kêu gọi kháng chiến của HCM nhưng đã qua 2 năm mà đoàn quân kháng chiến của Võ Nguyên Giáp  chưa đánh được một trận nào, chỉ có chạy và rút lui, khi nào rút lui được an toàn thì kể như chiến thắng.

 

Đài phát thanh Việt Minh không có một tin tức chiến sự nào để gây khí thế trong phong trào “Kháng chiến chống Pháp”.  Do đó các chiến thắng như chẻ tre của Mao Trạch Đông trở thành đề tài gây phấn khởi trong toàn quân Việt Minh

 

Riêng về phần Quốc trưởng Bảo Đại thì ông không muốn cái cảnh rồi đây ông sẽ đấu súng với Việt Minh.  Ông muốn nhân dân Việt Nam sớm dứt khoát hoặc là Bảo Đại hoặc là Hồ Chí Minh, chứ không thể để xảy ra chuyện một nửa bên này một nửa bên kia.  Nếu giờ đây nhân dân Việt Nam chọn ông thì việc của ông là nhận lại chủ quyền;  lúc đó ông sẽ mở đường cho Hồ Chí Minh và người của ông ta trở về.

 

Tài liệu của giáo sư Lê Trọng Quát, cựu Dân biểu Quốc hội VNCH :

 

“Ngày 16 tháng 7, Quốc trưởng Bảo Đại đến Hà Nội….Ông đặt một vòng hoa trên nghĩa địa của những người đã chết trong cuộc tổng tấn công ngày 19 tháng 12, 1946.

 

Một số sử liệu của Pháp cho rằng ông đã đặt vòng hoa trên mộ những chiến sĩ Việt Minh trong dụng ý thể hiện vị trí mà lúc ấy ông tự tạo cho mình, đứng trên mọi phe phái, kể cả Việt Minh, để kêu gọi tất cả các thành phần dân chúng Việt Nam gạt bỏ mọi dị biệt chính kiến, cùng nhau xây dựng xứ sở…” ( Việt Nam Đi Về Đâu, quyển 1, trang 375 ).

 

Hành động và dụng ý của Bảo Đại rất cảm động.  Nếu HCM là một người yêu nước thì ông ta sẽ dễ dàng trở về hợp tác với Bảo Đại giống như lực lượng kháng chiến Hòa Hảo ( Đệ tứ sư đoàn của Trần Văn Soái ), lực lượng kháng chiến Cao Đài ( Đệ tam sư đoàn của Nguyễn Hòa Hiệp ), lực lượng kháng chiến Bình Xuyên ( Bảy Viễn ), lực lượng kháng chiến Quốc Dân Đảng ( Võ Hồng Khanh ), Lực lượng kháng chiến Đại Việt ( Đệ nhị sư đoàn của Bùi Hữu Phiệt ).…

 

So lại với cảnh Hồ Chí Minh về Hà Nội vào năm 1954 thì chỉ có máu đổ đầu rơi, chia lìa tan nát; chỉ có đi tìm giết và thanh toán hận thù, chiếm nhà cửa, ruộng vườn, đuổi dân lên rừng ( Kinh tế mới ) sống theo kiếp lượn hái của loài vượn khỉ. Thế nhưng đau lòng là ngày nay lịch sử trong nước Việt Nam lại cho rằng HCM là cha già dân tộc thương dân thương nước, còn Bảo Đại là tay ăn chơi, lưu manh điếm đàng (sic).

 

Mao Trạch Đông chiếm được toàn cõi Trung Hoa

 

Năm 1949, ngày 1-1, quân Mao Trạch Đông chiếm toàn bộ lãnh thổ Hoa Bắc, đẩy lui quân Tưởng Giới Thạch xuống phía Nam sông Dương Tử.  Ngày 21-1, Tưởng Giới Thạch từ chức Tổng thống và lui về Lư Sơn. Ngày 22-1 quân Mao Trạch Đông  chiếm Bắc Kinh.

 

Năm 1949, ngày 21-1, bà Tống Mỹ Linh là vợ của Tưởng Giới Thạch sang Hoa Kỳ vận động chính phủ Hoa Kỳ viện trợ quân sự.  Ngày 1-2, để đáp lại lời kêu gọi của bà Tống Mỹ Linh, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ cho công bố thống kê thiệt hại của Tưởng Giới Thạch sau 1 năm đánh nhau với quân Mao Trạch Đông:  Bị thiệt hại 1 triệu 223 ngàn quân, mất 400 ngàn súng, trong đó có 140 ngàn súng của Hoa Kỳ, với 20 công binh xưởng lớn.

 

*Chú giải :  Bất cứ ai đọc được con số 400.000 khẩu súng cũng đều đặt ra câu hỏi là Mao Trạch Đông sẽ làm gì với số súng đó sau khi ông ta chiếm được Trung Hoa?  Riêng đối với người Việt và người Pháp thì câu trả lời là Mao Trạch Đông sẽ chuyển cho quân đội của Hồ Chí Minh.

 

Điều phỏng đoán này rất dễ dàng biến thành sự thật vì nhìn lại trên thế giới thì sẽ không có ai mua 400.000 khẩu súng đó, ngoại trừ Hồ Chí Minh và Kim Nhật Thành của Bắc Hàn.  Dĩ nhiên Hồ Chí Minh và Kim Nhật Thành sẽ mua bằng cái giá là lệ thuộc vào hệ thống Cọng sản của Staline và Mao Trạch Đông, một cái giá mà Trường Chinh và Đảng Cọng sản Đông Dương đang mong mỏi.

 

Năm 1949, ngày 20-4, quân Mao Trạch Đông vượt qua sông Dương Tử, đánh tràn xuống Hoa Nam.  Ngày 23-4, quân Mao Trạch Đông chiếm Nam Kinh.  Ngày 25-5, quân Mao Trạch Đông chiếm Thượng Hải.

 

Năm 1949, ngày 1-10, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân dân Trung Quốc.  Ngày 2-10 Staline thừa nhận nước Trung Quốc. Ngày 14-10, quân Mao Trạch Đông chiếm Quảng Châu . Ngày 31-11, quân Mao Trạch Đông chiếm Trùng Khánh . Ngày 11-12 tướng Lư Hán, tư lệnh quân Trung Hoa tại Vân Nam qui hàng Mao Trạch Đông .

 

Năm 1949,  ngày 14-12, 20.000 quân Tưởng Giới Thạch chaỵ sang Lạng Sơn cùng với 10.000 dân tị nạn Cọng sản.  Quân Pháp tước vũ khí và tập trung tại Đông Triều, Hòn Gay.  Ngày 22-12, hơn 8.000 quân Tưởng Giới Thạch chạy sang Thất Khê, Cao Bằng.  Ngày 25-1-50, hơn 5.000 quân Tưởng Giới Thạch chạy sang Lào Cay. Ngày 5-2-50, 3.500 quân Tưởng Giới Thạch chạy sang Lai Châu.

 

Có một đám đông khoảng 2.500 người từ Trung Hoa chạy sang Na Chàm vào ngày 26-10 nhưng họ không chịu giao nộp vũ khí, người cầm đầu là ông Vũ Hồng Khanh, lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở hải ngoại.  Sau đó họ trốn vào rừng, nhưng đến ngày 6-1-50 thì họ ra trình diện tại Lục Nam, cách Na Chàm 100 cây số.

 

Năm 1950, ngày 16-1, Hồ Chí Minh chúc mừng Chính phủ của Trung Quốc mới được thành lập tại Bắc Kinh.

 

*Chú giải :  Gió đã đổi chiều, người Việt Nam đối diện với nguy cơ Cọng sản

 

Sau khi bác Hồ Chí Minh chạy lên rừng vào cuối năm 1946 thì nhân dân Việt Nam hoàn toàn mất phương hướng.  Lâu nay dân chúng thầm van vái cho bác ta thành công trong việc điều đình giành lại độc lập từ tay quân thù.  Nhưng việc bác bỏ chạy cho thấy là vở tuồng đã hạ màn.

 

Suốt 2 năm trời các ông đạo diễn Pháp cũng tìm không ra người thế vai Hồ Chí Minh.  Họ bèn kiếm ông Bảo Đại để dụ ông này trở lại làm vua với thù lao hậu hỉ hơn.  Tuy nhiên kép chính Bảo Đại có phần khôn ra sau khi từ bỏ ngai vua trên sân khấu để xuống ngồi làm khán giả.  Trong vị trí khán giả ông ta đã thấy ra nhiều điều.  Bởi vậy sau 2 năm kèn cựa quyết liệt, Bảo Đại đã thành công trong việc hoàn thành lời hứa trước quốc dân, đó là một nước Việt Nam độc lập và thống nhất.

 

Cho đến giữa năm 1949 thì người Việt Nam hình như quên bẵng đi ông Hồ Chí Minh trên chiến khu Việt Bắc.  Và người Việt Nam cũng quên đi hai chữ “Cọng sản” sau khi có một thời nó xuất hiện rầm rộ vào cuối năm 1945.  Dân chúng lo làm ăn phát triển đời sống dưới chế độ mới của Bảo Đại.  Quả tình chế độ này có dễ chịu hơn rất nhiều so với thời thực dân.  Đối với đa số dân chúng thì đất nước Việt Nam được quốc tế công nhận là nước của người Việt Nam.

 

Người dân có quyền bầu người đại diện cho mình để điều hành việc nước.  Được quyền tự do ăn nói, tự do đi lại, tự do hội họp, tự do làm ăn sinh sống.  Nghĩa là mọi việc hoàn toàn thỏa mãn, không có gì đáng phải kêu ca.  Nhưng dầu sao báo chí cũng phản ánh phong trào tranh đấu đòi độc lập toàn diện khiến cho người dân cũng biết được rằng đất nước còn phải trải qua một đoạn đường tranh đấu nữa, nhưng không nhất thiết phải dùng vũ lực, chỉ cần tranh đấu bằng chính trị như ông Bảo Đại đang làm.

 

Nhưng không ngờ mây đen đã kéo tới bầu trời chính trị Việt Nam khi tin chiến thắng của ông Mao Trạch Đông lan truyền về Việt Nam, cùng lúc với di dân tị nạn Trung Hoa tràn sang Việt Nam, đem theo những tin tàn sát dã man của cuộc Cách Mạng Vô Sản tại Trung Hoa.  Đến tháng 10 năm đó thì Mao chiếm được Bắc Kinh và tuyên bố thành lập nước Trung Quốc.

 

Đến lúc đó thì Việt Minh không giấu giếm tổ chức của họ là Cọng sản mà trái lại, họ ra sức tuyên truyền xác nhận Việt Minh là Cọng sản.

 

BÙI ANH TRINH

 

*Chú thích của người viết :

 

 Đầu năm 2015 ông Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng hô hào “Học tập theo gương đạo đức Hồ Chí Minh”.  Nghĩa là ông HCM đã chết nhưng tư tưởng của ông ta còn sống.  Hoặc nói một cách văn hoa là ông ta chết nhưng mà chưa chôn.  Vậy nên người đào bới lịch sử có nhiệm vụ phải mai táng ông HCM cho kỹ càng để môi trường lịch sử Việt Nam được trong sạch.

 

Trong bài viết trên đây có 3 tấm gương đạo đức của ông HCM mà người Việt không nên học tập :

 

(1). Hồ Chí Minh rước voi về giày mả tổ, thế nhưng HCM lại đổ cho những người yêu nước ( người Quốc gia ) là bè lũ tay sai, chó săn phản động.  ( Lưu manh ).

 

(2). Chế độ Cọng sản tại Việt Nam không phải là do nhân dân Việt Nam chọn lựa.  Mà là do HCM phải trả nợ cho Mao Trạch Đông.  ( Bán nước )

 

(3). Bảo Đại và người Việt Quốc gia chống lại Cọng sản vì họ thấy cái gương trước mắt của Trung Hoa, một khi Cọng sản cầm quyền thì người dân mất hết đất đai tài sản, mất luôn quyền làm con người.  ( Tàn ác )

 

 

(47) STALIN CHO GỌI BÁC SANG

 

 

Stalin và Hồ Chí Minh năm 1945

 

Tháng 11 năm 1945 ông Hồ Chí Minh có gởi cho Stalin một bức thư thông báo sự ra đời của “Nước Việt Nam Dân chủ”.   Stalin cho lục lại hồ sơ của nhân vật Nguyễn Ái Kvak ( Nguyễn Tất Thành ) trong hồ sơ lưu trữ của Cọng sản Quốc tế.

 

Kết quả cho thấy đây là một người theo đảng Cọng sản Pháp, xuất thân là thợ rửa hình, từng có mấy tháng làm nghề viết các bản tin cho báo chí của CSQT tại Mạc Tư Khoa.  Rồi sau đó đã bị 4 năm kỷ luật tại Mạc Tư Khoa vì bị tố cáo là bán các đồng chí của mình và được đánh giá là “chưa bao giờ là người Cọng sản” ( Quinn Judge, Ho Chi Minh, The missing Years, trang 206 ).  Vì vậy Staline cho dẹp hồ sơ của Nguyễn Ái Kvak qua một bên và quên ông này đi

 

Đến tháng 1-1946 ông Hồ gởi một bức thư nữa cho Stalin nhưng ngày nay văn khố Nga còn lưu lại bức thư được ông S.P.Kozyrep của Bộ ngoại giao Liên Xô phê bên cạnh “Không trả lời” ( Tài liệu của Bukharin đăng trên báo “Xưa và Nay”, Mạc Tư Khoa; số 55, tháng 9-1998; giáo sư Christopher Goscha sưu tầm).

 

Văn kiện này chứng tỏ ông Hồ Chí Minh và ông Stalin hoàn toàn không có liên quan gì với nhau trước năm 1945 cũng như sau 1945.  Vì vậy các lời cáo buộc rằng Nga đưa Hồ Chí Minh về Việt Nam cướp chính quyền là không đúng.

 

Tình hình thế giới căng thẳng vì sự phân cực giữa Nga và Mỹ

 

Cuối năm 1945 Chủ tịch nước Nga và Tổng thống nước Mỹ vui vẻ bắt tay nhau tổ chức lễ mừng chiến thắng Thế chiến thứ 2.  Nhưng sau buổi lễ đó là vấn đề chia lại quyền lực thống trị thế giới sau khi Đức, Ý và Nhật bại trận.  Sự sắp xếp lại trật tự Thế giới trở nên căng thẳng vì ông Stalin cho rằng nhân dân Nga đã bị chết tới 22 triệu người mà phần nhận được sau cuộc chiến chẳng có bao nhiêu so với Mỹ.

 

Thế là Stalin quyết định hô hào Cọng sản hóa toàn thế giới, gọi Mỹ là “tên đầu sỏ của Đế quốc Thực dân kiểu mới”.  Để đối lại, Mỹ liên minh với các nước tư bản hàng đầu bao vây kinh tế nước Nga khiến cho nước Nga không có cơ hội phục hồi kinh tế sau chiến tranh.  Đến năm 1948 thế giới phân cực và cuộc “chiến tranh lạnh” bắt đầu.

 

Trước tình hình đó, ông Hồ Chí Minh không biết phải đối xử ra sao giữa việc chống hay không chống lại Mỹ.  Trước kia nếu theo Mỹ thì cũng được coi như là theo Nga vì Nga với Mỹ là Đồng Minh.  Vì vậy HCM đề cử Phạm Ngọc Thạch sang Paris gặp lãnh đạo Đảng Cọng sản Pháp để đặt lại vấn đề.

 

Ông Thạch được đưa qua Bern, Thụy Sĩ, để gặp đặc sứ Liên Xô tại Thụy Sĩ là Koulachenkov.  Ông Thạch cho biết là người Mỹ đang nhắm nhe dụ dỗ ông HCM để bành trướng thế lực chống Cộng ở Đông Nam Á.  Vì vậy ông Thạch muốn được đi Mạc Tư Khoa để bàn với lãnh đạo Nga về tình hình Đông Nam Á.  Ông Koulachenkov hứa sẽ chuyển đề nghị này về Mạc Tư Khoa ( Hồ sơ lưu trữ Quốc gia Tiệp Khắc, giáo sư Christopher Goscha sưu tầm).

 

Ông Phạm Ngọc Thạch trở về Pháp chờ đợi, và đến tháng 12-1947 ông lại gửi một tập tài liệu cho Mạc Tư Khoa, phân tích tình hình Đông Nam Á, nêu rõ quyết tâm ủng hộ Liên Xô của ông HCM và ĐCSVN trước sự phân cực giữa Tư bản và Cọng sản, đồng thời nêu rõ khả năng lãnh đạo Cọng sản trong vùng Đông Nam Á của lãnh tụ HCM.

 

Cuối cùng ông kêu gọi Stalin viện trợ quân sự và kinh tế (Hsltr/MTK, giáo sư Christtopher Goscha sưu tầm).  Kết quả là Stalin không thèm để ý đến chuyện này.  Ông Thạch trở lại Việt Nam vào mùa thu năm 1948 mà chẳng có  kết quả gì.

 

Nhưng sau khi Mao Trạch Đông chiếm xong toàn cõi Trung Hoa vào cuối năm 1949, thì đầu năm 1950 họ Mao sang Mạc Tư Khoa để báo công với Stalin đồng thời vạch kế hoạch sắp tới cho phong trào Cọng sản hóa toàn thế giới.

 

Khi bàn về Đông Dương, Mao cho biết ông ta mới nhận được điện chúc mừng của nhân vật Hồ Chí Minh, một cán bộ Cọng sản  đang cầm đầu một tổ chức kháng chiến Cọng sản được dân chúng theo rất đông.  Tuy nhiên nhân vật này không có vẻ gì là Cọng sản vì chính ông ta đã vận động giải tán đảng Cọng sản của Trường Chinh.

 

Hơn nữa, cuốn tiểu sử chính thức của Hồ Chí Minh do Trần Dân Tiên viết và do Bộ Thông tin của chính phủ Việt Minh phát hành vào năm 1948 đã cho thấy ông ta từng sang Trung Hoa cầu viện Tưởng Giới Thạch vào năm 1942.

 

Về phần Staline thì cũng cho biết là ông ta đã xem kỹ hồ sơ của nhân vật này;  không thể dùng HCM như một nhân vật lãnh đạo phong trào Cọng sản tại Đông Dương.  Tuy nhiên không thể phế bỏ ông ta vì uy thế của ông ta đang có lợi cho ĐCSVN, phế bỏ ông ta thì ẽ phế bỏ hơn phân nửa cán bộ và sự ủng hộ của dân chúng.

 

Vì vậy có thể dùng uy tín của HCM để vực dậy đảng Cọng sản của Trường Chinh và giao cho Trường Chinh nhiệm vụ hoàn thành chế độ Cọng sản tại Việt Nam.  Sau khi bàn bạc, Stalin và Mao Trạch Đông cho gọi Hồ Chí Minh sang Mạc Tư Khoa và số phận của đất nước Việt Nam thay đổi từ ngày đó, tức là đầu năm 1950.

 

Stalin cho gọi Hồ Chí Minh sang Mạc Tư Khoa

 

Hồi ký của Hoàng Tùng: “Năm 1950 Stalin và Mao Trạch Đông cho gọi Bác sang”.

 

Năm 1950, ngày 20-1, Hồ Chí Minh bí mật rời Tổng Bộ Việt Minh tại Tuyên Quang lên đường sang Trung Quốc qua cửa khẩu Thủy Khẩu tỉnh Quảng Tây.  Chỉ có một tiểu đội bảo vệ đưa tới biên giới, cùng đi với ông có giáo sư Nguyễn Khánh Toàn là thông dịch viên tiếng Nga cho HCM.  Tướng Trần Canh của Trung Quốc đón Hồ Chí Minh tại Quảng Tây và đưa ông về Bắc Kinh  ngày 26-1 (Nhật ký của Tướng TQ Trần Canh).

 

Năm 1950, giữa tháng 2, Hồ Chí Minh sang Mạc Tư Khoa gặp Stalin và Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đang có mặt tại đó.  Sau nửa tháng bàn bạc với Stalin và Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh rời Mạc Tư Khoa về lại Bắc Kinh ngày 4-3, hội đàm với Chu Ân Lai về vấn đề viện trợ quân sự cho CSVN (Tài liệu của Hồ Thức Hòa, đăng trên báo Lao Động của CSVN số Xuân Canh Thìn năm 2.000).

 

*Chú giải : Theo cựu Bí thư Hoàng Tùng, khi Hồ Chí Minh sang Trung Quốc thì chỉ gặp Phó chủ tịch Nhà nước Trung Quốc là Lưu Thiếu Kỳ:  “Khi gặp Bác, Lưu Thiếu Kỳ nói ngay rằng:  Các đồng chí giải tán Đảng, các đồng chí tưởng đâu lừa được địch, nhưng địch không lừa được mà lại lừa chính chúng tôi vì chúng tôi tưởng rằng các đồng chí giải tán Đảng thật.  Còn địch nó thừa hiểu các đồng chí không giải tán Đảng”( Hoàng Tùng, những kỷ niệm về Bác Hồ).

 

Đoạn hồi ký này cho thấy kể từ khi Hồ Chí Minh cho giải tán Đảng Cọng sản vào tháng 11 năm 1945 cho tới năm 1950 thì ĐCSVN và ĐCS Trung Quốc hoạt động độc lập, hai bên không có gì liên hệ hới nhau cũng như CSVN không liên hệ với Stalin.  Rõ ràng là trong vòng 5 năm đầu tiên Việt Minh không nhờ vả gì được nơi phe Cọng sản mà trái lại, muốn nương dựa vào thế lực của Hoa Kỳ, hay Tưởng Giới Thạch và ngay cả Pháp.

 

Vì vậy, những cáo buộc cho rằng Hồ Chí Minh và Đảng Cọng sản Việt Nam hoạt động dưới sự chỉ đạo của Stalin và Mao Trạch Đông từ năm 1945 là không đúng.

 

Cũng theo Hoàng Tùng, tại Mạc Tư Khoa Stalin đã phân công cho Đảng Cọng sản Trung Quốc là cơ quan chủ quản mới của tổ chức Việt Minh:  “Chuyến đi Trung Quốc và Liên Xô của Bác năm 1950 là chuyến đi gian khổ.  Khi đó Staline nói:  Bây giờ cách mạng Trung Quốc thành Công rồi, Trung Quốc có trách nhiệm giúp đỡ các nước Phương Đông cũng như Liên Xô có trách nhiệm giúp đỡ các nước Châu Âu và Châu Mỹ.  Trung Quốc cho như thế là Quốc tế cọng sản đã phân công cho Trung Quốc phụ trách Châu Á”.

 

Năm 1994 Tướng Võ Nguyên Giáp cho xuất bản cuốn sách “Đường Tới Điện Biên Phủ”, Ngay trong những trang đầu, Tướng Giáp đã ghi rõ một dấu mốc lịch sử của việc thay ngôi đổi chủ của Quân đội Nhân dân Việt Nam :

 

“Trong một buổi làm việc ở Mátxcơva cùng với Xtalin, có cả Mao Trạch Đông, Bác đề nghị Liên Xô giúp trang bị cho 10 đại đoàn bộ binh và 1 trung đoàn pháo cao xạ.  …” Mao Trạch Đông nói :  “Việt Nam có thể đưa ngay một số đơn vị sang nhận vũ khí trên đất Trung Quốc.  Tỉnh Quảng Tây sẽ là hậu phương trực tiếp của Việt Nam”…

 

“Ngay sau khi Bác trở về nước cuối tháng 3 năm 1950, các bạn Trung Quốc đã nhanh chóng thực hiện lời cam kết” ( Đường tới Điện Biên Phủ, in lần 2, trang 14 và 15)… “Cho tới hết năm 1950, ta đã tiếp nhận của Trung Quốc 1.200 tấn vũ khí, đạn dược, 180 tấn quân trang quân dụng, 2.634 tấn gạo, 20 tấn thuốc và dụng cụ quân y, 800 tấn hàng quân giới, 30 ô tô, 120 tấn xăng dầu và phụ tùng ô tô”(Trang 109).

 

* Chú giải :  Quyển hồi ký Đường Tới Điện Biên Phủ của Võ Nguyên Giáp được đưa ra công chúng sau khi các tài liệu mật của Trung Quốc về quan hệ Việt-Trung mới được công bố.  Các tài liệu này được Chen Jian sưu khảo và do China Quaterly ấn hành vào tháng 8 năm 1993 với tựa đề “China and the First Viet Nam war, 1950-1954”. Và cuốn sách “China and the Viet Nam wars, 1950-1975” của Quang Zhai do North Caroline ấn hành năm 2.000.

 

Ngoài ra, các chi tiết về quan hệ giữa Mao Trạch Đông đối với Quân đội Nhân dân Việt Nam được ghi lại tỉ mỉ trong nhật ký của Đại tướng Trần Canh.  Ông này qua đời năm 1961 nhưng người nhà của ông vẫn giữ nhật ký của ông làm lưu niệm.  Đến năm 1984, sau cuộc đánh nhau giữa Trung Quốc và CSVN thì phía Trung Quốc cho xuất bản nhật ký của Tướng Trần Canh.  Vì vậy hồi ký của Tướng Giáp ghi rõ từng chi tiết của giai đoạn 1950-1951 là nhờ so lại với nhật ký của Trần Canh.

 

 

 (48) HCM DƯỚI CON MẮT NHÌN CỦA STALIN

 

 

Hồi ức của Nikita Krushchev

 

Hồi ức của Nikita Krushchev được ghi chép trong bộ sách “Krushchev Remembers” , xuất bản năm 1991, có kể lại một câu chuyện nhỏ bên lề về cuộc gặp mặt Stalin-Hồ Chí Minh năm 1950 :

 

“Tôi nhớ lại khi Hồ Chí Minh đến Mooscow xin viện trợ về vật chất… .Stalin đối xử với Hồ Chí Minh như một sự phỉ báng.  Trong một cuộc gặp ông Hồ rút từ trong cặp ra tờ họa báo “L’URSS en Construction” và xin chữ ký.

 

Stalin xử sự theo cách luôn hoài nghi bệnh hoạn của ông ta, nhìn đâu cũng thấy kẻ phản bội và do thám.  Ông ta liền ký vào tờ báo nhưng ra lệnh cho mật vụ lén thu hồi lại.  Sau đó Stalin còn khôi hài với tôi : “Ông ta chắc vẫn còn ra sức tìm kiếm tờ báo ấy, nhưng chỉ phí công”

 

Krushchev kể lại chuyện này như một chuyện vui để nói về con người của Stalin, ông cho rằng Stalin đã đa nghi quá đáng vì sau khi buộc phải ký tặng cho Hồ Chí Minh thì Stalin đã cho mật vụ lẻn vào phòng Hồ Chí Minh tại khách sạn để đánh cắp lại tờ báo có chữ ký tặng này.

 

Có vậy mới thấy Stalin là người thâm trầm :  Không phải vì quá hâm mộ Stalin mà Hồ Chí Minh đã xin chữ ký của Stalin cũng như ông đã từng xin hình và chữ ký tặng của Tướng Chenault, Tư lệnh Không quân Mỹ tại Trung Hoa vào năm 1945.  Vì sau đó Hồ Chí Minh đã mang tấm hình Tướng Chenault về hang Pác Bó để lòe Trường Chinh và ĐCSVN.  Sau đó đem về Hà Nội lòe dân Hà Nội rằng ông ta là người của Mỹ.

 

Lần này thì HCM xin chữ ký của Stalin, nhưng câu hỏi được đặt ra là ông muốn có chữ ký đó để lòe ai ?  Không cần suy nghĩ nhiều thì cũng hiểu rằng suốt từ năm 1945 cho tới ngày đó thì Stalin và CSQT không hề liên lạc với HCM, điều này đủ để cho Trường Chinh và ĐCSVN đánh giá được mối quan hệ giữa Stalin và ông ta.

 

Sự thực là Stalin chẳng biết ông ta là ai, suốt 5 năm trời ông ta gởi cho Stalin biết bao nhiêu là thư nhưng chẳng có một lời hồi âm.   Sau này hồi ký của Hoàng Tùng tiết lộ:  “Vì quan hệ của ta với Liên Xô và Trung Quốc không được thuận tiện, cho nên khi chính quyền của ta được thành lập (1945) thì hai nước đã không công nhận”.

 

Vì đã lỡ mạo danh là người của Liên Xô đưa về nhưng suốt 5 năm không có dấu hiệu gì chứng tỏ có sự hậu thuẩn của Stalin, cho nên  lần này ông Hồ Chí Minh cần phải có một bằng chứng cụ thể nào đó để chứng thực những lời lòe bịp của ông ta trước đây.

 

Tuy nhiên Stalin là người “có sạn trong đầu” nên biết ngay là Hồ Chí Minh xin chữ ký của ông ta không phải xuất phát từ tấm lòng ngưỡng mộ thần tượng.  Mà chắc chắn phải có một mưu đồ nào khác;  dĩ nhiên là không quang minh chính đại.

 

Sau đó Stalin đã kể chuyện này cho Krushchev như là một bằng chứng cho thấy HCM chỉ là một tay thủ đoạn vặt mà không qua mắt nổi ông ta.  Ngoài ra Krushcheve cũng cho biết :

 

“Ông Hồ rất muốn cuộc đi thăm được công bố chính thức, và ông ta muốn được đón tiếp với tư cách chủ tịch nước Việt Nam.  Stalin bác bỏ yêu cầu ấy : “Đồng chí đã đến một cách lặng lẻ nên không thể công bố được”.  Ông Hồ vẫn đề nghị Stalin cho một chiếc máy bay và chuẩn bị bài diễn văn đón tiếp. Stalin cười khi kể lại với tôi : “Đó, ông ta muốn cả chuyện ấy, nhưng tôi trả lời :  Không”!

 

Qua lời kể vô tình của Krushchev, người ta có thể thấy rõ HCM chuyên dùng thủ đoạn hạ cấp, ngay cả đối với nghi thức ngoại giao quốc tế.  Ông ta dám đề nghị với chủ tịch nước Liên Xô một việc mà chỉ có bọn lưu manh mới làm.

 

Ngoài tiết lộ của Krushchev, sau khi tài liệu mật của văn khố Quốc gia Liên Xô được giải mật, giáo sư sư sử học Christopher Goscha của đại học Québec tại Montréal đã tìm thấy một văn thư của đại sứ Liên Xô tại Bắc Kinh gửi cho Mạc Tư Khoa, đề ngày 4-2-1950, cho biết ông HCM có nói với các nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng tờ tạp chí có ảnh của Stalin và các lãnh đạo cao cấp khác của ĐCSLX cần phải được trả lại cho mình.

 

Ông ta đã nhiều lần hỏi đi hỏi lại là “Làm sao chuyện đó lại có thể xảy ra giữa những đồng chí Cọng sản tốt” (Hồ sơ lưu trữ CCCPSU, tài liệu số 36671, thư mục số 425).  Nếu không có tiết lộ của Krushcheve để so lại thì các nhà nghiên cứu sử sau này sẽ tưởng rằng ông HCM đã bị đánh mất tờ báo ở đâu đó tại Trung Quốc chứ không ai ngờ là Stalin đã cho mật vụ lấy lại..

 

Chuyến đi gặp Stalin, công hay tội ?

 

Người đời sau đọc hồi ký của Hoàng Tùng thấy câu “gọi Bác sang” thì cũng hình dung được nỗi khó khăn của Nguyễn Tất Thành, và rồi cũng khâm phục cho tài đóng kịch khéo léo của ông đã đem lại kết quả là Stalin và Mao Trạch Đông chịu cung cấp vũ khí  cho CSVN.

 

Tuy nhiên đứng trên phương diện phán xét của lịch sử thì tình hình đất nước thời đó không cần phải cầu lụy Stalin và Mao Trạch Đông đến độ “đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau”. Thay vì chấp nhận sát nhập tổ chức Việt Minh vào dưới tay Mao Trạch Đông, ông Nguyễn Tất Thành có thể quyết định sát nhập Việt Minh vào dưới tay Bảo Đại để rồi cùng với Bảo Đại tranh đấu giành độc lập toàn diện theo phương cách mà các dân tộc khác như  Ấn Độ, Miến Diện, Nam Dương, Mã Lai đã làm.

 

Riêng Bảo Đại thì đã làm được hơn nửa đường.  Nghĩa là chính phủ Pháp đã ký Hiệp ước Elysée thừa nhận nước Việt Nam “độc lập” , trả lại đất Nam Kỳ mà chính phủ Pháp đã mua của Tự Đức năm 1874. Và hủy bỏ các Hiệp ước lệ thuộc nước Pháp mà triều đình Huế phải ký sau khi bị thua trận năm 1884, 1885.  Việc còn lại của Bảo Đại là đòi tiếp quyền tự chủ về ngoại giao, quân sự và tài chính.

 

Với phương cách đó, rõ ràng là hay hơn phương cách nhận vũ khí của Mao Trạch Đông rồi lấy xương máu của dân tộc Việt Nam mà phục vụ cho mưu đồ của Mao Trạch Đông.  Các chứng liệu lịch sử cho thấy các ông trong ĐCSVN không bao giờ nghĩ tới chuyện điều đình với Bảo Đại, trong khi Bảo Đại đã mở ngõ cho các ông bằng hành động đặt vòng hoa tưởng niệm trên mộ các chiến sĩ Việt Minh khi ông ta trở lại Hà Nội lần đầu tiên sau 3 năm bị HCM bắt ép lưu vong.

 

Trong trường hợp của ông HCM tại Mạc Tư Khoa vào năm 1950 thì ông chỉ biết một việc là xin vũ khí để lấy lại quyền lực cho ông và phe cánh của ông.  Ông và ĐCSVN muốn trở lại ngôi vị làm chủ đất nước mà trong đó Bảo Đại phải dưới quyền của các ông chứ các ông không thể nào trở lại là người dưới quyền của Bảo Đại.

 

Đặt một giả thuyết là năm 1950 ông Hồ Chí Minh hợp tác với Bảo Đại trước khi ông đi Mạc Tư Khoa thì chắc chắn Hoa Kỳ sẽ làm áp lực buộc Pháp phải nhả Đông Dương để nhân dân Việt Nam có thể mạnh lên mà trấn giữ phòng tuyến phía Bắc để chống lại phong trào Cọng sản của Stalin và Mao Trạch Đông.  Bằng chứng là cũng trong năm này Hoa Kỳ đã đổ tiền của cho hai kẻ cựu thù là Đức và Nhật, cũng như Đài Loan và Nam Hàn để các nước này đủ mạnh mà chống lại Nga và Trung Cọng.

 

Do đó nếu Việt Nam được Hoa Kỳ hỗ trợ như Đài Loan thì chắc chắn nước Việt Nam sẽ lấy lại độc lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một cường quốc mạnh nhất trong khu vực Đông Nam Á.  Nhưng đau lòng là thực tế đã đi ngược lại, ông Hồ Chí Minh đã quyết định theo Mao Trạch Đông cho nên Hoa Kỳ buộc phải đổ của cho Pháp để Pháp có thể chận ông Hồ Chí Minh.  Và thế là Việt Nam mất đi cơ hội phục hồi xứ sở, mà rồi lại rơi vào 2 cuộc chiến tranh với quá nhiều tàn phá và chết chóc.

 

BÙI ANH TRINH

 

*Chú thích của người viết :

 

Tháng 11 năm 2015 Chủ tịch TC Tập Cận Bình nói trước quốc hội CSVN :

 

“Trung Quốc Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao được hơn 65 năm. …mối quan hệ gắn bó Trung Việt đã được chủ tịch Mao Trạch Đông, thủ tướng Chu Ân Lai cùng với chủ tịch Hồ Chí Minh thế hệ lão thành tiền bối hai bên xây dựng nên, là tài sản quý báu của hai đảng, nhân dân hai nước, cần được quan tâm chăm sóc, bồi dưỡng”.

 

Trong bài viết trên đây có 4 tấm gương quan hệ ngoại giao của ông HCM mà người Việt không nên chăm sóc, bồi dưỡng :

 

(1) Cách đây 65 năm Stalin và Mao “gọi bác sang”, thế là “bác ngoan ngoãn sang”.  Khởi đầu quan hệ giữa HCM và Mao Trạch Đông là quan hệ giữa chủ và đầy tớ, không thể nào gọi là “hữu hảo”. ( Đê hèn ).

 

(2) Nhận lệnh của Stalin và Mao Trạch Đông, nhận súng đạn của Mao Trạch Đông để lấy lại quyền cai  trị nhân dân Việt Nam trong tay Bảo Đại.  Đây là quan hệ hại dân chứ không phải thương dân ( Tham tàn ).

 

(3) Dùng thủ đoạn vặt để xây dựng quan hệ ngoại giao :  Xin chữ ký của Stalin để lòe bịp đàn em của mình.  Rồi lại xin chủ tịch nước Liên Xô cho mình leo lên máy bay,  bay một vòng rồi đáp xuống như là một lãnh tụ ngang hàng với Mao Trạch Đông.  HCM đánh giá Stalin cũng là tay lừa đảo như mình mà không hề nghĩ rằng Stalin là một chính trị gia lõi đời, ông ta phỉ nhổ vào cái trò lưu manh đó. ( Vô liêm sỉ ).

 

(4) Là một tay thủ đoạn vặt lại đi trách người ta là ““Làm sao chuyện đó lại có thể xảy ra giữa những đồng chí Cọng sản tốt”. Chính mình đi bịp người ta, lại còn mở miệng lu loa người ta bịp mình ( Lưu manh mạt hạng ).

 

(49) VIỆT MINH ĐỔI CHỦ

 

 

Chuyến đi bí mật của Hồ Chí Minh

 

Chuyến đi vào năm 1950 mãi đến 40 năm sau mới được tiết lộ và 50 năm sau mới được một tài liệu bán chính thức của CSVN công bố.  Tuy nhiên nếu có một tí tò mò thì người ta đặt ra câu hỏi là HCM sang Trung Quốc làm gì vào lúc đó?

 

Hoàng Tùng là một người trước sau luôn luôn ủng hộ và bênh vực Hồ Chí Minh nhưng lại dùng câu “Stalin và Mao Trạch Đông gọi Bác sang” đã vô tình để cho hậu thế một bằng chứng đánh giá được mức độ lệ thuộc đến độ nhục nhã của HCM lúc bấy giờ.

 

Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh mà không gặp Mao Trạch Đông hay Chu Ân Lai vì lúc đó hai ông này đang ở Mạc Tư Khoa;  đang họp bàn để ký kết văn bản hợp tác kinh tế và liên minh quân sự giữa hai nước đồng thời bàn thảo về kế hoạch phát triển phong trào cách mạng Cọng sản trên thế giới.  Khi bàn tới Việt Nam các ông quyết định gọi Hồ Chí Minh sang để hỏi thăm tình hình và giao việc.

 

Như vậy việc Nga và Trung Quốc quyết định viện trợ quân sự cho CSVN bắt đầu từ năm 1950 không phải là do Hồ Chí Minh hay ĐCSVN tự đi cầu viện mà là do sắp xếp của Staline và Mao Trạch Đông trong kế hoạch Cọng sản hóa toàn thế giới.

 

Chứng cớ “Hồ Chí Minh được gọi sang” tuy nói lên một sự thực đau xót của các nhà lãnh đạo Cọng sản Việt Nam nhưng cũng vô tình giải thích cho hậu thế rõ là các ông không chủ động cầu viện Staline hay Mao Trạch Đông.  Mọi người đều rõ cái hại “Đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau” cho nên chuyện nhận viện trợ là một điều bất đắc dĩ.

 

So lại với tình cảnh của HCM vào lúc đó thì cũng có chỗ hiểu được:  Thời đó thì mọi người nức lòng với hình ảnh Staline giúp đỡ vô vị lợi cho Cọng sản Trung Quốc, không ai biết cái giấy nợ mà Staline viết cho Mao Trạch Đông, và cũng không ai biết Staline cần bán vũ khí để tiếp tục duy trì sản xuất và phát triễn kinh tế của nước Nga như thế nào, cả hai ông trùm Cọng sản không dại gì công bố việc này.

 

Riêng về phía các lãnh tụ CSVN thì do vì Nguyễn Tất Thành đã tự quyền quyết định tại Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh rồi cho nên các ông đâu còn có gì mà suy nghĩ nữa.  Dĩ nhiên là HCM trở về vui vẻ loan báo chuyện nhận được viện trợ như là một điều vô cùng may mắn cho các ông.

 

Lời kể của Nikita Krushchev

 

Hồi ức của Nikita Krushchev được ghi chép trong bộ sách “Krushchev Remembers” kể lại lần đó Hồ Chí Minh có đưa ra một tờ tạp chí “USSR under Contruction” và xin Stalin ký vào đó để làm kỷ niệm.

 

Krushchev kể lại chuyện này như một chuyện vui để nói về con người của Staline, ông cho rằng Stalin đã đa nghi quá đáng vì sau khi buộc phải ký tặng cho Hồ Chí Minh thì Stalin đã cho mật vụ lẻn vào phòng Hồ Chí Minh tại khách sạn để đánh cắp lại tờ báo có chữ ký tặng này.

 

Có như vậy mới thấy rằng Stalin là người thâm trầm.  Thực vậy, không phải vì quá hâm mộ Stalin mà Hồ Chí Minh đã xin chữ ký của Stalin cũng như ông đã từng xin hình và chữ ký tặng của tướng Chenault, Tư lệnh Không quân Hoa Kỳ tại Trung Hoa vào năm 1945.  Vì sau đó Hồ Chí Minh đã mang tấm hình Tướng Chenault về hang Pác Bó để lòe Trường Chinh và Thường vụ Ban chấp hành Trung ương ĐCSĐD, tấm hình và chữ ký tặng này đã khiến cho mọi người tin tưởng rằng Hồ Chí Minh được sự tín nhiệm và ủy quyền của Đồng Minh, cụ thể là Hoa Kỳ.

 

Sau đó Stalin đã kể chuyện này cho Krushchev như là một bằng chứng cho thấy Hồ Chí Minh chỉ là một tay thủ đoạn vặt mà không qua mắt nổi ông ta.  Lời kể chuyện của Krushchev vô tình để hé cho những nhà nghiên cứu lịch sử thấy rằng Hồ Chí Minh được đánh giá ra sao dưới con mắt của Staline và Mao Trạch Đông mặc dầu trên danh nghĩa Hồ Chí Minh là Chủ tịch nước Việt Nam.

 

Cũng trong đoạn hồi ức này, Krushchev cũng đã vô tình đề cập tới một chi tiết khác, ông nói: “Việc Liên Xô công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cọng hòa đã được quyết định trong cuộc gặp ông Hồ Chí Minh.  Thế nhưng sau đó Stalin cứ tiếc mãi: “Chúng ta quá vội vàng trong việc ấy”.

 

Lúc Stalin gặp và quyết định công nhận chính phủ của Hồ Chí Minh là giữa tháng 2 năm 1950.  So lại với biến cố xảy ra cho Trần Ngọc Danh tại Tiệp Khắc thì thấy rằng Stalin đã công nhận Hồ Chí Minh trước khi đọc được tố cáo của Trần Ngọc Danh về Nguyễn Tất Thành và phe đảng của ông ta.

 

Trước đó Stalin và Mao Trạch Đông không hề hay biết chuyện Hồ Chí Minh làm tình báo cho OSS của Hoa Kỳ, hai ông cũng không được biết những toan tính của Hồ Chí Minh khi ông ta cho giải tán Đảng rồi sau lại bắt tay với Pháp.  Vì vậy Stalin đã bật ngửa ra khi nhận được những tố cáo của Trần Ngọc Danh, ông ta luôn miệng hối tiếc vì đã lỡ cùng với Mao Trạch Đông quyết định chọn Hồ Chí Minh làm người hợp tác.

 

Ngoài sự vô tình tiết lộ của Krushcheve, sau khi tài liệu mật của văn khố Quốc gia Liên Xô được giải mật, giáo sư sư sử học Christopher Goscha của đại học Québec tại Montréal đã tìm thấy một văn thư của đại sứ Liên Xô tại Bắc Kinh gửi cho Mạc Tư Khoa, đề ngày 2-4-1950, cho biết ông Hồ Chí Minh có nói với các nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng tờ tạp chí có ảnh của Stalin và các lãnh đạo cao cấp khác của ĐCSLX cần phải được trả lại cho mình.

 

Ông ta đã nhiều lần hỏi đi hỏi lại là “Làm sao chuyện đó lại có thể xảy ra giữa những đồng chí Cọng sản tốt” (Hồ sơ lưu trữ CCCPSU, tài liệu số 36671, thư mục số 425).  Nếu không có tiết lộ của Krushcheve để so lại thì các nhà nghiên cứu sử sau này sẽ tưởng rằng ông HCM đã bị đánh mất tờ báo ở đâu đó tại Trung Quốc.

 

 Chuyến đi cầu viện, công hay tội ?

 

Người đời sau đọc hồi ký của Hoàng Tùng thấy câu “gọi Bác sang” thì cũng hình dung được nỗi khó khăn của Nguyễn Tất Thành, và rồi cũng khâm phục cho tài đóng kịch khéo léo của ông đã đem lại kết quả là Stalin và Mao Trạch Đông chịu hỗ trợ cho CSVN.

 

Tuy nhiên đứng trên phương diện phán xét của lịch sử thì tình hình đất nước thời đó không cần phải cầu lụy Stalin và Mao Trạch Đông đến độ nhục nhã đến như vậy.  Thay vì chấp nhận sát nhập tổ chức Việt Minh vào dưới tay Mao Trạch Đông, ông Nguyễn Tất Thành có thể quyết định sát nhập Việt Minh vào dưới tay Bảo Đại để rồi cùng với Bảo Đại tranh đấu giành độc lập toàn diện theo phương cách mà các dân tộc khác như  Ấn Độ, Miến Diện, Nam Dương, Mã Lai đã làm, riêng Bảo Đại thì đã làm được hơn nửa đường.  Nghĩa là chính phủ Pháp đã ký văn bản thừa nhận nước Việt Nam “độc lập” và trả lại đất Nam Kỳ mà họ đã mua của Tự Đức.

 

Với phương cách đó, rõ ràng là hay hơn phương cách nhận vũ khí của Mao Trạch Đông rồi lấy xương máu của dân tộc Việt Nam mà phục vụ cho mưu đồ của Mao Trạch Đông, quyền tự chủ của dân tộc trở thành “đuổi hổ ra của trước rồi rước beo vào cửa sau”.

 

Giờ đây ông Nguyễn Tất Thành đã trở nên người thiên cổ, nếu đem tâm lý của người bàng quan mà phỏng đoán tâm lý của ông thời đó thì e rằng không được chính xác, thậm chí có thể là nghĩ oan cho ông.  Tuy nhiên lịch sử không thể phán xét trên tâm lý mà chỉ phán xét trên hành động và kết quả của hành động, cho dù hoàn cảnh có đưa đẩy biến chuyển tâm lý đến mức tàn tệ như thế nào đi chăng nữa.

 

Đặt một giả thuyết là năm 1950 ông Hồ Chí Minh hợp tác với Bảo Đại trước khi ông đi Mạc Tư Khoa thì chắc chắn Hoa Kỳ sẽ làm áp lực buộc Pháp phải nhả Đông Dương để nhân dân Việt Nam có thể mạnh lên mà trấn giữ phòng tuyến phía Bắc để chống lại phong trào Cọng sản của Stalin và Mao Trạch Đông.

 

Bằng chứng là cũng trong năm này Hoa Kỳ đã đổ tiền của cho hai kẻ cựu thù là Đức và Nhật, cũng như Đài Loan và Nam Hàn để các nước này đủ mạnh mà chống lại Nga và Trung Quốc.

 

Do đó nếu Việt Nam được Hoa Kỳ hỗ trợ như Đài Loan thì chắc chắn nước Việt Nam sẽ lấy lại độc lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một cường quốc mạnh nhất trong khu vực Đông Nam Á.

 

Nhưng đau lòng là thực tế đã đi ngược lại, ông Hồ Chí Minh đã quyết định theo Mao Trạch Đông cho nên Hoa Kỳ buộc phải đổ của cho Pháp để Pháp có thể chận ông Hồ Chí Minh.  Và thế là Việt Nam mất đi cơ hội phục hồi xứ sở, mà rồi lại rơi vào 2 cuộc chiến tranh với quá nhiều tàn phá và chết chóc.

 

Riêng cuộc chiến đánh vào Miền Nam cũng là một sai lầm lớn của CSVN, ngày đó không cần thiết phải đánh vào Miền Nam với cái giá máu xương như vậy.  Ngay cả ông Mao Trạch Đông có tiếng là dã man cũng không dám thống nhất Đài Loan, Hồng Kông hay Ma Cao bằng máu của nhân dân Trung Hoa;  mặc dầu Hồng Kông đang ở dưới sự cai trị của Đế quốc Anh;  Ma Cao đang dưới sự cai trị của Đế quốc Bồ Đào Nha;  và quân đội Mỹ đang đóng quân trên đảo Đài Loan.

 

Trong khi đó ông Kim Nhật Thành cũng vì nghe lời xúi dại của Mao Trạch Đông mà đánh xuống Nam Hàn để rồi ngày nay nhân dân Bắc Hàn không cách chi ngóc đầu lên nổi.  Và ông Pol Pot cũng nghe lời xúi dại của ông Mao Trạch Đông mà quậy phá trong vùng đất biên giới của Việt Nam khiến cho nước Căm Pu Chia trở thành điêu tàn cho tới ngày nay.

 

(50) LẬP LẠI ĐẢNG CỌNG SẢN VIỆT NAM

 

 

Năm 1945, ngày 11-11-1945, tại Hà Nội.  Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán ĐCSVN.  Hồi ký của Bí thư Hoàng Tùng ghi lại : “Hôm tuyên bố giải tán Đảng tôi không có tham dự, nhưng nghe nói lại rằng, quyết định của Bác thật là táo bạo.    Khi đưa ra bản tuyên bố giải tán đảng ở Thường vụ, người không tán thành nhất là đồng chí Trường Chinh…

 

Năm 1950, ngày 6-1.  HCM đến Bắc Kinh,  cũng theo hồi ký Hoàng Tùng :  “Khi gặp Bác, Lưu Thiếu Kỳ nói ngay rằng:  Các đồng chí giải tán Đảng, các đồng chí tưởng đâu lừa được địch, nhưng địch không lừa được mà lại lừa chính chúng tôi vì chúng tôi tưởng rằng các đồng chí giải tán Đảng thật…”

 

Vì vậy việc trước tiên của Mao Trạch Đông khi ông ta bắt đầu mó tay vào Việt Nam là ra lệnh cho Hồ Chí Minh phải lập lại Đảng Cọng sản Việt Nam của Trường Chinh mà HCM đã giải tán từ năm 1945.

 

Đại hội thành lập Đảng Lao Động Việt Nam

 

Năm 1951, ngày 11-2, Đại hội thành lập Đảng Lao Động Việt Nam diễn ra tại xã Vĩnh Quang,  huyện Chiêm Hóa tỉnh Tuyên Quang.  Đây là kết quả của cuộc hội kiến giữa HCM với Stalin và Mao Trạch Đông vào tháng 1 năm 1950 tại Mạc Tư Khoa.  Lần đó Stalin buộc ông Hồ Chí Minh phải dựng lại Đảng Cọng sản của Trường Chinh trước khi nhận được sự yểm trợ quân sự của họ Mao.

 

Lúc đó Hoàng Tùng làm việc trong Ban Bí thư Trung ương đảng, ông kể lại:

 

“Chuyến đi Trung Quốc và Liên Xô của Bác năm 1950 là chuyến đi gian khổ.  Khi đó Staline nói:  Bây giờ cách mạng Trung Quốc thành công rồi, Trung Quốc có trách nhiệm giúp đỡ các nước Phương Đông… Bám vào ý kiến ấy, sau này Trung Quốc coi như là người đỡ đầu của ta.  Tôi cho rằng vì như thế mà Bác mấy lần từ chối làm Tổng bí thư… nếu Bác làm Tổng bí thư  thì Liên Xô sẽ gây chuyện…”

 

Mặc dầu Hoàng Tùng không nói rõ, nhưng cũng cho thấy là Staline và Mao Trạch Đông không đồng ý giao nhiệm vụ lãnh đạo ĐCSVN cho Hồ Chí Minh.  Người đời đọc đoạn này cảm thấy khó hiểu cho cách giải thích của Hoàng Tùng bởi vì ông không nói vì sao Staline sẽ gây chuyện nếu Hồ Chí Minh ứng cử chức Tổng bí thư ?

 

Thực ra hồ sơ lưu của ông Nguyễn Tất Thành tại trụ sở CSQT.3 cho thấy ông ta không có năng lực và không có đạo đức.  ( Thư tố cáo của Tổng bí thư Trần Phú ngày 9-12-1930 và thư tố cáo cũng của TP ngày 17-4-1931. Ngoài ra còn có thư tố cáo của Hà Huy Tập ngày 20-4-1935; chính vì tố cáo này mà Khang Sinh đòi tử hình Nguyễn Tất Thành ).

 

Năm 1951, ngày 16-3, Đài phát thanh Việt Minh loan tin thành lập Đảng Lao Động Việt Nam.  Đảng hợp tác chặt chẻ với Mao Trạch Đông, và theo sát đường lối của Mao Trạch Đông. ( Tin báo chí, Đoàn Thêm, Hai Mươi  Năm Qua, trang 89 ).  Lúc này người dân Việt Nam mới chính thức được biết Việt Minh sẽ biến thành ĐLĐVN, và ĐLĐVN là tay sai của Mao Trạch Đông.

 

Đại hội thành lập Đảng Lao Động Việt Nam được diễn ra trong một vùng thuộc mật khu Việt Bắc.  Người đại diện cho Cọng sản cấp quốc tế chính là La Quý Ba.  Hồi ký của Hoàng Tùng cho thấy La Quý Ba mới là người điều khiển đại hội này:

 

“Đại hội đảng ta năm 1951, đại biểu nước ngoài chỉ có La Quý Ba, bên Căm Pu Chia có Xieng Hiêng (sau phản bội), phía Lào có một đại biểu.  Tại đại hội La Quý Ba phát biểu chủ yếu về thuế nông nghiệp.  Sau đó bắt đầu đánh thuế.  Họ đem các nề nếp từ Trung Quốc sang, đem kinh nghiệm chỉnh Đảng, chỉnh phong từ Diên An sang…”.

 

Mục đích chính của đại hội toàn quốc lần 2 là để xác nhận lại vai trò giữa Đảng Cọng sản và Chính phủ Việt Minh.  Trước tháng 8 năm 1945 thì Đảng CS do Trường Chinh lãnh đạo và Độc lập Đồng minh Hội do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã liên minh liên kết thành Mặt trận Việt Minh.  Hai phe cùng hợp lực cướp được chính quyền tại Hà Nội vào tháng 8 năm 1945.

 

Nhưng 25 ngày sau thì 2 tướng của Tưởng Giới Thạch là Lư Hán và Tiêu Văn làm chủ tình hình tại Hà Nội.  Nhưng Tướng Tiêu Văn lại là người đỡ đầu cho Hồ Chí Minh thời ông ta còn ở bên Tàu.  Vì vậy Hồ Chí Minh giải tán đảng CS của Đăng Xuân Khu ( Trường Chinh ) để làm vừa lòng Tiêu Văn.

 

Sau khi đảng Cọng sản bị giải tán thì mọi chức vụ quan trọng trong chính phủ cũng như trong quân đội đều do những người trong “Độc lập Đồng minh Hội” của ông HCM phụ trách :  Phạm Văn Đồng chức Bộ trưởng bộ Tài chánh, Võ Nguyên Giáp Tổng tư lệnh quân đội, Bùi Đức Minh Giám Đốc ngành Công an, Trần Huy Liệu Bộ trưởng Bộ Thông tin, Trần Ngọc Tuân Tổng quản lý ngành Phát hành Văn hóa phẩm, v.v….

 

Còn đảng CS của Đặng Xuân Khu, Hạ Bá Cang… thì trở thành “Nhóm nghiên cứu học thuyết Mác-Lê”, chuyên phụ giúp chính phủ trong công tác tuyên truyền.  Đặng Xuân Khu lấy bút hiệu là Trường Chinh để vinh danh cuộc “Vạn lý trường chinh” rất nổi tiếng của MaoTrạch Đông.  Ngoài ra trong thời gian kháng chiến ở trên rừng Việt Bắc, Trường Chinh dịch hai quyển sách của Mao Trạch Đông là “Trì Cửu Chiến” và Tân Dân Chủ Luận”.

 

Sau đó ông gởi hai cuốn sách tặng Mao Trạch Đông.  Mao rất ưng ý, khen TC là thông suốt tư tưởng của cách mạng vô sản. Đến khi Mao Trạch Đông chiếm được nước Trung Hoa vào năm 1949;  Đặng Xuân Khu bèn bỏ hẵn tên cha mẹ đặt, lấy tên Trường Chinh làm tên thật trên giấy tờ.  Mao càng ưng ý.

 

Và khi Stalin và Mao Trạch Đông gặp Hồ Chí Minh vào tháng 1 năm 1950 thì hai nhà lãnh đạo Cọng sản thế giới thừa biết thực chất của cái gọi là Chính phủ kháng chiến Việt Minh ra sao và thế lực của Đảng Cọng sản của Trường Chinh trong chính phủ này như thế nào.  Cho nên Stalin và Mao ra lệnh cho dựng lại Đảng Cọng sản để những lãnh tụ CSVN có thể công khai nắm tất cả mọi quyền lực trong Chính phủ kháng chiến Việt Minh.

 

Việc trước tiên sau khi dựng lại Đảng Cọng sản là xác định lại vị trí giữa Trường Chinh và Hồ Chí Minh.  Đảng phải lãnh đạo chính phủ, có nghĩa là ông Trường Chinh lãnh đạo ông Hồ Chí Minh chứ không phải là ông Hồ Chí Minh lãnh đạo Trường Chinh.

 

Việc kế tiếp là Đảng Cọng sản phải nắm lấy quân đội, có nghĩa là phải thay tất cả các vị chỉ huy trong quân đội từ ông Võ Nguyên Giáp trở xuống.  Ngoại trừ vị trí Tổng tư lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp không có ai có thể thay thế cho nên Đảng sẽ chỉ huy và giám sát ông Võ Nguyên Giáp bằng những cán bộ chính trị Cọng sản.

 

Đó là các ông Nguyễn Chí Thanh, Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị, Song Hào, Lê Quang Đạo, Đỗ Mười, và Vũ Anh.  Bảy ông này được phong hàm Thiếu Tướng.  Tướng Thanh giữ chức Tổng Quân ủy, 6 ông kia giữ chức Bí thư Quân ủy.  Hồi ký của Hoàng Tùng nói rõ:  “Chính ủy là người bao trùm lên Tư Lệnh, chứ không phải tư lệnh là người quyết định.  Lập ra chính ủy là để xác định vị trí của Đảng, mà việc đầu tiên là nhắm vào ông Giáp”.

 

Trong đại hội Thiếu tướng Nguyễn Chí Thanh được bầu vào Ủy viên Bộ Chính Trị cho nên giữ chức Tổng bí thư Quân ủy, kiêm luôn Chủ nhiệm Tổng Cục chính trị. Thiếu tướng Văn Tiến Dũng là một trong các Bí thư Quân ủy, kiêm luôn chức Tư lệnh Đại đoàn 320.

 

Hồi ký của Võ Nguyên Giáp cho thấy trong đại hội này ông ta chỉ được quân đội đề cử làm đại biểu tham dự đại hội nhưng không được quyền bầu cử trong những ngày cuối của đại hội:  “Tôi không ở lại Đại hội tới ngày bế mạc, vì phải về cơ quan để kịp dự cuộc họp Đảng ủy mặt trận lần thứ Hai được triệu tập vào ngày 19 tháng 2 năm 1951, quyết định lựa chọn phương án đánh địch trong năm 1951” ( Võ Nguyên Giáp, Đường Tới Điện Biên Phủ, bản in lần 2, trang 121 ).

 

Những ai được vào Trung ương Đảng bắt buộc phải tham dự cuộc bầu cử vào 2 ngày cuối của đại hội để xác nhận mình thuận hay từ chối sự đề cử của Đại hội.  Do đó việc Tướng Giáp sớm rời Đại hội chứng tỏ là khi thành lập lại ĐCSVN vào năm 1951 thì ông vẫn còn ở ngoài Trung ương Đảng.

 

BÙI ANH TRINH

 

*Chú thích của người viết :

 

Tháng 11 năm 2015 Chủ tịch TC Tập Cận Bình nói trước quốc hội CSVN :

 

“Trung Quốc Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao được hơn 65 năm. …mối quan hệ gắn bó Trung Việt đã được chủ tịch Mao Trạch Đông, thủ tướng Chu Ân Lai cùng với chủ tịch Hồ Chí Minh thế hệ lão thành tiền bối hai bên xây dựng nên, là tài sản quý báu của hai đảng, nhân dân hai nước, cần được quan tâm chăm sóc, bồi dưỡng”.

 

Trong bài viết trên đây có 5 tấm gương quan hệ ngoại giao của ông HCM mà người Việt không nên chăm sóc, bồi dưỡng :

 

(1) HCM theo Mỹ, theo Tưởng Giới Thạch thì giải tán đảng Cọng sản.  Đến khi Stalin và Mao bắt lập lại ĐCS thì lập.  Không cho nắm quyền TBT cũng lập, lập để được hưởng cái ghế làm vua dân Việt Nam.  ( Tham quyền bán nước ).

 

(2) Lập lại đảng Cọng sản nhưng không dám lấy tên là đảng Cọng sản bởi vì lúc đó toàn dân Việt Nam không ưa Cọng sản.  Đành phải nấp dưới cái tên “Đảng Lao Động Việt Nam”. Nhưng sau lại loa lên rằng nhân dân VN yêu thích chế độ Cọng sản ( Bịp bợm ).

 

(3) Stalin và Mao không cho giữ chức Tổng bí thư chứng tỏ chẳng có chút quyền lực nào đối với ĐCSVN.  Thế nhưng sau này lại bịa ra cái chức “Chủ tịch Đảng”, làm ra vẻ như trên quyền cả TBT ( Bịp bợm ).

 

(4)  Rước cán bộ của Mao về thành lập lại ĐCS, chứng tỏ ĐCSVN ( Đảng Lao Động ) là của Mao.  Từ đó làm tay sai cho Mao chứ đâu phải là “quan hệ hữu hảo” ( Hèn hạ ).

 

(5)  Võ Nguyên Giáp không được vào Trung ương Đảng nhưng HCM vẫn trình diễn VNG như là Ủy viên của Bộ chính trị.  Thậm chí sau khi ép Trường Chinh từ chức TBT năm 1956 thì tính đưa VNG lên thay Trường Chinh ( Gian xảo ).

 

 

(51) TRẢ LẠI QUYỀN LỰC CHO ĐCSVN

 

 

Tổng tư lệnh dưới quyền các bí thư Quân ủy

 

Sau đại hội tái lập Đảng CSVN tháng 2 năm 1951, Võ Nguyên Giáp không được vào Trung ương Đảng nhưng Nguyễn Chí Thanh được vào là nhờ sự ủng hộ của Trường Chinh và Lý  Ban.  Lý Ban là người Việt Nam nhưng tham gia ĐCS Trung Quốc, được Mao Trạch Đông cho về nước năm 1945 để hỗ trợ cho ĐCSVN.

 

*Chú giải :  Lý Ban giữ chức vụ Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị do Văn Tiến Dũng làm Chủ Nhiệm.  Năm 1948 Nguyễn Chí Thanh từ Quảng Trị chạy ra Việt Bắc làm Phó chủ nhiệm thứ 2 của Văn Tiến Dũng, trong dịp này kết thân với Lý Ban.  Lý Ban thấy NCT xuất thân bần cố nông mà được cử vào Trung ương Đảng ( Tại Hội nghị Tân Trào 1945 ) nên đánh giá rất cao.  Do đó khi cố vấn Trung Cọng dựng lại ĐCSVN cần một người làm Tổng bí thư Quân ủy để giám sát Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp thì Lý Ban đề cử Nguyễn Chí Thanh ).

 

Tâm trạng của Võ Nguyên Giáp trong Đại hội thật là ê chề vì ông mới bị thua trận Vĩnh Yên cháy túi, tuy không bị mất địa vị nhưng bị tước mất quyền lực.  Lâu nay ông ta miệt mài gian khổ để tạo nên sự nghiệp chung cho toàn thể tổ chức Việt Minh, ông cứ nghĩ Việt Minh với  Đảng Cọng sản là một cho nên ông nắm quyền lực trong Việt Minh tức là ông nắm quyền lực trong Đảng Cọng sản.

 

Tuy nhiên cố vấn trưởng La Quý Ba đã phân tích rạch ròi vị trí của ông, từ nay Võ Nguyên Giáp chỉ có tiếng mà không có miếng, ông càng miệt mài gian khổ để đi đến thành công thì rốt cuộc cũng chỉ là dọn cỗ cho Trường Chinh và phe cánh của ông ta hưởng mà thôi.

 

Nhiều năm sau này nữa, tức là sau chiến thắng Điện Biên Phủ, cả thế giới ca tụng công lao của Võ Nguyên Giáp đối với thành công của Đảng Cọng sản Việt Nam nhưng người ta khá ngạc nhiên khi thấy uy thế của Võ Nguyên Giáp cứ sụt dần từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ và cuối cùng bị đưa ra khỏi Trung ương Đảng rồi giao cho một chức vụ có tính cách rất là mĩa mai.

 

Chủ tịch Đảng ?

 

Người chủ trì đại hội thành lập lại ĐCSVN là cố vấn La Quý Ba cũng biết rõ đầu dây mối nhợ của Liên minh Việt Minh , cho nên ông ta cũng như Mao Trạch Đông phải e dè những ông tướng xuất thân từ Quốc Dân Đảng Việt Nam cũng như e dè luôn Võ Nguyên Giáp và cả Hồ Chí Minh.  Không có gì chứng minh được là Hồ Chí Minh tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Cọng sản, ông ta chưa bao giờ chứng tỏ có quan điểm giác ngộ giai cấp;  trái lại, có nhiều dấu hiệu cho thấy Hồ Chí Minh có thể trở mặt bất cứ lúc nào.

 

Vì thế mà Mao Trạch Đông và những người cọng sự của ông như Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Bành Đức Hoài không dại gì mà dễ dàng giao vũ khí cho Hồ Chí Minh, họ phải nắm đằng cán. Trước tiên là họ chỉ viện trợ vũ khí cho Đảng Cọng sản Việt Nam chứ họ không viện trợ cho Việt Minh, bởi vì viện trợ vũ khí cho Đảng Cọng sản thì Đảng sẽ nắm tổ chức Việt Minh trong tay, ngược lại nếu viện trợ cho Việt Minh thì Việt Minh lại nắm ĐCSVN trong tay.

 

Vậy thì trước tiên phải có một đảng Cọng sản;  rồi đảng đó phải công khai nhận viện trợ của Trung Quốc, toàn dân Việt Nam phải biết tới nguồn viện trợ này.  Tổng Bí thư của đảng cũ tiếp tục giữ chức Tổng Bí thư trong đảng mới.  Mặc dầu đảng mới lấy tên là Đảng Lao Động nhưng nhìn vào danh sách Ban chấp hành thì người ta đủ biết rằng đảng Lao Động Việt Nam chính là đảng Cọng sản Việt Nam trước đây.

 

Ngoài ra, trong hệ thống CSQT 3 của Lenin thì không có chức Chủ tịch Đảng, nhưng vì là Đảng Lao Động cho nên La Quý Ba cho phép HCM được giữ chức Chủ tịch ĐLĐVN.

 

Sở dĩ lấy tên là Đảng Lao Động Việt Nam vì dân chúng Việt Nam rất sợ hai chữ Cọng sản, bởi vì những người Cọng sản chủ trương trên không có Trời Phật ( vô tôn giáo ), dưới không có quốc gia dân tộc ( vô tổ quốc ), trong nhà không có thứ tự cha con chồng vợ ( vô gia đình )

 

Những người Cọng sản chủ trương cai trị nhân dân bằng sắt và máu :

 

“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ.  Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong.  Cho Đảng bền lâu cùng rợp bước chung lòng.  Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Stalin bất diệt”.(sic)…  ( Thơ của Tố Hữu được CSVN chọn làm bài học thuộc lòng cho học sinh cấp 1 ).  Và :

 

“Anh em ơi, quyết chung lòng.  Đấu tranh tiêu diệt tàn hung kẻ thù.  Địa hào đối lập ra tro.  Lưng chừng, phản động tới giờ tan xương.  Thắp đuốc cho sáng khắp đường.  Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay.  Lôi cổ bọn nó ra đây.  Bắt quỳ gục xuống đọa đày chết thôi”  ( Thơ Xuân Diệu được dùng dạy văn cho học sinh cấp 2 ).

 

Bài thơ này cho thấy “lưng chừng”  ( Không chống mà cũng không theo ) thì cũng thuộc vào tội chết;  nhưng không chết ngay, mà bị đọa đày chết dần dần.  Bảo sao mà người ta không sợ Cọng sản ?!

 

Tâm trạng của Hồ Chí Minh trong đại hội thành lập “Đảng Lao Động VN”

 

Về phần Hồ Chí Minh, ông biết rõ Stalin và Mao Trạch Đông coi ông không ra gì bởi vì hồ sơ lưu của CSQT.3 tại Mạc Tư Khoa cho thấy ông là một tay phản CSQT, năm 1935 đã bị Khang Sinh ( CSTQ, Ủy viên thường trực trong Ban chấp hành Trung ương CSQT ) lên án tử hình vì tội bán các đồng chí của mình.

 

Hơn nữa, Stalin, Mao Trạch Đông thừa biết HCM chẳng có công lao gì đối với ĐCSĐD, vị trí cao nhất của ông trong ĐCSĐD là ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương tại đại hội toàn quốc lần 1 vào năm 1935. ( Vị trí thứ 13, lúc đó CSQT chưa phát hiện ông đã bán các đồng chí CS của mình ). Chưa kể ông đã từng là điệp viên OSS của Mỹ. Từng nhận tiền của Tưởng Giới Thạch về Việt Nam mộ quân tình báo.

 

Hồi ký Hoàng Tùng: “sau này Trung Quốc coi như là người đỡ đầu của ta.  Tôi cho rằng vì như thế mà Bác mấy lần từ chối làm Tổng bí thư… nếu Bác làm Tổng bí thư  thì Liên Xô sẽ gây chuyện…” .  Có vẻ như “bác” lẫy Liên Xô coi thường “bác” cho nên bác không thèm làm TBT, nhưng thực ra hồ sơ của “bác” tại Liên Xô cho thấy bác là người rất tệ.

 

*( Lời chứng của ông Hoàng Tùng bác bỏ nguồn tin cho rằng HCM là một nhân vật người Tàu tên Hồ Tập Chương do đặc tình Trung Cọng phái về lãnh đạo CSVN.  Nếu quả thực là điệp viên của TC thì Lưu Thiếu Kỳ chẳng trách Hồ Tập Chương tội giải tán ĐCSVN.  Và Mao hẳn đã đã giao cho Hồ Tập Chương làm TBT đảng CSVN ).

 

BÙI ANH TRINH

 

*Chú thích của người viết :

 

Đầu năm 2015 ông Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng hô hào “Học tập theo gương đạo đức Hồ Chí Minh”.  Nghĩa là ông HCM đã chết nhưng tư tưởng của ông ta còn sống.  Hoặc nói một cách văn hoa là ông ta chết nhưng mà chưa chôn.  Vậy nên người đào bới lịch sử có nhiệm vụ phải mai táng ông HCM cho kỹ càng để môi trường lịch sử Việt Nam được trong sạch.

 

Trong bài viết trên đây có 5 tấm gương đạo đức của ông HCM mà người Việt không nên học tập :

 

(1) Tháng 8 năm 1945 nhân danh cọng tác viên của Mỹ để tự xưng làm Chủ tịch chính phủ lâm thời, rồi đi tìm giết những ai đã từng theo Nhật xây dựng nền độc lập cho VN.  Đến tháng 11 lại nhân danh người của Tưởng Giới Thạch ( Tướng Tiêu Văn ) tuyên bố giải tán ĐCSVN của Trường Chinh.  Đến tháng 2 năm 1946 lại bắt tay với Pháp để rước quân Pháp trở lại VN.  Và rồi năm 1951 lại rước cố vấn của Mao về dựng lại ĐCSVN ( Tráo trở ).

 

(2) Bị Stalin và Mao cấm không cho làm tổng bí thư nhưng lại làm ra vẻ như không màng cái chức TBT, làm ra vẻ như chức “Chủ tịch đảng” to hơn.  Nhưng thực ra cái chức chủ tịch đảng chỉ là sau này cho đàn em tuyên truyền lén lút chứ trong tổ chức ĐCS làm gì có chức Chủ tịch đảng. ( Bịp bợm )

 

(3)  Có tài năng làm tay sai cho bất cứ bên nào, cho dù là hai bên đang choảng nhau.  Nhưng lại trình diễn như một người khôn ngoan đi giữa 2 làn đạn ( Bịp bợm )

 

(4)  Biết dân Việt Nam không ưa Cọng sản cho nên mới  ngụy trang thành đảng Lao Động, thế nhưng tuyên truyền giống như “nhân dân ta” rất yêu thích “đảng ta” ( Gian trá ).

 

(5) Đã từng bị CSQT lên án tử hình vì tội bán các đồng chí Cọng sản nhưng vẫn trình diễn như một người Cọng sản chân chính ( Xảo quyệt ).

 

 (52) NHÂN VẬT NGUYỄN CHÍ THANH

 

 

Hồ Chí Minh trả lại quyền lực cho ĐCSVN

 

 “Mùa thu năm 1950, Trung Quốc phái hai phái đoàn cố vấn sang Việt Nam.  Một đoàn do La Quý Ba làm cố vấn.  La Quý Ba trước là bí thư của Mao, Bí thư Sơn Tây.  Ông này  là người nghiêm chỉnh, phục Mao như ông thánh.  Ông là người tin cẩn của Mao.  Còn tổng cố vấn quân sự là Vi Quốc Thanh.  Đoàn cố vấn quân sự đông hơn vì có đủ bộ máy của quân sự”. ( Hồi ký của Hoàng Tùng, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, phó trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng, Tổng biên tập báo Nhân Dân ).

 

Năm 1950, mùa thu, các cố vấn Trung Quốc sắp xếp lại nhân sự trong đảng CSVN và trong quân đội CSVN.  Điều chính yếu là loại bỏ các nhân vật thuộc nhóm Độc Lập Đồng Minh Hội do Hồ Chí Minh đưa từ Trung Hoa về và thay thế bằng những đảng viên Cọng sản lâu năm.

 

Ngay cả Võ Nguyên Giáp cũng được đặt vào vị trí dưới quyền của một vị lãnh đạo chính trị của Đảng trong quân đội, gọi là Tổng Bí thư Quân ủy Trung ương người đó là Tướng Nguyễn Chí Thanh, mới được Cố vấn Trung Quốc phong lên cấp Thiếu tướng để kèm Võ Nguyên Giáp. Hồi ký Hoàng Tùng :

 

“Ta không hiểu thâm ý của Trung Quốc là họ muốn sửa ta.  Họ sang để giới thiệu kinh nghiệm Trung Quốc, lí luận Mao Trạch Đông… Việc đầu tiên của họ là sửa quân đội đã.  Họ sửa cả Đảng trong quân đội cho nên mới lập ra chức chính ủy.

 

“Chính ủy là người bao trùm lên cả tư lệnh, chứ tư lệnh không phải là người quyết định.  Lập ra chính ủy là để xác định vị trí của Đảng, mà việc đầu tiên là nhắm vào ông Giáp”…  … “Theo Trung Quốc, ông là một trí thức, xuất thân không phải là công nông, để ông nắm quân sự là không ổn”.

 

Mao Trạch Đông muốn nắm chắc trong tay một tổ chức mà ông ta sắp sửa trao vũ khí và lương thực.  Ông ta không sợ Hồ Chí Minh hay Phạm Văn Đồng ngã theo ai, ông ta chỉ sợ quân đội ngã theo ai.

 

Nhân vật lịch sử Nguyễn Chí Thanh

 

Căn cứ vào bản tự khai lý lịch của NCT trong các đợt chỉnh huấn thì ông sinh năm 1914, xuất thân là cố nông, thuở thiếu thời đi cày thuê kiếm sống.  Năm 1934 bị bắt vào nhà tù Ban Mê Thuột.  Trong tù ông được Phan Đăng Lưu ( “Tân Việt cách mạng đảng” ) dạy văn hóa.  Đến năm 1937 ông về Huế gặp lại Phan Đăng Lưu.  Lúc này Lưu mới vừa gia nhập ĐCSĐD và đang đi tìm người để tuyên truyền gầy dựng cơ sở.  Do đó Lưu kết nạp Thanh vào ĐCSĐD.

 

Tháng 8 năm 1945, Đặng Xuân Khu ( Trường Chinh ) cho người vào Huế đưa thư mời Ủy viên xứ ủy Trung Kỳ là Tôn Quang Phiệt đến Tân Trào, Tuyên Quang để dự đại hội Đảng toàn quốc sau khi Nhật thua trận.  Tuy nhiên Phiệt không muốn đi vì có xích mích với Đặng Xuân Khu từ thời 1929 nên Phiệt phong cho Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư Thừa Thiên rồi bảo theo người đưa thư mà đến Tân Trào.  Lúc đó tại Huế còn một cán bộ Cọng sản khác là Tố Hữu nhưng không hiểu vì sao Phiệt không cử Tố Hữu.

 

Do vì Nguyễn Chí Thanh là đại diện duy nhất của Trung Kỳ tham dự Hội nghị Tân Trào cho nên Đặng Xuân Khu bèn phong cho Thanh làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ để thành lập Ban Chấp hành Trung ương ĐCSĐD.  Ngoài ra Đặng Xuân Khu cũng khong cho Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Hoan vào Ban chấp hành trung ương.  Nói dối rằng hai người là đảng viên được HCM kết nạp vào năm 1940 tại Trung Hoa.

 

Sau đó, khi Võ Nguyên Giáp về đến Hà Nội thì các ông Cọng sản gộc không công nhận Võ Nguyên Giáp là Ủy viên Trung ương vì họ biết cho tới 1944 Võ Nguyên Giáp xuất hiện tại Pác Bó với tư cách là đảng viên của Việt Minh Hội, làm thông dịch viên cho toán tình báo Mỹ.

 

Còn Nguyễn Chí Thanh về đến Huế thì các ông Tôn Quang Phiệt và Tố Hữu cũng không công nhận Thanh là Bí thư Trung Kỳ, lý do là tuổi Đảng còn quá non.  Rồi đến khi các ông trùm ở các trại tù Sơn La, Côn Đảo trở về thì lại bác bỏ luôn cả Đại hội Tân Trào, bởi vì thực sự đại hội đó không có nhóm họp.  Do đó cái chức Trung ương Đảng của Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Thanh không hợp lệ.  Bằng chứng là ngày nay trong danh sách liệt kê các Đại hội trung ương ĐCSVN thì hội nghị Tân Trào không được tính.

 

Tình trạng không hợp lệ của Nguyễn Chí Thanh và Võ Nguyên Giáp kéo dài được hơn 2 tháng thì Hồ Chí Minh giải tán ĐCSVN của Trường Chinh cho nên cái chức Bí thư Xứ ủy cũng như Trung ương Đảng của Nguyễn Chí Thanh coi như không có hiệu lực.

 

Rồi qua năm 1946 Pháp tái chiếm Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng Bình.  Nguyễn Chí Thanh được giao cho nhiệm vụ chỉ huy nhóm du kích hoạt động trong vùng Bình Trị Thiên.  Các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên do Tướng Nguyễn Quyết chỉ huy; và các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh do Tướng Nguyễn Sơn chỉ huy.

 

Tháng 5 năm 1948 Bảo Đại ủy quyền cho Tướng Nguyễn Văn Xuân thành lập Chính phủ Lâm thời để chuẩn bị tiếp nhận độc lập từ tay người Pháp.  Xuân giao cho Phan Văn Giáo làm Tổng trấn Trung Kỳ.  Phan Văn Giáo bèn thành lập quân đội, gọi là Việt Binh Đoàn, truy quét ráo riết Ủy ban Kháng chiến của Nguyễn Chí Thanh.

 

Cuối cùng Ủy ban Kháng chiến Bình Trị Thiên tan rã, Thanh chạy ra Việt Bắc báo cáo cho Trường Chinh.  Phó ban tổ chức Hoàng Tùng đưa Nguyễn Chí Thanh về làm Phó chủ nhiệm thứ hai của Tổng cục Chính trị, do Văn Tiến Dũng làm Chủ nhiệm. Còn Phó chủ nhiệm thứ nhất là Lý Ban, người của Mao Trạch Đông.

 

Lý Ban là người Việt Nam từ Trung Quốc trở về sau tháng 8 năm 1945 nên không rành xuất xứ của các cán bộ trong Đảng.  Do đó chỉ biết nhìn vào lý lịch mà đánh giá con người.  Thấy Nguyễn Chí Thanh là người có bản lĩnh so với các cán bộ khác trong Trung ương Đảng.  Nhìn lại xuất thân của Thanh là cố nông nên đặc biệt chiếu cố.

 

Vì thế khi La Quý Ba qua Việt Nam sắp xếp lại nhân sự của Quân đội thì Lý Ban đề nghị cho Nguyễn Chí Thanh được phong Tướng và giữ chức “Tổng bí thư Quân ủy”.   Sở dĩ Lý Ban tin vào bản khai lý lịch của Thanh vì thấy Thanh có tướng tá thô kệch mà da dẻ lại đen đủi cho nên yên trí rằng Thanh quả là dân cày thuê cuốc mướn.

 

Nhờ 2 lần gặp may mà anh bần cố nông Nguyễn Chí Thanh nhảy một bước trở thành Tổng bí thư Quân ủy mà chẳng có một thành tích chính trị hay quân sự nào.  Tuy nhiên theo nhận xét riêng của Vũ Thư Hiên thì Nguyễn Chí Thanh là người có trình độ học vấn đáng kể chứ không phải là cố nông như người ta tưởng.

 

Ngoài ra nhà nghiên cứu sử Cao Thế Dung cũng có ghi lại lời của ông Trần Trọng Sanh, lãnh tụ VNQDĐ bạn học của Thanh và Tố Hữu, xác nhận Nguyễn Chí Thanh từng theo học tại trường Tây Providence.  Chính điều này đã mang lại rắc rối cho Nguyễn Chí Thanh vào năm 1960, năm này NCT bị Lê Duẩn buộc ra khỏi quân đội.

 

Năm 1950, tháng 6, Tướng Trần Canh, Tư lệnh quân đội Trung Quốc tại tỉnh Quảng Tây được Mao Trạch Đông cử sang Việt Nam để nghiên cứu thiết lập các căn cứ huấn luyện cho bộ đội và cán bộ chính trị Việt Nam tại biên giới giữa Quảng Tây và Cao Bằng của Việt Nam cũng như nghiên cứu tổ chức hành lang tiếp vận giữa Trung Quốc và Việt Nam (Tài liệu Văn khố Trung Quốc).

 

(53) HỒ TÙNG MẬU BỊ GIẾT

 

 

Năm 1920 Hồ Tùng Mậu, 24 tuổi; cùng với Lê Tán Anh, 21 tuổi;  từ Nghệ An sang Trung Hoa sinh sống. Mới đầu hai người sống tại Hàng Châu với chú của Mậu là ông Hồ Học Lãm.  Ông Hồ Học Lãm ( Tên hiệu là Hồ Chí Minh ) là một sĩ quan cán bộ của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, cựu đảng viên Việt Nam Quang Phục Hội của Cường Để và Phan Bội Châu.

 

Năm 1923 Mậu và Anh tham gia tổ chức Tâm Tâm Xã của Phan Bội Châu do Nguyễn Hải Thần cầm đầu, là một tổ chức đấu tranh bạo động chống Pháp tại Hoa Nam.  Năm 1924 Tâm Tâm Xã bị chính quyền Trung Hoa giải tán sau vụ Lê Tán Anh và Phạm Hồng Thái ám sát toàn quyền Pháp Berlin tại thành phố Sa Điện,  tỉnh Quảng Đông.

 

Tới đầu năm 1925, được sự giúp đỡ của Quốc Dân đảng Trung Hoa, Phan Bội Châu giao cho Hồ Tùng Mậu vận động tổ chức thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Hoa Nam.

 

Ân oán giữa Hồ Tùng Mậu và Nguyễn Tất Thành:

 

Tháng 11 năm 1924 Nguyễn Tất Thành từ Nga tới Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy để làm việc cho phái bộ Nga tại Trường võ bị Hoàng Phố.  Trước tiên Thành tìm đến tiệm chụp hình của Lâm Đức Thụ ( Nguyễn Cống Viễn ) để xin việc làm thêm ( NTT có nghề rửa hình tại Paris ).  Thụ từ chối nhận NTT vào làm nhưng cũng được biết Thành là con của cụ Nguyễn Sinh Sắc, bạn đồng khóa Tiến sĩ với cha của Thụ là cụ Nguyễn Hữu Dân.

 

Sau đó Thụ biết Thành từng hoạt động cách mạng với Phan Chu Trinh tại Pháp nên giới thiệu Thành với Hồ Tùng Mậu là người cùng quê Nghệ An đang hoạt động cách mạng với Phan Bội Châu.  Sau khi đã rõ thân thế của NTT, Mậu rủ Thành và Thụ tham gia tổ chức VNQDĐ sắp sửa được thành lập.  Tuy nhiên trước ngày khai diễn đại hội thành lập đảng thì Phan Bội Châu bị bắt tại Thượng Hải.  Đại hội vẫn tiến hành, và lập ra “Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội”.  Mậu giữ chức Ủy viên Huấn luyện, NTT giữ chức Tổng thư ký.

 

Cũng trong năm 1925 NTT giới thiệu Mậu , Lâm Đức Thụ, Lê Tán Anh, Lê Hồng Phong và Lê Quang Đạt gia nhập ĐCS Trung Hoa.  Đến năm 1927 VNTNCMĐCH bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải tán vì Quốc Dân đảng Trung Hoa quay ra đối nghịch với Cọng sản.

 

Năm 1928 Hồ Tùng Mậu bí mật gom góp đảng viên dựng lại thành An Nam Cọng sản Đảng tại Hoa Nam.  Khoảng 100 hội viên là cựu đảng viên Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, trong số này có 20 cựu học viên sĩ quan của trường Hoàng Phố.  Nhưng chỉ 2 tháng sau thì tất cả bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt vì cảnh sát có hồ sơ, hình ảnh đảng viên đã nộp cho Tổng thư ký Nguyễn Tất Thành ( Lý Thụy ).

 

Vì vậy khi ra khỏi tù vào cuối năm 1929 Hồ Tùng Mậu cùng các đồng chí của mình đi tìm Lâm Đức Thụ và Nguyễn Tất Thành để thanh toán nhưng lúc đó Nguyễn Tất Thành trốn biệt ở Thái Lan còn Lâm Đức Thụ đã bán nhà dời đi xứ khác.

 

Tại khu phố Cửu Long thuộc thành phố Hồng Kông, Mậu gặp đại diện xứ Nam Kỳ của Việt nam TNCMĐCH là Châu Văn Liêm, Phan Trọng Quảng và một đại diện của Xứ ủy Bắc Kỳ là Dương Hạc Đính;  bèn xúi các ông này trở về Nam Kỳ thành lập An Nam Cọng sản Đảng tại Nam Kỳ. Trong khi đó HTM cũng tái lập lại ANCSĐ tại Hồng Kong ( Hồ sơ lưu trữ quốc gia Pháp; lời khai của Dương Hạc Đính khi ông này bị Pháp bắt ).

 

Tại Nam Kỳ ANCSĐ của Châu Văn Liêm lại hục hặc với Đông Dương CSĐ của Ngô Gia Tự. Do đó Lê Tán Anh, Lê Duy Điếm và Trương Văn Lệnh quyết định mời NTT từ Thái Lan về Hồng Kông để giải hòa hai đảng bởi vì các ông đinh ninh NTT là đại diện của CSQT.

 

Hồ Tùng Mậu cương quyết phản đối nhưng Lê Tán Anh và Trương Văn Lệnh vẫn còn tin tưởng NTT cho nên Mậu bất mãn;  cùng với Lê Quang Đạt, Lý Phương Đức trở lại hoạt động cho Văn phòng CSQT tại Thượng Hải.  Năm 1931 Mậu cùng với Nguyễn Huy Bồn bị cảnh sát Hồng Kông bắt vì tội cư trú bất hợp Pháp, sau 2 tháng thì thả và trục xuất khỏi Hồng Kông, ông trốn về Thượng Hải thì bị cảnh sát Pháp tại Thượng Hải đón bắt và giải về Việt Nam.

 

Tại nhà tù Sơn La, Mậu kết thân với Nguyễn Hữu Cần, nổi tiếng với biệt danh Phi Vân, là một người từng tốt nghiệp học viện Stalin nhưng bất hòa với Hà Huy Tập nên ly khai khỏi ĐCSĐD. Sau khi ly khai khỏi ĐCSĐD, Nguyễn Hữu Cần đã hội với Hồ Học Lãm, Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh lập ra Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội ( Việt Minh ) vào năm 1936.  Sau đó Cần về Việt Nam hoạt động và bị bắt.

 

Nguyễn Hữu Cần bị giam vào nhà tù Sơn La, tại đây ông gặp Hồ Tùng Mậu.  Tháng 5 năm 1945, sau khi quân Nhật đảo chánh Pháp thì chính quyền Trần Trọng Kim thả những tù chính trị không phải là Cọng sản ( Cọng sản Nga đang là kẻ thù của Nhật ). Mậu và Cần được thả vì hồ sơ thụ án ghi là hoạt động chống Pháp chứ không phải là đảng viên Cọng sản.

 

Hai ông được thả về Hà Nội, sống nhờ tại một trụ sở của Việt Nam Cách mạng Đồng chí Hội của ông Nguyễn Hải Thần tại ô Cầu Giấy ở Hà Nội.  Đến tháng 8 năm 1945 Trần Quốc Hoàn dẫn quân của HCM từ Tuyên Quang tràn về tấn công trụ sở Việt Cách và giết Nguyễn Hữu Cần, còn Hồ Tùng Mậu chạy thoát.

 

Sau khi chạy khỏi Hà Nội, Mậu trở về quê là làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.  Đến khi Tướng Lê Thiết Hùng, em rễ của Mậu, về làm Tư lệnh Khu 4 thì Hồ Tùng Mậu ra trình diện và gia nhập Việt Minh. ( Hùng là con rễ của Hồ Học Lãm ).  Năm 1946 Mậu gặp lại Tướng Nguyễn Sơn, hai ông quen biết nhau khi cùng hoạt động cho ĐCSTrQ năm 1927.  Qua năm 1947 Nguyễn Sơn thay thế Lê Thiết Hùng làm Tư lệnh kháng chiến Khu 4, Sơn giao cho Mậu giữ chức vụ Tổng thanh tra nhà nước tại Khu 4.

 

Năm 1951 Hồ Tùng Mậu tham dự đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2, tức là đại hội thành lập Đảng Lao Động Việt Nam.  Sự xuất hiện của ông tại đại hội Đảng Cọng sản đã bùng nổ lên nhiều kinh ngạc, nhất là các đại biểu Nam Kỳ, các cựu tù Côn Sơn và  Sơn La.

 

Thời 1945-1950 việc liên lạc giữa Khu 4 và Nam Kỳ hay Bắc Kỳ rất khó khăn cho nên ít người biết chuyện HTM còn sống và trở lại ĐCS.  Nay thì mọi người đều vui mừng được gặp lại ông và bầu ông vào Trung ương Đảng.  Sự hiện diện của Hồ Tùng Mậu trong ủy ban chấp hành Trung ương Đảng khiến cho có ít nhất là 3 người không được vui;  đó là Hồ Chí Minh, Trường Chinh và Trần Quốc Hoàn.

 

Đối với Hồ Chí Minh thì Hồ Tùng Mậu là một oan gia, Hồ Tùng Mậu giúp đỡ ông rất nhiều khi ông mới chân ướt chân ráo tới Trung Hoa vào năm 1924.  Sau đó Mậu được HCM giới thiệu vào làm đảng viên Đảng Cọng sản Trung Quốc, cả hai ông cùng lập ra một chi bộ Cọng sản trong Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.

 

Và khi Hồ Chí Minh bị Tưởng Giới Thạch đuổi chạy về Nga thì để lại rất nhiều nợ đời cho Hồ Tùng Mậu;  nào là chi bộ Cọng sản, nào là đảng viên Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, nào là tay mật thám Lâm Đức Thụ, nào là chuyện bán cụ Phan Bội Châu và cuối cùng là chuyện Hồ Chí Minh đã quẳng lại hồ sơ cá nhân của các nhà ái quốc Việt Nam để rơi vào tay nhà cầm quyền Trung Hoa.  Rất nhiều bí mật mà Hồ Chí Minh muốn giấu có thể sẽ bị phanh phui dần dần bởi Hồ Tùng Mậu.

 

Người thứ hai không được vui là Trường Chinh, ông ta đổi tên là Trường Chinh là để lấy lòng Mao Trạch Đông. Thế nhưng trong khi ông ta đang hí hửng với sự thành lập trở lại Đảng Cọng sản dưới áp lực của Mao thì lại xuất hiện một cây cổ thụ xuất thân từ Đảng Cọng sản Trung Quốc, mà cây cổ thụ này lại có “tay trong” là tướng Nguyễn Sơn đang làm việc tham mưu cho Mao Trạch Đông về vấn đề Việt Nam.

 

Mặc dầu Trường Chinh và HCM bàn với nhau không gởi giấy mời Hồ Tùng Mậu tham dự đại hội nhưng La Quý Ba bắt phải thêm Hồ Tùng Mậu vào danh sách đại biểu tham dự đại hội.  Và rồi thân tình giữa Hồ Tùng Mậu với La Quý Ba cũng như uy danh của Hồ Tùng Mậu trong thời gian diễn ra đại hội đã khiến Trường Chinh thực sự lo ngại cho vị trí Tổng bí thư của ông ta.

 

Người thứ ba là Trần Quốc Hoàn, ông này cũng là người Nghệ An, cùng ở chung trại tù Sơn La với Hồ Tùng Mậu từ năm 1940 đến 1945.  Trong trại tù Hồ Tùng Mậu được trọng nể bao nhiêu thì Trần Quốc Hoàn bị lánh dè bấy nhiêu vì tư cách rẻ tiền của ông ta cũng như lý lịch của ông ta có nhiều mờ ám.  Hơn nữa, tháng 8 năm 1945 Hoàn giết hụt Mậu tại Ô Cầu Giấy cho nên ông ta biết nếu Mậu được làm lớn trong Trung ương thì ông ta khó được an toàn.

 

Sau khi đại hội giải tán ngày 19-2-1951 thì Hồ Tùng Mậu trở về làm việc tại Thanh Hóa.  Đến ngày 23-7-1951 ông bị ám sát bằng lựu đạn.  Lúc này Liên Khu 4 hoàn toàn thuộc quyền kiểm soát của chính quyền Cọng sản, không có một tổ chức đối kháng nào trong khu vực.  Ngoài ra cũng không có một tổ chức nào nhận trách nhiệm về cái chết của ông.

 

Tài liệu của mật thám Pháp ghi nhận ông bị ám sát bằng lựu đạn nhưng không rõ ai chủ mưu.  Riêng báo Cứu Quốc của ĐCSVN thì loan báo rằng Hồ Tùng Mậu đã bị chết vì bị bỏ bom. Thời trước tiếng Việt dùng chữ “bỏ bom” ( Bombing ) để nói đến việc ném lựu đạn hay chất nổ. Thí dụ như nói “Tiếng bom Sa Điện” là nói tới hành động của Phạm Hồng Thái ném lựu đạn vào Toàn quyền Pháp tại thành phố Sa Điện ở Quảng Châu Loan.

 

Sau này hồi ký của Võ Nguyên Giáp xuất bản năm 2.000 lại viết là Hồ Tùng Mậu bị “máy bay Pháp bỏ bom” trên đường công tác tại Khu 4. Tuy nhiên, nếu đọc lại bài điếu văn của HCM đăng trên báo Nhân Dân ngày 9-8-1951 thì không có một chữ nào cho thấy Mậu chết vì bom máy bay Pháp, cũng chẳng có một dòng nào căm thù giặc Pháp đã gây ra cái chết cho Mậu :

 

“Mất chú, đồng bào mất một người lãnh đạo tận tuỵ, Chính phủ mất một người cán bộ lão luyện, Đoàn thể mất một người đồng chí trung thành, và tôi mất một người anh em chí thiết. Mấy nguồn thương tiếc, cộng vào trong một lòng tôi!…  Chú Tùng Mậu ơi!  Đành rằng sự mất, sự còn là luật chung của tạo hoá. Nhưng gặp lúc sinh ly tử biệt, thì khó mà ngǎn mối xót thương…”

 

“Tôi lại hứa với chú: toàn thể đồng sự và đồng chí sẽ cố gắng noi gương đạo đức cách mạng của chú…”

 

Câu : “Đành rằng sự mất sự còn là quy luật chung của tạo hóa” cho thấy HCM né tránh nói tới tại sao HTM bị chết.  Đơn giản là vì HTM bị ám sát, nhưng không phải là Pháp ám sát hay phe Quốc gia ám sát.  Và HCM cũng chỉ hứa noi gương đạo đức của HTM chứ không hứa “biến đau thương thành căm thù” giặc Pháp, bởi vì Mậu không chết vì máy bay Pháp.

 

Sau cái chết của Mậu thì Trần Quốc Hoàn được đề cử giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Công an và qua năm 1953 thì lên chức Bộ Trưởng Bộ Công an, rồi giữ luôn chức này cho tới năm 1980;  tức là 27 năm làm trùm mật vụ trên toàn quốc.

 

Mặc dầu Trần Quốc Hoàn được Hồ Chí Minh và Trường Chinh tin cậy nhưng qua tố cáo của ông Nguyễn Minh Cần, cựu Phó chủ tịch Thành phố Hà Nội;  và qua tố cáo của ông Vũ Thư Hiên thì Trần Quốc Hoàn coi HCM không ra gì.  Thậm chí coi khinh HCM.

 

Sở dĩ Trần Quốc Hoàn lộng hành như vậy là bởi vì ông ta biết rõ những việc ác của Hồ Chí Minh và Trường Chinh, việc ác nào cũng đều do ông ta thực hiện. Trong số những việc ác đó có việc giết các cán bộ CSQT như Hồ Tùng Mậu, Lâm Đức Thụ, Trương Văn Lệnh, Trần Đình Long, Nguyễn Thế Vinh…, và cả việc giết người vợ hờ của HCM ( Theo tố cáo của Nguyễn Minh Cần và Vũ Thư Hiên ).

 

(54) TRẦN NGỌC DANH BIẾT RÕ HỒ CHÍ MINH

 

 

Đại hội ĐCSVN toàn quốc năm 1951, cũng là  Đại hội thành lập đảng Lao Động Việt Nam, là một vấn đề đau đầu đồi với Hồ Chí Minh và Trường Chinh.  Bởi vì danh hiệu “người thành lập ra ĐCSVN” của ông Hồ Chí Minh năm 1930 chỉ là bịp, còn danh hiệu Tổng bí thư ĐCSVN của Trường Chinh năm 1941 cũng là tự phong chứ chẳng có đại hội nào bầu.

 

Vì vậy, tuy nhận lời với Mao Trạch Đông từ đầu năm 1950 nhưng mãi tới đầu năm 1951 Hồ Chí Minh và Trường Chinh mới tổ chức được Đại hội Đảng toàn quốc. Trong 1 năm đó Trường Chinh đã tìm cách ngăn chặn không cho các ông trùm CSVN được tham gia đại hội bằng cách giấu nhẹm tin tức và vận động đưa tay chân bộ hạ của mình đi thay.

 

Có nhiều ông trùm Cọng Sản thứ thiệt bị đẩy ra xa trung tâm quyền lực :

 

Trần Ngọc Danh:

 

Quê quán ở Hà Tĩnh nhưng sinh taị Quảng Ngãi năm 1908.  Năm 1926, cùng anh ruột là Trần Phú tham gia Việt Nam Cách mạng Đảng ( Sau đổi thành Tân Việt Cách mạng đảng ).  Tháng 12 năm 1928 nhân vụ án đường Babiér, mật thám Pháp phăng ra tổ chức Tân Việt Cách mạng Đảng nên Trần Ngọc Danh, Hà Huy Tập và Phạm Trần Hổ trốn sang Trung Hoa rồi sang Nga tìm Trần Phú.

 

Trần Phú cũng là cựu đàng viên VNCMĐ sang Nga theo học tại trường Stalin năm 1927.  Gặp lại Danh, Tập và Hồ, Phú rủ ba người chuyển theo CS. Cả ba theo học trường Stalin vào giữa năm 1929.  Sang năm 1930 Trần Ngọc Danh chuyển lên học trường Lénin là trường dành cho cán bộ CSQT cao cấp. Tham gia “Đoàn thanh niên Com Xô Môn Mạc Tư Khoa”.

 

Sau khi cả Trần Phú lẫn Nguyễn Tất Thành bị bắt năm 1931 thì CSQT đưa Lê Hồng Phong, Trần Ngọc Danh và Hà Huy Tập về Trung Hoa để họp cùng Lê Tán Anh, Nguyễn Thị Minh Khai, vực lại ĐCSĐD. Tháng 6-1932 TND bị bắt cùng với Lê Tán Anh, cả hai bị dẫn độ về Việt Nam.  Lê Tán Anh bị tử hình ( Tội cùng với Phạm Hồng Thái nổ lựu đạn ám sát Toàn quyền Pháp Berlin tại Sa Điện, Trung Hoa vào năm 1924 ), Trần Ngọc Danh bị 20 năm, đưa ra Côn Đảo.

 

Đến năm 1936 Trần Ngọc Danh được tha nhờ biến cố Mặt trận Bình dân lên cầm quyền tại Pháp. Tiếp tục cùng Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập phát triển hạ tầng cơ sở của ĐCSĐD tại Nam Kỳ.  Năm 1939 bị bắt lại cùng với Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Lê Duẩn…, ra Côn Đảo và bị giam cho tới 1945.

 

Tại Côn Đảo, Danh đã gặp những người có khuynh hướng theo Cọng sản nhưng chưa được kết nạp vào ĐCS như Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Kim Cương… cùng với những đảng viên đã được kết nạp vào Đảng như Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Linh, Lê Duẩn, Hạ Bá Cang, Hà Huy Giáp…cũng như những đảng viên của Đảng Cọng sản Pháp như Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Sô, Dương Bạch Mai…

 

Các ông đã thành lập chi bộ ĐCSĐD và biến nhà tù Côn Đảo thành một trung tâm đào tạo cán bộ Cọng sản, rất nhiều nhân vật được kết nạp vào Đảng tại đây.  Trong số những người lãnh đạo chi bộ Cọng sản tại Côn Đảo thì Trần Ngọc Danh thuộc hạng ông thầy về lý luận Cọng sản.

 

Vì có quá nhiều hậu thuẩn cũng như có quá nhiều uy tín trong ĐCSĐD cho nên con đường hoạt động trong Đảng sau này của Trần Ngọc Danh cũng như Hà Huy Giáp đều gặp trở ngại.  Bởi vì hai ông là em ruột của Trần Phú và em ruột của Hà Huy Tập cho nên sự hiểu biết khá kỹ của hai ông về cá nhân ông Hồ, có thể làm hại tới uy tín và sự nghiệp của ông Hồ.

 

Riêng đối với Trường Chinh thì nếu cho tự do bầu cử trong Trung ương đảng thì chắc chắn Trần Ngọc Danh sẽ thắng phiếu bởi vì đa số cử tri đều là cựu tù nhân Côn Sơn và đàn em của Trần Phú.  Do đó, bằng mọi cách, Trường Chinh đẩy Trần Ngọc Danh xa rời trung tâm quyền lực của ĐCSVN.

 

Tháng 5-1946 Hồ Chí Minh sang Pháp để tham dự hội nghị Fontainebleau thì Trường Chinh đề cử Trần Ngọc Danh và Dương Bạch Mai đi theo làm cố vấn cho Hồ Chí Minh.  Bởi vì lúc đó HCM đã cho giải tán ĐCSVN cho nên Trường Chinh sợ TND và DBM ở lại sẽ vận động thành lập ra một ĐCS khác và loại bỏ “Nhóm nghiên cứu học huyết Mác-Lê” của Trường Chinh ra khỏi khối CSVN.

 

Đến khi Hội nghị bị Fontainebleau tan vỡ vào tháng 8 năm 1946 thì Hồ Chí Minh cắt cử Trần Ngọc Danh và Dương Bạch Mai ở lại Pháp để làm đại diện cho chính phủ Việt Minh tại Pháp. Rồi cũng từ đó Trần Ngọc Danh không được phép trở lại Việt Nam mặc dầu đã hai lần ông gửi thư xin phép HCM cho ông được trở về. Cuối cùng Trần Ngọc Danh đành phải lưu vong tại Tiệp Khắc vào năm 1949.

 

Ngày 11 và ngày 12 tháng 10 năm 1949 Trần Ngọc Danh liên tiếp gởi 2 lá thư nhờ đảng Cọng sản Tiệp Khắc chuyển cho Stalin, trong thư ông tố cáo Hồ Chí Minh không phải là một người Cọng sản chủ nghĩa, cùng với những bằng chứng là các chỉ thị của ông Hồ Chí Minh trước và sau khi gải tán Đảng vào năm 1945.

 

Trong khi hai lá thư này chưa được chuyển tới Mạc Tư Khoa thì ngày 10-1-1950, Trần Ngọc Danh lại chuyển trực tiếp một lá thư tương tự tới Mạc Tư Khoa, bức thư tới tay Paven Fedorrocich Iudin tại Bộ Ngoại giao Liên Xô. Trong thời gian bức thư đang còn nằm tại bàn giấy của Iudin thì ngày 20-1-1950 Hồ Chí Minh lên đường đi Mạc Tư Khoa theo lệnh gọi của Stalin.

 

Sau đó HCM cùng với Stalin, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Ngũ Tu Quyền bàn chuyện rồi đây phe Cọng sản sẽ hỗ trợ cho Cọng sản Đông Dương.  Ngày 30-1-1950 chính phủ Stalin loan báo công nhận chính phủ Hồ Chí Minh.  Sau khi Hồ Chí Minh về lại Trung Hoa thì Stalin nhận được thư tố cáo của Trần Ngọc Danh.  Lúc đó Stalin mới nói với Krushcheve rằng ông ta hối tiếc về việc thừa nhận chính phủ HCM quá vội.

 

Hồ Chí Minh trở về nước vào tháng 4-1950  thì sang tháng 5 ông ta cử Hoàng Văn Hoan đi dự đại hội ĐCS Tiệp Khắc.  Tại Tiệp Khắc Hoàng Văn Hoan biết được chuyện Trần Ngọc Danh và Lê Hy tuyên bố ly khai khỏi ĐCSĐD. ( Lê Hy là người đại diện cho Thông tấn xã Việt Minh tại Thái Lan nhưng trốn sang Nga rồi xin tị nạn chính trị tại Tiệp Khắc ).  Hoan bèn đến gặp Danh và Hy,  rủ hai ông về Việt Nam để làm sáng tỏ vấn đề trước đại hội tái lập Đảng.

 

Lê Hy theo Hoàng Văn Hoan về nước còn Danh thì đang bị bệnh nên hẹn sẽ về sau;  tuy nhiên chưa kịp về thì mất. Trước khi mất Trần Ngọc Danh đã nói với những đồng chí Tiệp Khắc rằng ông đã có bất đồng sâu sắc với người đứng đầu của ĐCSVN, nhất là tính bất hợp pháp của ĐCSVN.

 

Ngày 4-1-1951, ĐCS Tiệp Khắc gửi thư cho ông Hoàng Văn Hoan, yêu cầu cho biết các thông tin có liên quan tới Trần Ngọc Danh, ông Hoàng Văn Hoan gửi thư trả lời là Trần Ngọc Danh đã bị khai trừ ra khỏi đảng vào tháng 5-1950 vì tội vô kỷ luật, tự ý giải tán Văn phòng Liên lạc của chính phủ Hồ Chí Minh tại Pháp (Hsltr/ACCCP, fon 100/3, volum207, Viet Nam. Tài liệu của giáo sư Christopher Goscha, Montréal).

 

Theo như thông báo này thì Trần Ngọc Danh có vẻ như còn sống và ông ta sẽ không có cơ hội tham gia đại hội thành lập lại ĐCSVN vào tháng 2-1951 vì đã bị khai trừ.  Tuy nhiên, theo sách của bà Quinn Judge thì ông Danh chết vào đầu năm 1950, nghĩa là ngay sau khi ông Hoan vừa rời Tiệp Khắc. (Ho Chi Minh, The Missing Years, trang 339).  Như vậy có lẽ khi viết thư cho ĐCS Tiệp Khắc, ông Hoan chưa biết Trần Ngọc Danh đã chết.

 

Căn cứ vào lá thư của Hoàng Văn Hoan, giáo sư sử học Christopher Goscha không hiểu tại sao ông Trần Ngọc Danh không bị kỷ luật ngay khi ông ta giải tán Văn phòng Liên lạc vào cuối năm 1949 mà phải đợi đến tháng 5-1950?  Theo như ý kiến của sử gia Quinn Judge thì có thể ông Hồ Chí Minh đợi đến sau khi ông ta gặp Stalin vào đầu năm 1950. Việc khai trừ một đảng viên gạo cội từng tốt nghiệp học viện Lenin có thể làm mất lòng Stalin.

 

Tuy nhiên, có lẽ không đúng như bà Quinn Judge đã đoán.  Đơn giản là không thể trị tội ông Danh khi ông ta còn ở ngoài tầm sinh sát của Đảng.  Bởi vậy mới tính tới chuyện dụ ông ta về nước để giết.  Rốt cục ông ta không về nhưng dầu sao cũng dụ được tên đồng phạm Lê Hy.  Nếu cả hai, Danh và Hy, không về thì bản án vẫn để đó cho tới không biết ngày nào.

 

Lê Hy can tội tội cùng với Trần Văn Giàu ( Đại diện Việt Minh tại Thái Lan ) tự ý giải tán văn phòng đại diện Việt Minh tại Thái năm 1948.  Sau khi giải tán Hy chạy sang Tiệp Khắc, còn Giàu được Hoàng Văn Hoan sang Thái “áp giải” về VN.  Nhưng Giàu không bị xử tội giải tán văn phòng đại diện, mà xử tội làm chỉ điểm cho mật thám Pháp để được thả khỏi trại giam Tà Lài năm 1941.  Vì vậy Giàu không bao giờ được vào Trung ương đảng mặc dầu tốt nghiệp học viện Stalin và có công cướp chính quyền Sài Gòn năm 1945.

 

Còn Lê Hy về nước cùng với Hoàng Văn Hoan vào năm 1950 và rồi sau đó mất tích.

 

Lịch sử Việt Nam có thể sẽ đổi khác nếu như Trần Ngọc Danh còn sống và tham dự đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2, chắc chắn cái ghế Tổng bí thư sẽ rơi vào tay Trần Ngọc Danh bởi vì đa số các nhân vật Cọng sản từng ở tù Côn Đảo cũng như các nhân vật từng du học ở Pháp và Nga sẽ bầu cho Trần Ngọc Danh.  Con số phiếu bầu của những cựu tù Côn Sơn luôn luôn có tỉ số áp đảo trong các cuộc bỏ phiếu của Trung ương ĐCSVN.

 

Nếu Trần Ngọc Danh hay Dương Bạch Mai, Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Tạo nắm quyền lãnh đạo ĐCSVN thì sẽ không có chuyện giết oan các cấp chỉ huy Việt Minh vào năm 1953 và giết oan dân lành vào năm 1953-1956.  Bởi vì các ông là những sinh viên tốt nghiệp đại học Paris và Mạc Tư Khoa, các ông biết phân biệt thế nào là giai cấp địa chủ, thế nào là giai cấp trung nông. Và các ông thừa biết phải tiến hành cách mạng vô sản như thế nào trong bối cảnh xã hội Việt Nam.  Một xã hội đã có chế độ Hương ước, là một chế độ dân chủ, đã có từ ngàn xưa tại Việt Nam.

 

(55) NHỮNG NGƯỜI COI THƯỜNG HỒ CHÍ MINH

 

 

Đại hội ĐCSVN toàn quốc năm 1951, cũng là  Đại hội thành lập đảng Lao Động Việt Nam, là một vấn đề đau đầu đồi với Hồ Chí Minh và Trường Chinh.  Bởi vì danh hiệu “người thành lập ra ĐCSVN” của ông Hồ Chí Minh chỉ là bịp, còn danh hiệu Tổng bí thư ĐCSVN của Trường Chinh cũng là tự phong.

 

Vì vậy tuy nhận lời với Mao Trạch Đông từ đầu năm 1950 nhưng mãi tới đầu năm 1951 Hồ Chí Minh và Trường Chinh mới tổ chức được Đại hội Đảng toàn quốc. Trong 1 năm đó Trường Chinh đã tìm cách ngăn chặn không cho các ông trùm CSVN được tham gia đại hội bằng cách giấu nhẹm tin tức và vận động đưa tay chân bộ hạ của mình đi thay.

 

Có nhiều ông trùm Cọng Sản thứ thiệt bị đẩy ra xa trung tâm quyền lực :

 

Nguyễn Khánh Toàn

 

Năm 1926 Nguyễn Khánh Toàn, 21 tuổi, đang theo học trường Cao đẵng Sư phạm Hà Nội thì tham gia bãi khóa chống xử án Phan Bội Châu.  Bị đuổi học, vào Sài Gòn tham gia Đảng Jeune Annam của Tạ Thu Thâu, đứng tên làm chủ bút tờ Le Nha Que ( Lơ Nhà Quê ).  Năm 1927 báo Le Nha Que bị tịch thu và NKT bị truy tố.

 

Năm 1928 Nguyễn Khánh Toàn được học bổng du học tại Pháp nhưng đến Pháp ông được Nguyễn Thế Truyền gởi sang Mạc Tư Khoa theo học trường Stalin.  Năm 1932, sau khi tốt nghiệp Toàn làm giáo sư giảng dạy tại học viện Staline từ 1932 đến 1938. Vào năm 1938 có một học viên Việt Nam cuối cùng của trường Staline là Nguyễn Tất Thành làm đơn xin cứu xét cho mình được chấm dứt tình trạng bị kỷ luật và xin về Việt Nam hay bất cứ nơi đâu.

 

Đơn của Nguyễn Tất Thành đã được CSQT cứu xét.  Sẵn dịp Mao Trạch Đông đang phát triển lực lượng và tổ chức quân đội chính quy để cùng Tưởng giới Thạch chống lại quân Nhật, CSQT quyết định đưa hết các cán bộ và học viên người Á Châu tại “Học viện Đông Phương”, tức trường Staline, về Trung Hoa để tăng cường cho Mao Trạch Đông;  trong số này có giáo sư Nguyễn Khánh Toàn và Nguyễn Tất Thành.

 

Cả hai ông đều phục vụ trong quân đội của Tướng Diệp Kiếm Anh là Tư lệnh Đệ Bát Lộ quân.  Nguyễn Khánh Toàn làm cán bộ chính trị tại Bộ Tư lệnh một quân đoàn , còn Nguyễn Tất Thành làm sĩ quan chiến tranh chính trị cho một đơn vị cấp Trung đoàn với quân hàm Thiếu tá, lấy tên là Hồ Quang.

 

Trong khi Hồ Quang chật vật với chức vụ thiếu tá chiến tranh chính trị trong quân đội Trung Cọng thì Nguyễn Khánh Toàn lại trở nên một người rất được trong nể bởi vì các cán bộ cấp cao của TC đều xuất thân từ trường Staline cho nên Nguyễn Khánh Toàn có hàng lô hàng đống học trò của mình đang giữ những chức vụ trọng yếu trong ĐCS cũng như quân đội Trung Quốc ( Hoàng Văn Chí , Từ Chủ Nghĩa Thực Dân Đến Chủ Nghĩa Cọng Sản ).

 

Năm 1940 Hồ Quang ( NTT ) xin phép CSQT.3 cho ông ta được trở lại phục vụ cho phong trào Cọng sản tại Đông Dương. Và rồi đến năm 1943 thì tổ chức CSQT.3 bị Staline giải tán, Nguyễn Khánh Toàn tiếp tục ở lại phục vụ trong quân đội của Mao Trạch Đông.  Trong khi đó Hồ Chí Minh chạy theo Tướng Tiêu Văn của chính phủ Tưởng Giới Thạch, và nhận làm điệp báo viên cho tình báo Mỹ.  Cuối cùng thì tình báo Mỹ đưa HCM về nước năm 1945.

 

Sau biến cố Mùa Thu năm 1945 Nguyễn Khánh Toàn xin phép được về phục vụ xứ sở nhưng ông cũng chỉ được tham dự ở xa xa của vòng ngoài chứ không cho dự vào nhóm lãnh đạo vì tuy không nói ra nhưng cả Trường Chinh lẫn Hồ Chí Minh đều e ngại ông ta có thể là người tin cậy của Staline, một khi Staline quan tâm tới Việt Nam thì ông ta chỉ cần bắt tay với đầu cầu của ông ta là Nguyễn Khánh Toàn.  Chỉ khi nào cần nói chuyện trực tiếp với Staline thì Hồ Chí Minh mới nhờ đến tài phiên dịch của Nguyễn Khánh Toàn, như trong hai chuyến đi Mạc Tư Khoa vào năm 1950 và 1952.

 

Tuy nhiên đối với Nguyễn Khánh Toàn thì Trường Chinh chỉ cần căn dặn mọi người hãy dè chừng ông ta và đừng bầu ông ta vào những chức vụ cao trong Đảng vì ông ta xuất thân là một người cọng tác với tay CSQT.4 Tạ Thu Thâu;  ông ta chính là chủ bút tờ báo Le Nhà Quê của Tạ Thu Thâu trước khi sang Pháp du học.

 

Do đó Nguyễn Khánh Toàn cũng không có ý định leo cao trong Đảng bởi vì ông biết Stalin thâm thù những ai theo chủ nghĩa CSQT.4.  Năm 1937-1938 Stalin mở cuộc đại tàn sát Trostkist, giết và đưa đi đày hằng triệu người liên quan đến CSQT.4.  Riêng Nguyễn Khánh Toàn tại Mạc Tư Khoa phải giấu biệt chuyện ông xuất thân là Trostkist.

 

Ngoài ra cũng có thể ông quá ngán chủ nghĩa Cọng sản sắt máu của Stalin và Mao Trạch Đông.  Nó hoàn toàn trái ngược với mộng ảo thiên đường Cọng sản do Karl Marx đã vẽ ra.  Cho nên ông sống an phận bên lề ĐCSVN. Rốt cục Nguyễn Khánh Toàn là một lãnh tụ Cọng sản có đẳng cấp Quốc tế nhưng suốt đời gần như là đứng ngoài ĐCSVN.

 

Kiến thức chính trị của Nguyễn Khánh Toàn, giáo sư học viện Stalin, thừa sức phát thiện ra sai lầm về cách đấu tranh giai cấp trong chiến dịch Cải cách ruộng đất. Tuy nhiên ông không dám lên tiếng vì ông thừa biết người ta sẵn sàng thịt ông nếu ông tỏ ra hiểu biết về học thuyết của Karl Marx còn hơn Cố vấn Kiều Hiểu Quang, La Quý Ba;  hay là hơn Trường Chinh, HCM.

 

Bùi Công Trừng:

 

Sinh năm 1905 tại Thừa Thiên.  Năm 1926 gia nhập đảng Jeune An Nam của Tạ Thu Thâu taị Sài Gòn, viết báo cho tờ La Jeune và tờ Le Nha Que.  Cuối năm 1926 sang Paris du học.  Năm 1927 sang Mạc Tư Khoa theo học trường Stalin, là một trong 5 người của Chi bộ Cọng sản Việt Nam đầu tiên.

 

Năm 1929 về nước, cùng Trần Phú thành lập Đảng Cọng sản Đông Dương vào năm 1930.  Năm 1931 bị bắt trong vụ đổ bể Đông Phương cục của Noulens.  Mãn án năm 1938, được Hà Huy Tập cử ra Hà Nội Thay thế cho Nguyễn Thế Rục bị chết vì bệnh lao.  Năm 1939 chạy về Thừa Thiên để tránh cuộc tổng lùng bắt các cựu chính trị phạm.

 

Năm 1943 vào Sa Đéc, cùng Nguyễn Văn Trấn gầy dựng lại Xứ ủy Nam Kỳ của ĐCSĐD.  Năm 1945 tổ chức cướp chính quyền tại Sa Đéc rồi đi đón các ông Cọng sản từ Côn Đảo trở về.

 

Trường hợp của Bùi Công Trừng cũng tương tự như Nguyễn Khánh Toàn. Ông nổi tiếng là một nhà báo lý luận sắc bén và là một nhà hoạt động hực lửa cách mạng. Nhưng ông xuất thân là đảng viên đảng Jeune Annam của Tạ Thu Thâu ( Trostkist ) cho nên Trường Chinh lấy lý do ông có quan hệ với Nhóm CSQT.4  mà không cho tham dự Đại hội thành lập lại ĐCSVN.

 

Hồi ký Nguyễn Văn Trấn cho thấy ông Bùi Công Trừng và Dương Bạch Mai sớm phát hiện sai lầm của Hồ Chí Minh và Trường Chinh trong vụ Cách mạng Cải cách ruộng đất cho nên các ông lên tiếng thẳng thắn phê phán Trung ương Đảng.  Sau đó Lê Duẫn ra Hà Nội nắm quyền, vận động đưa Trừng vào Trung ương Đảng.

 

Tuy nhiên sang năm 1963 ông Trừng bị liệt vào thành phần thân Liên Xô chống Trung Quốc nên lại bị loại ra khỏi TƯĐ.  Cũng theo Nguyễn Văn Trấn thì Bùi Công Trừng coi thuờng Hồ Chí Minh, ông ta thường gọi một cách chế giễu là “Lão Hồ”, hoặc “Đồng chí Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu của chúng ta”.

 

Dương Bạch Mai

 

Sinh năm 1905 tại Bà Rịa.  Năm 1925 du học tại Pháp, tham gia Việt Nam Độc lập Đảng của Nguyễn Thế Truyền, sau đó theo Nguyễn Văn Tạo tham gia ĐCS Pháp.  Năm 1928 theo học trường Stalin tại mạc Tư Khoa, về nước năm 1931 qua ngã Thượng Hải. Sinh hoạt trong chi bộ ĐCS Pháp tại Sài Gòn.

 

Năm 1933 gia nhập nhóm La Lutte, liên minh với nhóm Đệ Tứ.  Cùng với 3 tay Đệ Tứ là Tạ Thu Thâu Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch ứng cử vào Hội đồng Thành phố Sài Gòn và đắc cử.  Năm 1937 tách ra khỏi tờ báo la Lutte cùng với Nguyễn Văn Trấn lập ra tờ báo Dân Chúng.  Năm 1938 bị kết án 1 năm tù và 5 năm Biệt xứ, năm 1939 mãn án nhưng bị biệt xứ nên phải sống tại Chợ Lớn.  Năm 1940 lại bị bắt trong vụ Nam Kỳ khởi nghĩa; bị kết án 5 năm tù và 10 năm biệt xứ, nhưng đến năm 1943 thì được ân xá, về sống ở Biên Hòa.

 

Ngày 25-8-1945 Dương Bạch Mai cùng Trần Văn Giàu và nhóm đảng viên ĐCS Pháp cướp chính quyền tại Sài Gòn, bầu Trần Văn Giàu làm Chủ tịch Ủy ban hành chánh lâm thời, nhưng 10 ngày sau Hạ Bá Cang ( Hoàng Quốc Việt ) từ Hà Nội vào Sài Gòn buộc Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai giao quyền lại cho Việt Minh, bầu luật sư Phạm Văn Bạch ( Không Cọng sản ) làm Chủ tịch thay cho Trần Văn Giàu.

 

Năm 1946 Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đi dự hội nghị Fontainebleau tại Pháp nhưng sợ Trần Ngọc Danh và Dương Bạch Mai sẽ vận động lập lại ĐCSVN nên HCM mời TND và DBM đi theo làm cố vấn cho HCM.  Nhưng khi HCM và phái đoàn thương thuyết về nước thì cắt cử Trần Ngọc Danh và Dương Bạch Mai ở lại Paris làm đại diện cho chính phủ HCM tại Pháp.

 

Tháng 12 năm 1946 Pháp trở mặt đánh duổi HCM lên rừng, TND và DBM xin về nước nhưng HCM không cho về.  Ngày 25-3-1947 chính quyền Paris ra lệnh bắt giam TND và DBM vì đặt Việt Minh ra ngoài vòng pháp luật.  Trần Ngọc Danh trốn qua Tiệp Khắc, Dương Bạch Mai bị bắt và bị tạm giam.  Tháng 5 năm 1949 bị giải giao về VN, giam tại nhà tù Kontum.  Đến tháng 9-1949 vượt ngục, trốn về vùng Việt Minh.

 

Mặc dầu Dương Bạch Mai là một cán bộ Cọng sản tốt nghiệp học viện Staline nhưng Trường Chinh vẫn dè chừng ông và không cho ông vào sâu trong Trung ương Đảng, viện lý do có thời ông ta chơi với CSQT.4 ( Trostkist ). Hồi ký của Vũ Thư Hiên ghi lại :

 

 “Ông Phạm Ngọc Thạch, trong một câu chuyện vui tại nhà tôi vào đầu thập niên 60, nói với ông Dương Bạch Mai: – “Mấy chả không ưa mầy, vì mầy thẳng ruột ngựa, nghĩ sao nói dzậy, làm mấy chả mếch lòng, mới lôi cái vụ mầy hợp tác với Tờ rốt kít mà rêu rao”.  – “Thì mầy cũng bị mấy chả rêu rao là thân Nhật đó thôi.  Chơi với Tờ rốt kít thì mày cũng chơi chớ bộ.  Ông Dương Bạch Mai cười ngất: – “Nè, cẩn thận đó, sổ đen của mấy chả chỉ có ghi thêm chớ không có xóa đi đâu nghen”( Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, trang 279 ).

 

Vũ Thư Hiên cho rằng:  “Ông Dương Bạch Mai nói với tôi rằng ông không được lòng ông Hồ Chí Minh. Dương Bạch Mai sống quá thẳng…Trường Chinh cũng không ưa Dương Bạch Mai. Điều này không khó hiểu. Trong Trường Chinh có cái mặc cảm của kẻ ngã ngựa.  Sau sai lầm cải cách ruộng đất ông đinh ninh ai cũng coi thường mình.  Dương Bạch Mai phản đối nghị quyết 9 thì Trường Chinh lại coi là ông phản đối mình” (trang 279).

 

Không phải là ông Dương Bạch Mai sống quá thẳng, nhưng vì ông quá thông minh cho nên ông thấy ngay cái sai của lũ dốt.  Nếu ông im lặng thì cũng xong, đằng này ông hê lên cho mọi người biết, vì vậy mà sinh ra gây thù chuốc oán.  Cuối cùng vì ông không chấp nhận lệ thuộc Trung Cọng cho nên người ta phải thuốc chết ông bằng một ly bia ngay giữa đại hội Đảng.

 

Rốt cuộc trong ĐCSVN không có lấy một người trí thức, chỉ còn rặt một đám “vô sản lưu manh” ( Từ của Marx-Angels dùng để chỉ những người Cọng sản ít học nhưng giỏi phá hoại ).

 

 

(56) NGUYỄN SƠN, ĐỊCH THỦ CỦA HỒ CHÍ MINH

 

 

Nguyễn Sơn tên thật là Vũ Nguyên Bác, người làng Kiêu Kỵ huyện Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh.  Năm 1925 (17 tuổi) cùng một nhóm bạn học tại trường Sư phạm Hà Nội tổ chức bãi khóa nhân vụ Pháp bắt Phan Bội Châu, bị mật thám theo dõi phải trốn sang Trung Hoa.  Năm 1926, được người đồng hương là Thiếu tá Đinh Tế Dân giới thiệu vào học tại trường võ bị Hoàng Phố.

 

Năm 1927 tham gia Quảng Châu Công xã, giữ chức tổng biên tập tờ báo “Kháng Địch” của Cọng sản Trung Quốc.  Năm 1936 Mao Trạch Đông lên nắm quyền lãnh đạo ĐCSTRQ, mở Hội nghị Tuân Nghĩa, Nguyễn Sơn được đề cử tham dự hội nghị rồi được bầu vào Ban chấp hành Trung Ương Đảng CSTRQ.

 

Năm 1937 Mao Trạch Đông thành lập quân đội để cùng Tưởng Giới Thạch chống quân Nhật thì Nguyễn Sơn trở thành tướng lãnh trong quân đội của Mao Trạch Đông.  Năm 1938, Nguyễn Sơn là Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn 12, chỉ huy 3 sư đoàn bộ đội của Cọng sản Trung Quốc thuộc Đệ Bát lộ binh.  Ông là vị tướng nước ngoài duy nhất trong quân đội của Mao Trạch Đông.

 

Tháng 8 năm 1945 nghe tin nhân dân Việt Nam đứng lên giành độc lập, ông cùng với Nguyễn Khánh Toàn, Lý Ban, Trương Ái Dân, Cao Tử Kiến xin trở về phục vụ cho xứ sở.  Mao Trạch Đông cho phép các cán bộ Việt Nam về tăng cường cho Cọng sản Đông Dương.

 

Riêng Nguyễn Sơn lúc đó là một trong 7 tướng còn lại của Quảng Châu Công xã và là một trong 18 tướng còn lại của cuộc Vạn lý Trường chinh cho nên Mao tiếc tài không muốn cho về,  phê bình  Nguyễn Sơn nặng về tình cảm quốc gia và nhẹ về quốc tế đại đồng. Tuy nhiên Nguyễn Sơn vẫn thiết tha xin về nên Mao đành chấp thuận.

 

 Khi Nguyễn Sơn trở về thì cả Hồ Chí Minh lẫn Đặng Xuân Khu và Võ Nguyên Giáp đều bối rối.  Bởi vì trong hệ thống Cọng sản Quốc tế thì tầm cỡ của Nguyễn Sơn quá lớn về phương diện tuổi đảng cũng như về tầm cỡ của khả năng lãnh đạo. Trong khi chỉ huy trưởng của quân đội Việt Minh là Võ Nguyên Giáp chưa qua một trường đào tạo quân sự nào, người thứ hai có khả năng về quân sự là Chu Văn Tấn thì chỉ mới chỉ huy một trung đội lính Khố Xanh.

 

Vậy thì đặt ông Tướng thứ thiệt này vào chỗ nào trong tổ chức Việt Minh?  Lúc đó tại Miền Nam thì đã có Nguyễn Bình lãnh đạo lực lượng quân sự;  nơi còn lại xa Hà Nội nhất là Khu 5, tức là các tỉnh Quảng Nam Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên thì chưa có chỉ huy quân sự cho nên các ông cử Nguyễn Sơn về làm Ủy viên quân sự  Khu 5.  Tuy nhiên người lãnh đạo chính trị tại Khu 5 thời bấy giờ là bác sĩ Lê Đình Thám lại chỉ nhờ Nguyễn Sơn mở cho một trường huấn luyện quân sự chứ thực sự lúc đó chưa có quân vì chưa có súng.

 

Cuối năm 1946,  Ủy viên quân sự Khu 9 là Nguyễn Văn Tây đưa một trung tá của quân đội Nhật là Ishikato ra Hà Nội trình diện Hồ Chí Minh, Ishikato ngỏ ý mong được tham gia kháng chiến chống Pháp.  Hồ Chí Minh bèn phong Ishikato lên chức đại tá và đổi tên Việt Nam là Nguyễn Thống.

 

Nhưng không thể để Ishikato công khai hoạt động trong tổ chức Việt Minh vì ngại mang tiếng là Việt Minh cọng tác với Nhật, nên mới đưa Ishikato về Quảng Ngãi làm chỉ huy trưởng trường huấn luyện quân sự.  Rồi điều Nguyễn Sơn về Thanh Hóa làm phó cho Lê Thiết Hùng  ( Tư lệnh Khu 4,  gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh, Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên ).

 

Đến đầu năm 1947 Hồ Chí Minh bị Pháp đuổi chạy lên Việt Bắc nên điều Lê Thiết Hùng về Tuyên Quang để có bề gì thì Lê Thiết Hùng sẽ dẫn các ông chạy sang Trung Hoa.  Nhờ vậy Nguyễn Sơn trở thành Chính ủy kiêm Tư lệnh Khu 4.  Nhưng rồi sau đó Nguyễn Sơn ổn định được tình hình và bắt đầu nổi danh tại Khu 4 thì nhóm Đặng Xuân Khu (Trường Chinh), Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp đều lo ngay ngáy vì ai cũng sợ Nguyễn Sơn có thể cướp mất vị trí của mình.

 

Đến năm 1949, Mao Trạch Đông thành công trên toàn cõi Trung Hoa. Trường Chinh và Hồ Chí Minh đoán biết rồi đây Staline sẽ giao cho Mao Trạch Đông hỗ trợ phong trào Cọng sản tại Đông Dương.  Lúc đó Mao nhìn về Việt Nam và sẽ thấy viên tướng rất tài ba của mình là Nguyễn Sơn, người này mới đích thực là người có tài và có công với Mao trong công cuộc Vạn lý trường chinh, từ thời Mao chưa có một tấc đất cắm dùi.

 

Vì vậy chắc chắn Mao Trạch Đông sẽ bắt tay với Nguyễn Sơn chứ không thể bắt tay với một ai khác.  Do đó vị trí lãnh đạo của Hồ Chí Minh rất là cheo meo một khi Nguyễn Sơn còn đứng bên cạnh của ông.

 

Trong khi đó Đặng Xuân Khu đang rắp tâm lấy cảm tình của Mao Trạch Đông và được ông này rất tin cậy, Đặng Xuân Khu đã phát hành 2 tác phẩm lý luận về Cọng sản: “Kháng Chiến Nhất Định Thắng Lợi” và “Bàn Về Dân Chủ Mới” nhưng tác phẩm thứ nhất chỉ là lập lại chủ thuyết của Mao viết trong  tác phẩm “Trì Cửu Chiến” và tác phẩm thứ hai là dịch lại tác phẩm “Tân Dân Chủ Luận” của Mao Trạch Đông, ông gởi hai tác phẩm này cho Mao và xin ý kiến của Mao xem có đúng không.

 

Mao rất ưng ý và khen Đặng Xuân Khu đã thấu đáo về chủ nghĩa Cọng sản.  Được đà, Đặng Xuân Khu bèn đổi tên của mình thành Trường Chinh là để ca tụng cuộc “Vạn lý trường chinh” rất nổi tiếng của Mao Trạch Đông.  Tuy nhiên việc đổi tên này cũng không thể nào làm cho Mao đổi ý nếu ông ta so sánh với Nguyễn Sơn.

 

Riêng đối với Võ Nguyên Giáp thì Nguyễn Sơn đã tỏ thái độ coi thường sau khi Hồ Chí Minh phong cho Võ Nguyên Giáp cấp Đại tướng;  phong cho Nguyễn Bình, Lê Thiết Hùng và Nguyễn Sơn cấp Trung tướng;  Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Lê Quảng Ba, Hoàng Văn Thái, Lê Tùng Sơn, Đặng Văn Cáp, Nguyễn Văn Tây cấp Thiếu tướng vào ngày 20-1-1948.

 

Vì vậy năm 1949 các ông hè nhau tìm cách  trả Nguyễn Sơn về cho Mao Trạch Đông.  Lý do trả về được Hoàng Tùng là phó trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng đã ghi lại bằng một câu đơn giản của Hồ Chí Minh như sau:  “Bác nói chú Nguyễn Sơn hữu tài nhưng…nên mời chú đi”.  Mời chú đi có nghĩa là đuổi chú đi chỗ khác chơi.

 

Nhưng Nguyễn Sơn không trở về Trung Quốc để chơi, ông trở về đúng lúc quân của Mao Trạch Đông đang trên đà chiến thắng, đánh đuổi quân Tưởng Giới Thạch ra đảo Đài Loan.  Ngày toàn thắng vào cuối năm 1949 Mao Trạch Đông tuyên dương Nguyễn Sơn danh hiệu “Anh Hùng Dân Tộc” của Trung Quốc.  Qua năm 1951 Nguyễn Sơn được giao nhiệm vụ chỉ huy Lộ binh số 2 của Trung Quốc, gồm 9 sư đoàn, tham chiến tại chiến trường Đại Hàn.

 

Cục diện của Việt Nam có thể đổi khác nếu người lãnh đạo CSVN là Tướng Nguyễn Sơn vì sau này Mao Trạch Đông sẽ không cần những cố vấn như Lã Quý Ba, Vi Quốc Thanh, Trần Canh;  khả năng và uy tín của Nguyễn Sơn hơn hẳn những người này.  Mặc dầu e ngại Nguyễn Sơn nhưng tất cả những đối thủ của Nguyễn Sơn từ Hồ Chí Minh đến Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đều công nhận Nguyễn Sơn là người có tài mà không thể nào tìm cách xuyên tạc hay nói xấu được.

 

Hồi ký của Vũ Thư Hiên có ghi lại câu chuyện kể của cụ Vũ Đình Huỳnh về giai đoạn năm 1949 là năm mà quân Pháp truy đuổi Hồ Chí Minh lên tận miền rừng núi tỉnh Tuyên Quang. Tình cảnh của ĐCSVN lúc ấy thật là bi đát, Nguyễn Lương Bằng phải đi buôn thuốc phiện và lập hãng sản xuất ma túy để gây quỷ cho Đảng và cho Chính phủ Kháng chiến. Trước tình hình không mấy sáng sủa, Trường Chinh bèn nghiễn ra một nghị quyết để tạo khí thế trong toàn Đảng và trong toàn quân.

 

Nghị quyết mang tựa đề “Tích cực cầm cự, chuyển mạnh sang tổng tấn công”.  Cụ Vũ Đình Huỳnh ngạc nhiên vì tích cực cầm cự thì đã tích cực 4 năm nay rồi, hiện nay thì tình hình cầm cự càng ngày càng bi đát thì lấy gì chuyển sang Tổng tấn công?

 

Tuy nhiên Hồ Chí Minh thì hiểu ý Trường Chinh, ông giải thích:  “Thì mình có nói cụ thể thời hạn tổng phản công bao giờ đâu mà lo.  Kháng chiến cực nhọc nhiều rồi, cũng phải động viên quần chúng phấn khởi nhìn về tương lai chứ ?”  Như vậy là trong khi dân chúng quá mỏi mệt Bác lại cho dân chúng ăn bánh vẽ bằng cách làm như tổng tấn công tới nơi. Còn tệ hơn là cho con bệnh sài ma túy, nó tương đương với chuyện cho vận động viên sài doping.

 

Đây là một việc ác, không đáng tư cách của một “minh chủ” mà là tư cách của một tay “gian hùng”. Tuy nhiên trước ý kiến tuyệt vời của hai “đại tư tưởng gia” thì Võ Nguyên Giáp chịu thua. Ông đành triệu tập các cán bộ quân sự cao cấp để phổ biến nghị quyết của Trung ương Đảng.

 

Nhưng rủi cho Tướng Giáp là trong hội nghị lại có Tướng Nguyễn Sơn.  Kết quả là sau hội nghị Võ Nguyên Giáp trở về gặp cụ Vũ Đình Huỳnh:

 

“Thấy Võ Nguyên Giáp buồn thiu cha tôi hỏi :

 

– Có chuyện gì thế?

 

 – Mình rõ to đầu mà dại, Võ Nguyên Giáp thở dài, thằng Thận (Trường Chinh) đúng là xúi chó vào bụi rậm.  Mình biết sẽ khổ vì cái nghị quyết của nó. Y như rằng, vừa mới đọc xong báo cáo, chưa kịp ngồi xuống thì đã bị Nguyễn Sơn nó đập cho một trận tơi bời, vuốt mặt không kịp… 

 

Võ Nguyên Giáp kể lại nguyên văn lời của Nguyễn Sơn:

 

“Nói tổng phản công vào lúc này là chẳng biết cái đếch gì về quân sự… Thử điểm lại mình coi, có cái cóc khô gì trong tay mà đòi tổng phản công! Tổng phản công cái cục c.!!” (Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, trang 362).

 

Vũ Thư Hiên kể lại chuyện này để chứng minh về con người của Võ Nguyên Giáp nhưng vô tình cho thấy trình độ uyên bác của Nguyễn Sơn cũng như cho thấy thái độ của Tướng Nguyễn Sơn đối với lãnh đạo ĐCSVN.

 

Tuy nhiên trong tác phẩm “Từ Chủ Nghĩa Thực Dân Đến Chủ Nghĩa Cọng Sản” của ông Hoàng Văn Chí (  Một lãnh tụ Việt Minh ly khai, anh em cột chèo của Nguyễn Sơn) thì Tướng Nguyễn Sơn luôn luôn đả kích tư tưởng mong chờ ngoại viện của Trường Chinh và Hồ Chí Minh;  ông viện dẫn gương của Mao Trạch Đông, tuy rất cần viện trợ của Stalin nhưng Mao luôn luôn chủ trương tự lực.

 

Vì thế Mao luôn luôn đứng vững trong những lần Stalin viện trợ cho Tưởng Giới Thạch để Tưởng Giới Thạch có thể tiêu diệt Mao Trạch Đông. Và cũng vì vậy sau này Mao đã nhận viện trợ của Stalin như một cuộc trao đổi thương mại sòng phẳng mà Stalin không thể nào xen vào nội bộ của Đảng Cọng sản Trung Quốc.

 

Tiết lộ này của Hoàng Văn Chí được phát hành năm 1960. Cho mãi tới ngày nay người ta mới đọc lại để nghiệm các biến chuyển thời cuộc lúc đó và phải công nhận Nguyễn Sơn có tầm nhìn rất xa.  Rõ ràng Mao Trạch Đông được Stalin bán cho vũ khí để đánh Tưởng Giới Thạch chứ Mao không hề nhận cố vấn của Stalin và cũng không hề nhận viện trợ lương thực của Stalin, trái lại, Mao đã dùng lương thực và gỗ trong vùng Mao chiếm đóng để đổi lấy vũ khí của Stalin.

 

Nếu Nguyễn Sơn có mặt tại Việt Nam vào năm 1950 thì chắc chắn ông sẽ là Tổng tư lệnh quân đội CSVN chứ không phải là Võ Nguyên Giáp và trận Cao Bằng sẽ là chiến thắng của Nguyễn Sơn chứ không phải của Trần Canh và ông sẽ chiếm ngay Bắc Việt vào năm đó.

 

Ngoài ra nếu Nguyễn Sơn có mặt tại Việt Nam vào năm 1954 thì người chỉ huy trận Điện Biên Phủ là ông chứ không phải là Tướng Vi Quốc Thanh và con số thương vong của CSVN sẽ không lên tới 23 ngàn người.

 

Nếu Nguyễn Sơn còn ở lại Việt Nam năm 1953 thì mấy ngàn vị chỉ huy trong Quân đội và trong Đảng không bị giết oan trong đợt mở màn của chiến dịch cải cách ruộng đất. Và nếu ông có mặt tại Việt Nam từ 1953 đến 1956 thì chắc chắn không có chuyện mắc phải sai lầm về đấu tranh giai cấp như Trường Chinh và Hồ Chí Minh đã sai lầm.

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lãng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


VIETNAMESE COMMANDOS

  1. Một Trang Lịch Sử

  2. Viết Lại Lịch Sử  Video

  3. Secret Army Secret War Video

  4. Đứng Đầu Ngọn Gió Video

  5. Con Người Bất Khuất Video

  6. Dấu Chân Biệt Kích Video

  7. Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

  8. Huyền thoại về:"Những người lính một thời bị lãng quên" Kim Âu

  9. Phản Bội Kim Âu

  10. Tiếng Nói Công Lý Kim Âu

  11. Vietnam’s ‘Lost Commandos’ Gain Recognition in Senate

  12. President Unit Citation at Fort Bragg

  13. Vietnamese Commando never knew U.S. declared him dead

  14. Back from the dead

  15. Bill of Compensation

  16. Miami! Gian Hùng Lộ Mặt  Kim Âu 

  17. Honoring Vietnamese Commandos

  18. Honoring South Vietnamese Army

  19. Vietnamese Commandos Win Last Battle

  20. Uncommon Betrayal

  21. Go to congress

  22. Trong Giòng Lịch Sử Kim Âu

  23. Oplan 21 Kim Âu

  24. Biệt Kích Gỉa, Biệt Kích Thật Kim Âu

  25. Xuyên Tạc Lịch Sử Kim Âu

  26. Cảm Nghĩ Đầu Xuân (2011)

  27. Những Tên Miệng Hùm Gan Sứa Kim Âu

  28. Loretta Sanchez Không Hề Gian Dối Kim Âu

  29. Ăn Qủa Nhớ Kẻ Trồng Cây Kim Âu

  30. The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.

  31. Lá Thư Tự Thú

  32. Người Tù Kiệt Xuất

  33. Hồi Chuông Báo Tử I

  34. Hồi Chuông Báo Tử II

  35. Hồi Chuông Báo Tử III

  36. Hồi Chuông Báo Tử IV

  37. Thư Trả Lời Mai Nhuệ Anh

  38. Thánh Nhân Vô Phí Vật

  39. Đặc Biệt Cho Nhóm 10%

  40. Phân Định Chính Tà

  41. Phân Ðịnh Chính Tà 1

  42. Phân Ðịnh Chính Tà 2

  43. Phân Ðịnh Chính Tà 3

  44. Hư Danh - Hư Cấu

  45. Kim Âu Trả Lời Phỏng Vấn Hồng Phúc

  46. Hồng Phúc Phỏng Vấn Tourison. Lê Ngung

  47. Sư Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  48. Tri Nhân Tri Diện Bất Tri Tâm

  49. Nguyên Uỷ Một Vụ Kiện

  50. Trả Lời Câu Hỏi Của Một Vi Hữu


 

 

Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn * Một Trang Lịch Sử

Vietnamese Commandos' History * Vietnamese Commandos vs US Government * Lost Army Commandos

Bill of Compensation * Never forget * Viết Lại Lịch Sử  Video * Secret Army Secret War Video

Đứng Đầu Ngọn Gió Video * Con Người Bất Khuất Video * Dấu Chân Biệt Kích Video * Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.* Gulf of Tonkin Incident * Pentagon Bạch Hóa * The heart of a boy

U.S Debt Clock * Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton * None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) * Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

The World Order Eustace Mullin * Trăm Việt trên vùng định mệnh * Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis * Lyndon Baines Johnson Library Musuem

Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn * Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam Bình Nguyên Lộc

Nghi Thức Ngoại Giao * Lễ Nghi Quân Cách * Sắc lệnh Cờ Vàng * Quốc Tế Cộng Sản

How Does a Bill Become Law? * New World Order * Diplomacy Protocol. PDF

The World Order Eustace Mullin * Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

Vietnam War Document * American Policy in Vietnam

Foreign Relations Vietnam Volum-1 * The Pentagon Papers * Pentagon Papers Archives

Vietnam and Southeast Asia Doc * Vietnam War Bibliogaphy * Công Ước LHQ về Luật Biển

CIA and NGOs * CIA And The Generals * CIA And The House Of Ngo * Global Slavery

Politics of Southeast Asia * Bên Giòng Lịch Sử

Dấu Binh Lửa * Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

Bách Việt  * Lược Sử Thích Ca  * Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

Douglas Mac Arthur 1962 * Douglas Mac Arthur 1951 * John Hanson, President of the Continental Congress

Phương Pháp Biện Luận * Build your knowledge

To be good writer * Ca Dao -Tục Ngữ * Chùa Bái Đính * Hán Việt

Top 10 Crime Rates  * Lever Act * Espionage Act 1917 * Indochina War * Postdam * Selective Service Act

War Labor Board * War of Industries * War Production Board * WWII Weapon * Supply Enemy * Wold War II * OSS

Richest of The World * Truman Committee   * World Population * World Debt * US Debt Clock *

An Sinh Xã Hội - Cách Tìm IP Email * Public Holiday * Funny National Days

Oil Clock * GlobalResearch * Realworldorder * Thirdworldtraveler * Thrivemovement *Prisonplanet.com *Infowars

Rally protest *Sơ Lược VềThuyền Nhân  *The Vietnamese Population in USA *Lam vs Ngo

VietUni * Funny National Days  * 1DayNotes   

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 


 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


MINH THỊ

LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

 

 

 

 

.

 

 

 

CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV

.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank

.Fed Register .Congr Record .History .CBO

.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState

.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee

.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate

.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive

.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect

.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND

-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost

.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme

.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics

.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner

.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL

.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters

.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon

.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim

.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite

.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale

.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider 

.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above

.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen

.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch

.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS

.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes

.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign

.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media  

.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty

.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway

.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity

.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua

.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị

.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen

.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại

.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền

.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu  

.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc

.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn

.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn

.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng

.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia

.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều

.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism

.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức

.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương

.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG

.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT

.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN

.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa

.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân

.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *

.Tác Phẩm * Khào  Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *