MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU   THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

֎֎֎֎֎֎֎

 

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

     ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 09-2013 ֎12-2013

֎ 03-2014 ֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014

֎ 03-2015 ֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015

֎ 01-2016 ֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016

֎ 08-2016 ֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016

֎ 12-2016 ֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017

֎ 04-2017 ֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017

֎ 08-2017 ֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017

 

 

 

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAssociaed PressWhite HouseLearning Tác  PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaUS CongressUS HouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFARFISBSTác GỉaVideosFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

v White House v National Archives v

v Federal Register v Congressional Record

v USA Government

v Associated Press v Congressional Record

v Reuter News v Real Clear Politics  

v MediaMatters v C-SPAN v.

v Videos Library v Judicial Watch v

v New World Order v Illuminatti News   

v New Max v CNSv Daily Storm v

v Observe v American Progress  v

v The Guardian v Political Insider v

v Ramussen Report  v Wikileaks  v

v The Online Books Page v Breibart

v American Free Press v Politico Mag

v National Public Radio v

v National Review - Public Broacast v

v Federation of Anerican Scientist v

v Propublica v Inter Investigate v

v ACLU Ten  v CNBC v Fox News v

v CNN  v FoxAtlanta v Gateway

v Indonesian News v Philippine News v

v Nghiên Cứu Quốc Tế  v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao  v Tự Điển Bách Khoa VN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử v

v Dấu Hiệu Thời Đại v Viêt Nam Văn Hiến   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển  v

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican?

v Roman Catholic  

v Khoa HọcTV  v Sai Gon Echo v

v Viễn Đông v Người Việt v

v Việt Báo  v Việt List  v Xây Dựngv

v Phi Dũng v Việt Thức v Hoa Vô Ưu

v Đại Kỷ Nguyên v Việt Mỹv

v Việt Tribune v Saigon Times USA v

v Người Việt Seatle v Cali Today v

v Dân Việtv Việt Luận v Thơ Trẻ v

v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v

vLao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Tấm Gương

vSài G̣n v Sách Hiếm v Thế Giới  v Đỉnh Sóng

vChúng Ta  v Eurasia  v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ

v Nguyễn Tấn Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh v TPBVNCH v1GĐ/1TPB v Bia Miệng ♣♣

Trả lời Trần Hùng Văn, tức Việt Thường

 

-Bài 1-

 

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

 

 

Kính thưa quư độc giả

Thưa quư vị,

 

Hôm nay, ngày 8 tháng 9 năm 2014. Chúng tôi bắt đầu viết loạt bài: Trả lời Trần Hùng Văn, tức Việt Thường.

 

V́ thế, trước hết, chúng tôi xin phép quư vị cho tôi được tŕnh bày những nguyên nhân khiến cho tôi phải viết bài này, để trả lời Trần Hùng Văn, tức Việt Thường như sau:

 

Như quư vị đă biết, trong suốt cả một thời gian dài vừa qua, Trần Hùng Văn, một kẻ mà trước ngày 30/4/1975, ông ta ở bên kia gịng sông Bến Hải, hay nói cho đúng hơn là người Bên Kia Chiến Tuyến; c̣n tôi là một người được sinh ra và trưởng thành tại miền Nam: Việt Nam Cộng Ḥa ở phía bờ Nam của chiếc cầu Hiền Lương; tôi không hề biết mặt của Trần Hùng Văn, th́ đúng ra, tôi không cần phải lên tiếng trả lời.

 

1- Ông Lê Xuân Nhuận đă viết về Trần Hùng Văn, tức Việt Thường:

 

Theo lời của ông Lê Xuân Nhuận đă viết. Xin được trích lại nguyên văn, kể cả những chữ tô mầu đỏ như sau:

 

“Theo ông VIỆT THƯỜNG

(Cựu đảng-viên cao-cấp Cộng-Sản Việt-Nam):

 

          “... Nguyễn công Tài đă dành nhiều thời gian để nghiên cứu hàng núi hồ sơ về gia đ́nh nhà ông Ngô Đ́nh Diệm và những người kế cận, cũng như những người đối lập. Tài liệu cập nhật từ nhiều nguồn, nhưng phần đóng góp của nội gián Phạm ngọc Thảo là rất quan trọng. Làm sao phải chọn người tiếp xúc thật đúng mà lại bảo toàn bí mật. Cuối cùng, sau nhiều ngày đêm suy nghĩ, Nguyễn công Tài đă lựa nhân vật Mă Tuyên, người Tàu ở Chợ-lớn đang làm công việc kinh tài cho gia đ́nh ông Ngô Đ́nh Diệm.

            Thông qua dịch vụ buôn bán táo bạo, Nguyễn công Tài đă tiếp xúc trực tiếp được với Mă Tuyên. Và, cái thời điểm để đưa ư kiến cho Mă Tuyên “gợi ư” với anh em ông Ngô Đ́nh Diệm là sau tháng 2-1962, sau cái ngày mà hai trung uư của quân đội ông Diệm là Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử ném bom dinh Độc Lập làm đảo chính. Sự việc của hai trung uư Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử tuy không thành công nhưng nó lại là lư do hợp thời để Nguyễn Công Tài làm cuộc tiếp xúc với anh em ông Diệm, Nhu thông qua thương gia người Tàu ở Chợ-lớn là Mă Tuyên. Tín hiệu có thuận lợi. Quả nhiên ông Nhu nhận sự tiếp xúc một cách thận trọng và kéo dài thời gian để mặc cả cho cái giá đi đêm. Nguyễn công Tài có nhận xét là anh em ông Diệm, Nhu tuy học ở Pháp và Mỹ về nhưng óc bài ngoại cực đoan như “Tự Đức” và cũng có mộng Việt Nam sẽ gồm cả Miên và Lào và phải là cường quốc ở châu Á.

            Sự việc tin đi mối lại chỉ dừng ở đó. Phải cho đến lúc được phép của ông Line, Nguyễn công Tài cung cấp cho ông Nhu một số tài liệu chứng minh người Mỹ muốn lưu lại ông Diệm c̣n vợ chồng ông Nhu phải đi lưu vong nước ngoài, cũng như họ trước sau cũng buộc ông Diệm phải từ bỏ chế độ độc tài, gia đ́nh trị, phải chia quyền lănh đạo cho các đảng phái cũng như phải có chính sách b́nh đẳng tôn giáo. Ông Nhu chấp nhận một cuộc gặp gỡ với phái viên đặc biệt của ông Line. Có thể đây chỉ là giải pháp pḥng ngừa mà cũng có thể ông Nhu muốn hiểu rơ hơn ư đồ của địch. Những điều này c̣n là bí ẩn đi theo ông Nhu xuống tuyền đài.

            Phạm Hùng nhận những chỉ thị toàn quyền hành động từ ông Line tại phủ toàn quyền Đông Dương ở Ba-Đ́nh (Hà-nội) và cấp tốc đi Nam bằng cả ba thứ phương tiện: thủy, bộ và hàng không.

            Đầu tháng 2-1963, cuộc họp “bí mật” giữa ông Ngô Đ́nh Nhu và Phạm Hùng diễn ra tại một địa điểm kín đáo ở quận Tánh Linh, tỉnh B́nh Tuy. Trong cuộc họp này có cả Nguyễn công Tài cũng được dự. Khi chia tay, cả hai bên đều hỷ hả. Nội dung cuộc họp vẫn c̣n nằm trong bí mật cho đến nay.

            Đầu tháng 11-1963, các tướng trong quân đội của ông Diệm làm đảo chánh thành công. Anh em ông Diệm, Nhu theo đường hầm trốn vào Chợ-lớn ở nhà Mă Tuyên. Phải chăng hai anh em ông Diệm, Nhu định chờ người của Phạm Hùng và Nguyễn công Tài đến đón ra bưng biền?

            Người duy nhất c̣n lại là Nguyễn công Tài, sau này “t́nh cờ” làm cái việc xét căn cước, cảnh sát của miền Nam đă bắt được Nguyễn công Tài. Người Mỹ đă cho giam Nguyễn Công Tài ở Bạch Đằng (Sài-g̣n), cho hưởng mọi tiện nghi vật chất rất cao và cũng được ngồi xe hơi (tất nhiên có bảo vệ) đi “tham quan” phố xá Sài-g̣n. Đến 1975, trước khi đứt phim miền Nam, Mỹ đă thả Nguyễn công Tài ra...” (Lê Xuân Nhuận)

 

Song cho dù Trần Hùng Văn là “Cựu đảng-viên cao-cấp Cộng-Sản Việt-Nam”, như ông Lê Xuân Nhuận đă viết như trên, th́ tôi cũng chưa viết một lời nào, để được gọi là “chống” ông ta, nhưng Trần Hùng Văn đă vô cớ t́m mọi cách để viết ra vô số những chuyện, kể cả những chuyện hoàn toàn bịa đặt về đời tư, để bêu riếu, miệt thị chúng tôi; nhưng lại núp dưới tên của kẻ khác, chứ không công khai lên tiếng.

 

Chính v́ thế, chúng tôi đă phải t́m mọi cách, để CẠY cái mồm của Trần Hùng Văn, buộc chính Trần Hùng Văn phải mở miệng. Và Trần Hùng Văn ĐĂ PHẢI MỞ MIỆNG!

 

Trần Hùng Văn mở miệng, hay chúng tôi đă buộc Trần Hùng Văn phải mở miệng, và chỉ cần một lần là đủ. Chúng tôi chờ có thế, v́ đó mới là lúc chúng tôi lên tiếng, v́ ngoài Trần Hùng Văn, chúng tôi không bao giờ trả lời cho bất cứ một kẻ nào là “đồng chí” của Trần Hùng Văn. Và chúng tôi cũng chỉ lên tiếng, để nói cho hết một lần thôi, rồi sau đó, chúng tôi không cần phải nhắc tới Trần Hùng Văn nữa!

 

Kính thưa quư vị,

 

Nhân thời điểm Trần Hùng Văn đă công khai lên tiếng qua một audio, nên chúng tôi cũng phải lên tiếng, với mục đích chính, là để cho quư độc giả ở tại quốc nội và hải ngoại đều được biết rằng:  Tất cả những ǵ do Trần Hùng Văn, tức Việt Thường viết và nói ra đều là những chuyện hoàn toàn bịa đặt, để vu khống, chụp mũ và miệt thị chúng tôi cũng như nhiều người nữa.

 

Và trước khi đưa bài này lên các diễn đàn, tôi đă viết xong một bài dài hơn 18 (mười tám) trang, qua bài ấy, tôi đă nói gần hết những ǵ tôi đă làm trước ngày 30/4/1975. Tôi cũng đă lục t́m lại những giấy tờ cũ, với ư định sẽ chia bài viết thành hai kỳ, rồi kèm các giấy tờ c̣n giữ được, để đưa lên các diễn đàn. Thế nhưng, sau nhiều lần suy nghĩ , tôi đă tự vấn: ḿnh có nên đưa bài ấy lên hay không?

 

Và cuối cùng, tôi đă quyết định là KHÔNG.

 

Tại sao tôi quyết định như vậy?

 

Xin thưa: v́ tôi nhớ lại hai năm bị Công an Đà Nẵng bắt giam, rồi từ nhà giam Kho Đạn, Chợ Cồn, Đà Nẵng, tôi đă bị đưa vào nhà giam Hội An và Tam Kỳ, và qua những lần gặp “cán bộ chấp pháp”, tức Công an thẩm cung, với không biết bao nhiêu lần phải viết những “Bản tường thuật – Tờ khai lư lịch” với những đ̣i hỏi, người viết phải “tự khai” về lư lịch ba đời, mà c̣n phải viết theo dưới cái:

“Tiêu chuẩn: Thành thật khai báo về bản thân. Sẵn sàng tố cáo tội ác của người khác mà ḿnh biết”.

 

Với cái gọi là “Tiêu chuẩn” này, các vị đă từng bị thẩm cung có lẽ c̣n nhớ, nạn nhân chẳng những phải khai hết lư lịch ba đời, phải khai rơ ràng về đảng phái, tôn giáo của ḿnh, mà c̣n phải ghi thêm tên họ, địa chỉ của ba người bạn thân nhất nữa.

 

Chính v́ thế, sau khi đọc lại bài viết hơn 18 trang, đă khiến cho tôi phải giật ḿnh, v́ tự thấy rằng ḿnh đă bị rơi vào cái bẫy của “cán bộ chấp pháp”. Tôi tự hỏi, tại sao trong suốt hai năm bị Công an “giam cứu” trước khi đưa vào trại “tập trung cải tạo”, dù phải viết hàng bao nhiêu lần những “Tờ khai lư lịch” và “BảnTường thuật” , nhưng tôi vẫn viết một nội dung giống nhau, không thay đổi. Thế th́, tại sao bây giờ tôi lại dại dột đi viết một “Tờ khai lư lịch - Bản tường thuật” do những thủ đoạn của “nghiệp vụ chuyên môn” của Trần Hùng Văn?

 

Thế rồi tôi bỗng ôn lại những bài học lịch sử trên thế giới, mà ḿnh c̣n nhớ được:

 

Tại sao Đại đế Napoléon phải thua trận; tại sao Pouché thắng Robespierre, tại sao Trotsky một người có tŕnh độ học vấn cao, nhưng phải thua Staline một kẻ ít học; tại sao một Châu Du cũng đầy thủ đoạn, mà phải thảm bại trước mưu trí của Khổng Minh; tại sao Tưởng Giới Thạch dù đă thắng được trận Thụy Kim, nhưng cũng phải bại trận trước họ Mao dù họ Mao không có chính nghĩa.. tại sao và tại sao?

 

Từ những câu hỏi ấy, khiến cho tôi đă quyết định bỏ một bài viết dài tới hơn 18 trang, mà nếu tôi dại dột đưa lên các diễn đàn, là tôi đă tự khai hết lư lịch của ḿnh; bởi thủ đoạn của Trần Hùng Văn, là một “Cựu đảng-viên cao-cấp Cộng-Sản Việt-Nam”.

 

2- Tôi không bao giờ thua trí trước Trần Hùng Văn:

Không! Tôi, Hàn Giang Trần Lệ Tuyền, không đời nào tôi phải chịu thua trí trước một tay thầy bói Trần Hùng Văn; bởi tôi được sinh trưởng, được sự giáo dục dưới mái học đường và gia đ́nh tại Nước Việt Nam Cộng Ḥa, từng một thời phục vụ tại C1 Lực Lượng Đặc Biệt, KBC 3425, và đă hai lần thành công trong công tác đặc biệt, để “lấy khẩu cung như không khẩu cung” một cách dễ dàng, từ hai “Sĩ quan cao cấp” của “bộ đội chính quy” Bắc Việt, khi hai người này bị thương rất nặng, bị bỏ lại trong rừng, vết thương có ḍi ḅ lúc nhúc, đă được quân đội Hoa Kỳ cứu, đưa lên trực thăng đem về Bệnh viện Mỹ, tại Chu Lai để cứu chữa. Nhưng hai tên này, quyết không mở miệng, cho dù trước đó, một đàn chị của tôi đă “trổ tài” nhưng không có kết quả. Nên sau đó, qua tài “hóa trang” của một “đàn chị”; tôi, trong trong vai “một đứa con gái nghèo khổ, con của một người đàn bà ở đợ cho một gia đ́nh giàu có người Bắc, đă đưa hai mẹ con di cư vào Nam, đang sống đói rách, đau khổ”; với trên tay là một chiếc giỏ cói đă rách, tôi “đi t́m thăm thân nhân” tại bệnh viện Hoa Kỳ, tại Chu Lai.

Tưởng cũng nên nhắc lại, bệnh viện Mỹ tại Chu Lai, ở đấy,  từ các bác sĩ và y tá đều là người Mỹ, c̣n người Việt chỉ làm công việc bồi pḥng, nấu ăn, và bưng cơm nước cho bệnh nhân, chứ không được sờ tay vào bệnh nhân.

Bệnh viện này, đă cứu chữa cho tất cả mọi người không phân biệt Quốc Gia hay Cộng sản, kể cả những cán binh, du kích Cộng sản bị thương nặng, bị bỏ rơi trong rừng, và thân nhân của họ cũng được vào thăm vào ban ngày; không được ôm hay đặt tay vào người thân.

Trở lại với hai “sĩ quan cao cấp” của “quân chính quy” Bắc Việt. Thời gian đầu, v́ tin những lời tuyên truyền của Cộng sản Hà Nội rằng: “Khi bị bắt khai cũng chết, không khai cũng chết”, nên hai người này không chịu mở miệng. Nhưng sau khi đă gặp tôi, th́ họ đă mở miệng, đă “khai như không khai”; nhờ thế, mà phía Hoa Kỳ đă biết nhiều bí mật. Một thời gian sau, hai người này đă chính thức xin Hồi Chánh, và đă được Hoa Kỳ tưởng thưởng…

Đó là những người Cộng sản đă tỉnh ngộ, khi thật sự trở về với Chính-Nghĩa Quốc-Gia Dân-Tộc. C̣nTrần Hùng Văn là một tay thầy bói dưới chế độ Cộng sản Bắc Việt, nhưng  đă được đảng Cộng sản Hà Nội dành cho nhiều ưu đăi đặc biệt như nhà báo Thế Huy đă viết qua bài: “Việt Thường, ông là ai?” như sau:

“… Không những thế, ngay sau 30/4/1975, Việt Thường được gửi vào Sàigon để quan-sát, nghiên-cứu hầu đưa ra các nhận-định về VNCH. Điều đó có nghĩa là VC không tin-tưởng vào những tay sừng-sỏ trong ngành điệp-báo của họ nằm trong các cơ-quan đầu năo của VNCH và trong mọi ngành-nghề khác suốt mấy chục năm và… nghi-ngờ cả những báo-cáo của Trung-Ương Cục CS Miền Nam trong suốt cuộc chiến xâm-lược của chúng, nên chúng phải gửi Việt Thường vào Sàig̣n để nhận định thêm. “Điều này chỉ đúng nếu Việt Thường là Cố-Vấn Tối-Cao của Bộ-Chính-Trị/TƯĐCSVN”. (ngưng trích)

Tuy nhiên, suốt trong thời gian qua, Trần Hùng Văn đă lấy những ư kiến trên các diễn đàn, và những ǵ do ông Lê Xuân Nhuận viết ra, không cần biết đúng, sai, miễn là có lợi cho Trần Hùng Văn là y cứ lải nhải, nhai đi, nhai lại, cũng như đă bịa đặt ra vô số những chuyện trên trời, dưới đất với mục đích là để bôi nhọ danh dự của người khác, không phải riêng tôi, mà Trần Hùng Văn đă bịa đặt ra những điều không hề có, để bôi nhọ rất nhiều người trong cộng đồng người Việt từ quốc nội và hải ngoại, để ly gián giữa những người Việt Quốc Gia yêu nước chân chính và chống Cộng thực sự.

 

3- Trần Đăng Sơn không phải là “Trung tá t́nh báo an ninh VGCS”:

Riêng với tôi, Trần Hùng Văn đă nói về một người là “Trần Đăng Sơn Trung tá t́nh báo an ninh VGCS và Trần Lệ Tuyền ở Liên Khu 5” của Việt cộng; (chỉ nội cái gọi là “t́nh báo an ninh” đă là rất ngu rồi). Trần Hùng Văn cũng bịa chuyện đời tư rằng tôi “có chồng bị liệt”.

 Những điều trên đây, tôi không muốn trả lời cho Trần Hùng Văn, mà mục đích của tôi, là tôi xin thưa cùng với quư vị trong cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng sản tại hải ngoại, cũng như quư độc giả tại quốc nội rằng:

Trước ngày 30/4/1975, tôi sống tại Thành phố Đà Nẵng, th́ không riêng tôi, mà người dân Quảng Nam-Đà Nẵng đa số có nghe nói về Trần Đăng Sơn (TĐS), nhưng tôi không hề gặp mặt TĐS,  mà tôi chỉ gặp TĐS lần đầu tiên, vào mùa Hè năm 1984, lúc ấy, TĐS đang bị bệnh nặng, phải chống gậy tại bệnh xá của nhà tù T.154, tức “trại cải tạo” Tiên Lănh, Tiên Phước, Quảng Nam.  Đây là lần đầu tiên tôi thấy mặt TĐS trong nhà tù, nhưng không chào hỏi ǵ cả. Tuy vậy, nhưng qua nhiều vị  trong trại nam, tôi được biết, lúc ấy, đă gần mười năm ở trong nhà tù, TĐS không có một ai là thân nhân đi thăm nuôi cả. Do vậy, nên rất thiếu thốn, rồi bệnh tật không có thuốc men.

Trước hoàn cảnh ấy, tôi đă xin Công an trại gửi cho TĐS ít quà thăm nuôi, nhưng qua “trật tự” của trại, chứ tôi không gặp mặt TĐS lần thứ hai trong nhà tù “cải tạo”. Nhắc lại chuyện này, tôi nhớ đến Người Mẹ của của tôi, Mẹ rất thương tôi, đứa con gái c̣n trẻ, c̣n độc thân mà phải chịu cảnh ở tù, nên Mẹ thường xuyên lên trại thăm nuôi. V́ thế, mỗi khi thấy người đồng tù thiếu thốn, tôi đều muốn giúp đỡ, những điều này, tôi không bao giờ nhắc lại, nhưng nhiều vị cựu tù “cải tạo” có lẽ c̣n nhớ.

Tôi biết trước 30/4/1975, Trần Đăng Sơn là Chủ tịch Việt Nam Quốc Dân Đảng miền Trung dưới sự lănh đạo của cụ Vũ Hồng Khanh. TĐS tuổi Đinh Sửu, 1937, không thể có mặt tại “Liên Khu 5” của Việt cộng, v́ lúc đó chỉ trên dưới 10 (mười) tuổi, Trần Đăng Sơn không ra chiến khu của Việt cộng, không phải là “Trung tá của VGCS” nên không có cái chuyện “chiêu hồi”; cũng không là “Trung tá, phó ty Công an Đà Nẵng”. Mà TĐS cũng phải vào tù như quư vị Cựu Tù Nhân Chính Trị Quảng Nam-Đà Nẵng đă biết. Và TĐS và tôi không hề “đi với Hoàng Duy Hùng sang Thái Lan...” như Trần Hùng Văn đă nói Láo.

Riêng ông Lê Xuân Nhuận đă từng viết hai bài:

“Ông Ngô Đ́nh Diệm có một t́nh nhân - Ông Ngô Đ́nh Diệm có một đứa con rơi”.

Hai câu chuyện mà ông Lê Xuân Nhuận đă viết cũng như chính Trần Hùng Văn đă viết về Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, mà chúng tôi sẽ có loạt bài viết khác.

Về phần tôi, cái gọi là “Liên Khu 5” của Việt cộng, tôi không biết rơ lắm, nhưng nghe nhiều người nói, là đă có vào thời điểm khoảng 1946 – 1947,  lúc ấy, Cha tôi chưa gặp Mẹ tôi, chưa cưới Mẹ của tôi. Nghĩa là tôi chưa được sinh ra đời. Vậy, muốn bịa đặt, dựng chuyện láo, th́ phải biết khôn một chút nghe chưa, Trần Hùng Văn.

 

4- Cấp bậc Trung tá của Trần Đăng Sơn:

Về cái “cấp bậc Trung tá” của Trần Đăng Sơn, là do cựu tướng Nguyễn Cao Kỳ gắn “lon” cho trong Chiến Dịch Hành Quân Đinh Bộ Lĩnh, trong cuộc bạo loạn Bàn thờ Phật xuống đường tại miền Trung vào mùa Hè, 1966. Với “cấp bậc” là “Trung tá Giả Định Dân Sự Đặc Biệt”. Nghĩa là TĐS không phải là Trung tá thực thụ, mà chỉ là “Giả Định” dành cho “Dân Sự Đặc Biệt”. Những người được chính phủ “gắn lon “Sĩ quan Giả Định Dân Sự Đặc Biệt” là những người không ở trong quân đội, họ có thể là những người ngoài hạn tuổi Quân Dịch , hoặc được cấp giấy Miễn Dịch, v́ lư do con một, hay v́ sức khỏe. Những người này, họ có thể nằm trong các tổ chức đảng phái chính trị, hoặc các tổ chức khác. Thế nhưng, trong một Chiến Dịch nào đó, nếu họ có thực lực, v́ xét thấy cần họ tiếp tay, th́ chính phủ gắn lon cho họ, để họ được chỉ huy một đơn vị nào đó, để văn hồi an ninh trên những vùng đất đă bị chiếm một cách bất hợp pháp.

Và những “cấp bậc Trung tá Giả Định Dân Sự Đặc Biệt”, chỉ có giá trị trong một thời gian ngắn, có thể từ một tuần tới sáu tháng; sau khi Chiến Dịch ấy hoàn tất, th́ những người này đều trở về với đời sống dân sự của ḿnh, trừ những “Sĩ Quan Giả Định” khác (không có thêm bốn chữ “Dân Sự Đặc Biệt”, các vị ấy là những Sĩ quan thực thụ, ở cấp thấp hơn, nhưng v́ khả năng chuyên môn, nên chính phủ phải “thăng cấp”  là “Sĩ quan Giả Định” để làm “giáo sư” ở các trường mà sinh viên lại mang cấp bậc ngang bằng với giáo sư, đây là một vấn đề tế nhị thôi.

 

Tuy nhiên, sau ngày 30/4/1975, đảng Cộng sản Hà Nội đă bỏ tù những “Sĩ quan Giả Định Dân Sự Đặc Biệt” này, như các vị Sĩ quan thực thụ. Riêng TĐS, đă bị Việt cộng bỏ tù v́ cả hai “tội”: VNQD Đ và cái “Trung tá Giả Định Dân Sự Đặc Biệt”. Bởi v́, tại Quảng Nam-Đà Nẵng, đa số dân-quân VNCH,  đă thấy Trần Đăng Sơn đeo lon Trung tá QLVNCH trước mặt mọi người trong Chiến Dịch Hành Quân Đinh Bộ Lĩnh, mùa Hè 1966.

 Nhưng theo tôi, những chuyện này, ngay tại miền Nam: Việt Nam Cộng Ḥa cũng ít người hiểu biết về cái “Trung tá Giả Định Dân Sự Đặc Biệt” là cái ǵ, nên có nói với Trần Hùng Văn, một “cựu Đảng viên cao cấp đảng Cộng sản Việt Nam” ở miền Bắc; Và sau ngày 30/4/1975, mới vào Sài G̣n theo chỉ thị của đảng Cộng sản Hà Nội, th́ cũng như nói với củ khoai mà thôi.

 

5- Trần Hùng Văn đă vu khống, chụp mũ chúng tôi về vụ án ông Trần Văn Bá:

Trần Hùng Văn đă tuyên truyền, xuyên tạc là “năm 1979, TĐS và LT đă được VGCS cho sang Pháp, để xâm nhập vào tổ chức của ông Trần Văn Bá, để gián tiếp giết chết ông Trần Văn Bá”.

Về vụ án ông Trần Văn Bá, th́ năm 1979 Trần Đăng Sơn c̣n ở trong nhà biệt giam 2.79, tức nhà biệt giam Đồng Mộ, thuộc “cải tạo” Tiên Lănh, như chính ông Lê Xuân Nhuận đă gặp và đă viết.

Tại nhà Biệt giam Đồng Mộ, TĐS đă ở một pḥng giam gồm có năm vị như:  Linh mục Vũ Dần, hiện đang quản nhiệm Giáo xứ Phú Thượng, Đà Nẵng, Linh mục Tống Kiên Hùng, Mục sư Dương Đ́nh Nguyện và Tr/ tá Nguyễn Tối Lạc, cả ba vị này đang có mặt tại Hoa Kỳ.

 Ông Lê Xuân Nhuận cũng có viết một phần nhỏ của sự thật, là vào năm 1979, ông đă chứng kiến Trần Đăng Sơn bị bệnh rất nặng; nhưng ông không ở chung pḥng với TĐS trong nhà Biệt giam Đồng Mộ. Ông Lê Xuân Nhuận viết đúng điều này. Đó là, TĐS bị bệnh rất nặng trong nhà biệt giam Đồng Mộ. Do vậy, trong một lần tưởng TĐS phải chết, nên Linh mục Tống Kiên Hùng, Linh mục Vũ Dần và Mục sư Dương Đ́nh Nguyện đă cùng cầu nguyện cho TĐS; và chính trong lần ấy, Linh mục Vũ Dần đă dùng ca nước uống của người tù, để rửa tội cho Trần Đăng Sơn “trước giờ lâm tử”. Nhưng sau khi rửa tội, th́ TĐS bất ngờ hồi tỉnh, và sống cho tới ngày hôm nay!

 Và sau khi ra khỏi nhà biệt giam Đồng Mộ, TĐS đă ở trong Biệt giam “Nhà Trắng” (v́ nhà sơn toàn màu trắng), rồi TĐS về Trại 1 (trại chính”. Tại trại 1, TĐS đă ở Nhà 8, cùng với nhiều vị tù mà tôi vẫn c̣n nhớ tên, với Tr/ tá Nguyễn Văn Chước làm Nhà trưởng).

  Phần tôi cũng vậy, năm 1979, tôi vẫn c̣n ở trong nhà tù này, mà quư vị Cựu Tù Nhân Chính Trị Quảng Nam – Đà Nẵng đă biết.

  

6- Chuyện sống chung giữa tôi và Trần Đăng Sơn:

Tôi và TĐS đều được ra tù vào cuối tháng 10 năm 1985. Đầu năm 1986, tôi gặp TĐS lần thứ hai, kể cả lần thứ nhất tại  bệnh xá của nhà tù “cải tạo”. Thời gian này, TĐS đang ăn ở nhờ trong nhà của một người em kết nghĩa từ trước 30/4/1975. Thấy hoàn cảnh của TĐS quá bi đát, tôi động ḷng thương và đă đưa TĐS về nhà của Mẹ tôi. Ban đầu Mẹ tôi không nói ǵ, nhưng sau một thời gian ngắn, v́ thấy TĐS không hề chịu làm một công việc ǵ cả. Đó cũng là lư do Mẹ tôi nói với tôi một cách quyết liệt không cho tôi sống chung với TĐS rằng:

“Nếu con muốn sống với thằng nào, th́ ít ra nó cũng có cái nhà rách, cũng giúp cho con một chén cơm, đàng này chính bản thân của nó, nó cũng không tự lo được, phải sống bám vào mẹ con của ḿnh, th́ tương lai của con sẽ ra sao?”

Sau đó, Mẹ tôi đă đuổi tôi ra khỏi nhà, nhưng TĐS lại nói với tôi: “Bây giờ không biết đi đâu!” Tôi lại động ḷng thương xót, nên tôi đă lấy chiếc xe đạp của Mẹ tôi cùng với vốn liếng gồm một sợi dây chuyền vàng, nhẫn vàng, đồng hồ do Mẹ tôi cho, rồi bỏ nhà ra Đà Nẵng, thuê nhà tạm trú, rồi mua cây, gỗ cất lên một căn nhà nhỏ để ở, bắt đầu từ làm nghề may, mua bán áo quần, sau đó, tôi mua bán thuốc Tây.

 Tôi trở lại Đà Nẵng và Trà Kiệu lần này, tôi đă đến thăm Linh mục Lê Như Hảo, là Nghĩa Huynh của tôi, v́ tôi đă được Thân Phụ và Thân Mẫu của Minh mục Lê Như Hảo là Cụ Ông Lê Như Hà và Cụ Bà Trần Thị Thanh Thu nhận làm Nghĩa Tử, để nhân dịp này, tôi xin ư kiến về trường hợp Mẹ tôi không cho phép tôi sống chung với TĐS, th́ được Cha Lê Như Hảo bảo rằng:

“Cha thấy, nếu chỉ v́ một lư do duy nhất, là TĐS nghèo, th́ chưa đủ để mẹ của con làm như thế”.

 Và tôi cũng thấy TĐS nghèo, không là trở ngại, nhưng không thể kết hôn, khi không có sự đồng ư của Mẹ tôi, nên tôi đă SỐNG CHUNG với Trần Đăng Sơn, KHÔNG CHỊU PHÉP HÔN PHỐI – KHÔNG CÓ KẾT HÔN.

Chuyện sống chung giữa tôi và TĐS, Bác sĩ Phùng Văn Hạnh đă có viết qua, trong Hồi Kư của Ông.

 

7- Tôi đă rời Việt Nam như thế nào:

Tháng Chín năm 1986, tôi sinh đứa con gái lớn tại Đà Nẵng. Đến năm 1987, tôi được bà Nguyễn Thị Bé, là chủ một chiếc thuyền đánh cá (loại nhỏ), ngỏ ư muốn đưa cả gia đ́nh đi vượt biển, nhưng gia đ́nh này không biết làm cách nào để ra đi, và v́ tin tưởng vào tôi, nên bà đă giao tôi cho công việc tổ chức cho chuyến vượt biển.

Tưởng cũng nên nói cho rơ, trước đó, người con trai của bà Bé, là tài công của chiếc thuyển đă nhiều lần đến nhà của Trung úy Cảnh sát Chung Phước Thành, là người mới ra khỏi nhà tù “cải tạo” của Việt cộng,  để “rủ” đi vượt biển; nhưng ông Chung Phước Thành không chấp nhận. V́ thế, bà Bé và người con trai đă phải nói với tôi, nhờ tôi tới nhà của ông Chung Phước Thành để nói chuyện vượt biển. Tôi đống ư.

 Một điều mà mẹ con bà Bé, không thể ngờ, là ngay lần đầu tiên, khi con trai bà Bé đưa tôi đến nhà của Trung úy Chung Phước Thành, th́ đă được ông Chung Phước Thành đă nói với tôi như sau:

“Chính chị nói, th́ tôi mới tin, v́ nói thiệt tôi rất sợ bị lừa gạt, bị mất vàng, mà có khi không những phải chỉ mất vàng, mà c̣n phải ở tù thêm lần nữa”.

 Sau đó, ông bà Chung Phước Thành đồng ư góp vàng, và cùng đi với chúng tôi, và c̣n mời tôi cùng ăn một bữa cơm trưa thân mật, để nhớ lại những ngày ở tù “cải tạo” của chế độ Cộng sản.

Cũng xin nói thêm, ngoài tôi, không một ai trên chuyến vượt biển này, có thể nói chuyện với ông Chung Phước Thành tin tưởng được. Mà không có ông bà Chung Phước Thành góp vàng, th́ chúng tôi không thể ra đi, bởi chúng tôi không đủ vàng để tổ chức cho chuyến vượt biển. Về phần bà chủ chiếc thuyền đánh cá, ngoài chiếc thuyền nhỏ, bà rất nghèo, bà chỉ có một chiếc sạp bán ít món hàng vặt ngoài chợ, nhưng không có nhà ở, nên năm mẹ con của bà phải đi ngủ nhờ khắp xóm, có đêm ngủ nhờ trong nhà của tôi, nên khi mẹ con bà nói tới chuyện vượt biển, th́ ông Chung Phước Thành không tin. C̣n TĐS,  th́ càng tệ hơn, v́ ai cũng viết phải sống nhờ vào tôi, th́ làm sao dám tới nhà của ông Chung Phước Thành để nói chuyện góp vàng vượt biển.

Trở lại với chuyến vượt biển. Nhân ngày “Tết Đoan Ngọ”,  Mồng 5 tháng 5/1987, chúng tôi gồm có 18 (mười tám) người, trong đó, có gia đ́nh bà chủ thuyền, gia đ́nh của ông Chung Phước Thành và người bạn của ông, là ông Nguyễn Văn B́nh cũng là Tr/úy Cảnh sát mới ra tù “cải tạo” đă cùng nhau đóng góp vàng lại, để lo chu toàn mọi việc, và chúng tôi đă rời Việt Nam trên chiếc thuyền mang số 2324, vào lúc 11 giờ đêm, để vượt biển t́m tự do. Sau 21 ngày thuyền chết máy, trôi vô định trên đại dương, th́ được tầu của cảnh sát Ma-Cao cứu vớt và kéo đến Hong Kong. Chúng tôi 18 người đă nhập trại CHIMAWAN CLOSED CENTE, Hong Kong vào ngày 29 tháng Sáu năm 1987.

 

8- Trần Đăng Sơn và tôi đă THUẬN T̀NH chia tay:

Xin trở lại câu chuyện giữa tôi vàTĐS. Trong suốt thời gian SỐNG CHUNG, riêng tôi đă hết sức cố gắng để có thể ḥa hợp với nhau, hầu mong cho cuộc sống chung được lâu dài. Nhưng, tiếc rằng, mọi cố gắng của tôi đều không có kết quả. V́ thế, chúng tôi THUẬN T̀NH CHIA TAY. Và cho đến hôm nay, mặc dù, tôi không gặp lại TĐS, nhưng tôi biết một cách chắc chắn là hiện giờ, TĐS vẫn b́nh thường, chứ không có cái chuyện “TĐS lớn hơn Lệ Tuyền tới 30 (ba mươi) tuổi, (có nghĩa là nay đă gần một trăm tuổi) và cũng không “bị liệt” như Trần Hùng Văn đă bịa đặt ra, với mục đích bôi nhọ tôi, là “v́ bị liệt nên HGTLT mới đi t́m người khác”.

 

9- Những liên quan với Việt Nam Quốc Dân Đảng:

Trở lại với những chuyện có liên quan tới VNQDĐ, sau khi đến tỵ nạn Cộng sản tại Pháp, tôi đă nhận được rất nhiều những lá thư của nhiều vị, trong số đó, có hai vị trước ngày 30/4/1975, từng là Phó chủ tịch Trung ương VNQDĐ, do cụ Vũ Hồng Khanh lănh đạo. Cũng có nhiều vị từ Úc Châu, Âu Châu đă gặp mặt, hoặc đến nhà thăm. Trong số ấy, có cụ Nguyễn Văn B́nh ở Đức quốc, là thân phụ của của chị Ngọc Minh, tức chị Hồng Hạnh. Cụ Nguyễn Văn B́nh là đảng viên VNQDĐ thuộc “Xứ bộ miền Bắc” do Luật sư Lê Ngọc Chấn lănh đạo (L/s Lê Ngọc Chấn là phu quân của Nữ sĩ Vân Nương đang tỵ nạn Cộng sản tại Pháp).Tôi vẫn c̣n giữ tất cả những ǵ do cụ Nguyễn Văn B́nh đă gửi cho tôi, theo đề nghị của ông Hoàng Công Chữ…

 

(c̣n tiếp)

 

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

Trả lời Trần Hùng Văn, tức Việt Thường

 

- Bài 2 -

 

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

 

 

Như đă thưa cùng quư độc giả qua bài: Trả lời Trần Hùng Văn, tức Việt Thường (Bài 1): đáng lẽ ra tôi không cần trả lời cho Trần Hùng Văn; bởi v́ trước 30/4/1975, Trần Hùng Văn ở một nước Cộng sản “Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa”. C̣n tôi, được sinh trưởng tại nước Việt Nam Cộng Ḥa, tôi không hề biết mặt của Trần Hùng Văn.

Thế nhưng, mặc dù bằng chữ nhẫn, suốt ba năm qua tôi đă im lặng; nhưng càng  ngày Trần Hùng Văn  càng bịa đặt thêm những câu chuyện mà không hề dính dáng với tôi, kể cả chuyện đời tư, để bêu riếu, bôi nhọ chúng tôi. V́ thế, buộc ḷng tôi phải viết lên những chuyện riêng tư của ḿnh, với mục đích chính, là để cho quư độc giả biết về những hành vi của Trần Hùng Văn, tức Việt Thường. Và như đă thưa cùng quư vị: chúng tôi chỉ lên tiếng một lần, chỉ một lần thôi, rồi sẽ không bao giờ trả lời Trần Hùng Văn nữa.

Và sau bài viết đầu tiên (Bài 1), th́ riêng tôi đă nhận được nhiều email của quư vị cao niên, trong số đó, có vị là Cựu Tù Nhân Chính Trị Quảng Nam -  Đà Nẵng, có vị đă khiến cho tôi vô cùng cảm động  khi viết những ḍng này. Xin phép anh HN  để trích một đoạn ngắn như sau:

 “…Tôi đọc bài viết của chị “Trả lời Trần Hùng Văn”  mà nghe lòng mình bồi hồi nhớ lại những năm tháng trong nhà tù CS. Những điều chị viết qủa thực từ trái tim mình, những giọt máu khổ đau đã rỉ ra qua ngòi bút. Như chị đã viết “chỉ một lần nầy rồi thôi”. Vâng, một lần là đủ rồi chị ạ…”

 Kính thưa quư vị,

Khi phải viết ra một phần nhỏ của những đau thương ngăy cũ, mà quư vị đă biết, là những vết thương không bao giờ nguyên lành được, làm sao tôi không nhớ, không đau xót, v́ tôi không bao giờ quên những cảnh ngộ mà tôi phải gánh chịu trong suốt những tháng năm dài ấy! Nhưng tôi tự thấy là một việc phải làm, buộc ḷng phải làm. Chúng tôi xin ghi nhận lời của anh HN viết:

“… Những điều chị viết qủa thực từ trái tim mình, những giọt máu khổ đau đã rỉ ra qua ngòi bút. Như chị đã viết chỉ một lần nầy rồi thôi. Vâng, một lần là đủ rồi chị ạ…”

Vâng! Thưa anh HN,  xin chân thành cám ơn anh: chỉ “một lần là đủ”. Tôi sẽ không bao giờ viết nữa, để cho quá khứ trôi vào quên lăng!

 Những ngày tháng cơ cực trước khi rời đất nước:

Rời căn nhà của gia đ́nh, khi mới ra khỏi tù “cải tạo”, bước đầu tiên, là tôi phải làm nghề may thuê, tới buôn bán áo quần (cũ nhiều hơn mới) ở chợ trời, Đà Nẵng. Sau cùng, được người bạn gái cũ, có gia đ́nh bên chồng ở ngoại quốc, thường hay gửi thuốc Tây về cho cô bán. V́ thông cảm với cảnh ngộ của tôi, nên cô bạn đă giúp đỡ bằng cánh mỗi ngày cho tôi lấy thuốc Tây của cô đi bán, nếu thiếu tiền, th́ sau khi bán mới trả lại tiền vốn.

 

Kể từ đó, tôi mới có đủ tiền để mua cây gỗ, tranh để cất nhà ở. Sau khi có nhà rồi, tôi bán thuốc Tây tại nhà, cho đến khi được bà Bé giao cho những việc phải làm để được cùng đi vượt biển như: tôi phải lo lương thực, đủ loại huốc Tây, dầu, nước, hải bàn và phụ tùng máy cho chiếc thuyền. Và tôi đă lo hết những việc này.

Nhắc lại những điều này, nhân đây, tôi xin phép quư độc giả để được nói riêng với người D́ của tôi, đang c̣n ở tại Việt Nam:

 Con xin thành kính cám ơn D́. D́ là người đă giúp đỡ cho con mượn vàng, để đóng góp vào chuyến đi. Giờ đây, D́ c̣n ở lại quê nhà. Xin D́ hăy nhận nơi đây với những lời tâm thành này: Con không bao giờ quên ơn của D́ và em Thanh Hương.

 

Người thứ hai, tôi muốn nhắc đến, là ông bà Chung Phước Thành. Tôi xin cám ơn về sự tin tưởng vào tôi của ông bà, nên ông bà đă đồng ư góp một số vàng lớn hơn hết vào chuyến vượt biển. Ngoài ra, tôi không bao giờ quên lời của ông Chung Phước Thành đă nói trước mặt con trai bà chủ thuyền:

 

“Tôi nói trước với anh, là nếu xuống bến mà không có chị Tuyền, là gia đ́nh tôi không lên tầu đâu”.

 

Tôi hiểu được, sở dĩ, ông Chung Phước Thành nói câu ấy; bởi v́ ông ngại bị lừa, sợ chủ thuyền chỉ nhờ tôi nói chuyện với ông bà xong, th́ sẽ t́m cách bỏ tôi ở lại, rồi thay thế những người thân của họ, để thâu thêm vàng bỏ túi riêng.

 

Nhưng tôi biết chắc bà chủ thuyền không làm điều đó được, dù bà ấy rất muốn như vậy. Bởi tất cả những thứ cần thiết như thuốc Tây, phụ tùng máy tầu, tôi đều giữ trong xách riêng của tôi, tôi chỉ trao cho tài công khi đă lên thuyền. Mặt khác, tôi và ông bà Chung Phước Thành  đă giao kết với bà chủ thuyền: chỉ sau khi chúng tôi tới Hong Kong an toàn rồi, th́ ở nhà người thân của ông Chung Phước Thành mới giao số vàng ấy cho những người ở lại… chứ không đưa vàng cho mẹ con bà chủ thuyền.

 

Trở lại những tháng ngày cơ cực, buôn bán chợ trời của năm xưa, tôi bỗng nhớ lại những lời thơ của nhà văn kỳ cựu Hoàng Hải Thủy đă “tả cảnh” của một trong những chợ trời như  những ḍng dưới đây:

 

“Xem đồ ta, ngắm đồ người cho vui

T́m vui chỉ thấy ngậm ngùi

Vỉa hè này những khóc cười bầy ra

Lạc loài áo gấm, quần hoa

Này trong khuê các, sao mà đến đây?!”

 

V́ sao tôi không xin tỵ nạn Cộng sản tại Hoa Kỳ:

Nhân đây, tôi cũng xin tŕnh bày cùng quư vị những nguyên nhân đă khiến tôi phải từ chối không xin tỵ nạn Cộng sản tại  Hoa Kỳ, đó cũng là một quyết định đă làm cho tôi không được sống gần những người thân của ḿnh!

Và đây là nguyên do đă khiến cho tôi phải quyết định như vậy:

Cách đây 27 (hai mươi bảy) năm, trước khi rời Quê Hương, tôi đă v́ ḷng thương người (không đúng chỗ), khi TĐS thú thật với tôi là ông ấy có đứa con gái riêng, trong thời gian sống chung với một người đàn bà, không hôn thú; và ông ta đă đưa đứa con gái ấy đến gặp tôi.

Và chỉ trong lần đầu tiên gặp mặt, tôi đă động ḷng thương một cô gái 19 tuổi, với đôi tay khô gầy, nhăn nheo, gân guốc, v́ nghèo, nên hàng ngày phải đi bán mắm, cá. Tôi thương cho đôi bàn tay con gái, v́ tôi thấy ngay đôi tay của ḿnh đă từng lao động cực nhọc, cấy, gặt, đốn củi… trong nhà tù “cải tạo” của Việt cộng, nhưng vẫn không hề giống như bàn tay của cô gái này. V́ thế, tôi đă nhận cô ta làm con nuôi, và đồng ư cho cô ta đi theo trong chuyến vượt biển này, để mong cho cô thoát khỏi cảnh nghèo.

 

Nhưng cổ nhân đă dạy:

“Dưỡng vật, vật đền ơn; Dưỡng nhơn, nhơn báo oán”.

 

Quả đúng như vậy, v́ những ngày tháng trước khi vượt biển, tôi đă chấp nhận cho cô ta tới nhà, ăn uống xong rồi đi chơi, c̣n chén bát tôi phải tự dọn rửa. Nhưng chưa đủ, những người thân của cô ta đă lợi dùng ḷng thương người dại dột của tôi, để chẳng những đă ăn bám vào tôi, mà c̣n kéo đôi ba người đến một cái quán ăn ở chợ Hàn, để cùng nhau ăn, ăn xong, họ không trả tiền, rồi  bảo bà chủ quán: “bà hăy ghi tên của cô Tuyền vào sổ nợ, th́ cô Tuyền sẽ trả tiền”.

Sau nhiều lần, tôi phải bỏ tiền túi ra để trả tiền “ăn chịu” cho những người này, nên tôi phải nói cho bà chủ quán biết, là tôi không thể trả được những số tiền ăn như vậy, và yêu cầu bà không cho họ ghi tên “ăn chịu” như thế nữa.

Phần cô gái mà tôi đă nhận làm con nuôi, khi đến nhập trại Hong Kong, từ lúc đầu cho tới khi tiếp kiến Lănh Sự và Phái đoàn Hoa Kỳ, tôi đều cho phép cô ở chung với tư cách là con trong gia đ́nh của tôi, để cùng sang tỵ nạn Cộng sản tại Hoa Kỳ.

Thế nhưng, tôi không lường trước được ḷng dạ tệ bạc, vong ân, bội nghĩa của cô gái kia. Đó là sau khi chúng tôi được Lănh Sự và Phái đoàn Hoa Kỳ chấp thuận cho sang Hoa Kỳ, th́ bất ngờ, cô gái kia đă lên văn pḥng Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc tại Hong Kong và nói rằng:

 “Tôi không có liên hệ ǵ với bà Trần Lệ Tuyền, tôi chỉ đi chung với bà một thuyền. Tôi là con ruột của ông Trần đăng Sơn, c̣n mẹ tôi c̣n ở Việt Nam, xin cho tôi khai lại”.

Sau đó, Văn Pḥng Cao Ủy Tỵ Nạn đă gọi tôi lên, và trao cho tôi những lời khai của cô ta. Và sau khi đọc xong, tôi đă tŕnh bày với Văn pḥng Cao Ủy Tỵ Nạn rằng: Đúng như vậy, cô ta không phải là con của tôi, mà tôi chỉ nhận cô ta làm con nuôi thôi. Nhưng cô ta nhất định không chịu, mà cô đ̣i Văn Pḥng cao Ủy Tỵ Nạn rằng: “phải tách riêng cho tôi và ba tôi là ông TĐS thành  một gia đ́nh riêng”.

Thấy sự đ̣i hỏi của cô ta như vậy, nên văn Pḥng cao Ủy Tỵ Nạn đă cho cô ta một thời gian trong ṿng sáu tháng phải gửi thư về Việt Nam, bảo mẹ cô phải gửi sang cho một tờ hôn thú của cha mẹ cô và một giấy khai sinh của cô có ghi tên cha là Trần đăng Sơn, để họ giải quyết.

Nhưng qua sáu tháng, qua nhiều lần gửi thư về Việt Nam, nhưng gia đ́nh của cô ta vẫn không làm sao có được một tờ hôn thú và giấy khai sinh như  yêu cầu của Văn Pḥng Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc. V́ thế, họ đă quyết định cho tách cô ta ra khỏi hồ sơ định cự tại Mỹ của gia đ́nh của tôi.

Đến nước này, th́ cô ta mới biết là đă làm sai, nên cô ta đă nhờ Văn Pḥng Cao Ủy Tỵ Nạn giúp đỡ, bằng cách nói với tôi cho phép cô được trở lại làm con nuôi của tôi, để được cùng lên đường sang Hoa Kỳ. Và văn Pḥng Cao Ủy Tỵ Nạn cũng đă khuyên với tôi là cũng nên làm như vậy, để khỏi phải làm lại hồ sơ, để sớm đi định cư tại Mỹ. Nhưng tôi đă từ chối, và yêu cầu Văn Pḥng Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc tại Hong Kong hăy chuyển hồ sơ của tôi sang Lănh Sự Pháp tại Hong Kong. V́ vào thời điểm ấy, ở Hong Kong, bất kể người nào, nếu muốn ghi tên xin tỵ nạn Cộng sản tại Pháp, đều rất dễ dàng và nhanh chóng. Khi nghe tôi tŕnh bày như vậy, th́ Văn Pḥng Cao Ủy Tỵ Nạn đă yêu cầu tôi như sau:

“Nếu bà muốn từ chối không đi Mỹ, và chuyển hồ sơ đi Pháp, th́ bà phải viết một lá thư xin từ chối đi Mỹ, để sau này khi ra nước ngoài bà không được kiện chúng tôi là không chuyển hồ sơ của bà sang Mỹ, v́ diện của bà là diện sang Mỹ”.

Khi nghe Cao ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc nói như vậy, tôi không hề ngần ngại, mà liền viết một lá thư từ chối đi Mỹ, và xin chuyển hồ sơ của tôi sang Lănh sự Pháp. Sở dĩ tôi phải làm như vậy, là để không bao giờ gặp lại cô ta nữa.

Và sau khi quyết định đi Pháp, th́ có nhiều vị trong trại tỵ nạn như trung úy Lê Văn Trị, Trung úy Trần Đức Tâm, ông Hồ Châu, ông Hồ Văn Ngộ (là cha của hai cô Thu và cô Thi trong vụ án Thích Chánh Lạc sau này) đă rất buồn, v́ muốn tôi cùng đi Mỹ với họ, nên đă khuyên can tôi đổi ư. Tôi rất quư quư vị ấy, cũng như rất buồn; nhưng tôi đành phải phải sống xa các vị, và sống xa cả những người thân của ḿnh hiện đang có mặt tại Hoa Kỳ, nhưng tánh tôi sắt đá trong việc phân minh giữa người hiền và kẻ dữ, nên không bao giờ thay đổi quyết định của ḿnh.

Thế là, chỉ một thời gian ngắn, khi xin tỵ nạn Cộng sản tại Pháp, sau khi được tiếp kiến, th́ Phái Đoàn Pháp đă chấp nhận. Và tôi lên đường sang Pháp. Đặt chân đến Pháp quốc, tôi bắt đầu bằng nghề cắt may áo dài cho phụ nữ Việt, rồi mua đủ máy móc, để nhận áo quần của các hăng may lớn, đem về may tại nhà, để đủ lo cho các con của tôi cho đến nay đều vào các trường Đại Học; đó là một điều mà ngay cả chính quyền Thị xă, các nhà trường cũng như những người Việt ở cùng thành phố với tôi đều “khen” tôi v́ vừa làm cha, vừa làm mẹ, mà vẫn lo cho các con học hành có bằng cấp Đại Học từ 5-7 năm (năm đến bảy năm), có việc làm vững chắc.

Về cô gái năm xưa,  mà tôi đă nhận làm con; sau đó, cô đă sang Mỹ, cách đây khoảng gần 10 năm, cô có gọi điện thoại sang Pháp để gặp tôi. Khi bắt điện thoại lên, tôi đă nghe một giọng nói:

“Mẹ, con gọi cho mẹ đây…”

Khi hỏi ra, tôi mới biết là chính cô gái ấy, và cô ta đă tŕnh bày:

“Bây giờ con đă hiểu là con sai, con có lỗi với mẹ, v́ nếu như ngày trước mà Liên Hiệp Quốc có làm theo ư con, th́ ổng cũng không bao giờ bảo lănh má của con đi Mỹ được, v́ ổng không có thương mẹ của con, cũng không có giấy tờ ǵ chứng minh cả, mà ổng bả đă bỏ nhau từ trước 30/4/1975, lâu lắm rồi. Bây giờ má con mất rồi, th́ con xin mẹ nhận con là con…”

Tôi cám ơn cô ta, nhưng nói với cô là tôi không dám nhận cô là con, v́ một lần, là một bài học, đă quá đủ lắm rồi. Một thời gian sau, có Trung úy Châu Văn, hiện ở Cali, là một người em họ. Trung úy Châu Văn cũng là một cựu tù “cải tạo” cùng trại với tôi, đă gọi điện thoại nhiều lần và nói với tôi:

“Chị à, bây giờ con nhỏ đó hắn có chồng con rồi, nó biết có lỗi với chị, nó hối hận lắm, nó nhờ tôi nói với chị xin chị tha thứ cho nó, và hăy nhận nó làm con…”

Ngoài Trung úy Châu Văn, cũng có mấy người bà con của cô ta cũng gọi sang Pháp nói với tôi những điều như vậy; song tôi đều trả lời:

Xin đừng nói đến chuyện tha thứ, v́ tôi đă tha thứ cho cô ta từ lâu rồi. Nhưng, một lần đă đủ, bài học thương người đặt không đúng chỗ ấy, suốt đời tôi không thể nào quên. V́ thế, tôi không bao giờ gặp lại cô ta nữa!

Trên đây, là lư do tôi không xin tỵ nạn Cộng sản tại Hoa Kỳ. Chuyện riêng tư này, đáng lẽ tôi không cần phải viết ra. Tuy nhiên, tôi biết ḷng dạ của Trần Hùng Văn, tức Việt Thường vốn là một kẻ tiểu nhân, đê tiện, chuyên môn xuyên tạc những sự thật, chụp mũ, vu khống…  nên tôi phải giải thích cùng quư độc giả, chứ không phải “phân bua” với Trần Hùng Văn.

Và một trong vô số những chuyện đê tiện, nhỏ mọn của Trần Hùng Văn là trong một đoạn cuối của cái audio gọi là “Trả lời Thế Huy…” như sau:

 “Trần Lệ Tuyền, nó đưa một tấm h́nh có ghi ngày 8 tháng Ba năm 2011, nhưng nó chụp đâu từ đời tám hoánh, c̣n nh́n vào h́nh nó chụp trong Lễ tưởng niệm 50 năm TT Ngô Đ́nh Diệm trông như một bà cụ…”

Chuyện một tấm h́nh, nếu là người lớn thật sự, không ai lại đi soi mói như thế. Tuy nhiên, nhân đây, tôi cũng xin giải thích luôn: Tấm h́nh ấy, không phải tôi “chụp từ đời tám hoánh” như Trần Hùng Văn đă nói, v́ tấm h́nh này của tôi, do một người bạn thân lúc ấy đă chụp cho tôi tại phi trường Birmingham, Anh quốc. Mà “từ đời tám hoánh”, th́ tôi đâu có quen biết người nào ở bên Anh quốc, vậy tôi sang nước Anh để làm ǵ mà chụp h́nh bên đó. Và tấm h́nh này, vốn chụp toàn thân, nhưng sau đó, đă được cắt ra thành h́nh bán thân.Trần Hùng Văn cần phải biết, khi đă  nói ra một chuyện nhỏ nhặt này, th́ đă chứng tỏ cho cái ḷng dạ nhỏ nhen, soi mói thua kém hẳn tư cách của một thằng con nít chăn trâu tại miền Nam ngày xưa vậy.

Ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất đă nói về Trần Hùng Văn, tức Việt Thường:

Viết đến đây, tôi muốn xin thưa cùng quư vị, trước đây, qua mấy lần nói chuyện với ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất. Tôi đă được nghe chính ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất đă nói về Trần Hùng Văn, tức Việt Thường, mà tôi đă cho nhiều người nghe lại, nguyên văn như sau:

 “Tôi đâu có tin tưởng Việt Thường, v́ mỗi lần hắn gọi cho tôi, th́ ban đầu hắn cũng giả vờ nói giọng gần chết, hắn cứ ho khẹc… khẹc… nhưng nói một hồi lâu, khi nói hăng quá, th́ hắn quên mất, nên hắn cứ nói oang oang và cười lên hô… hố… và có lần Việt thường, hắn nói hắn chấm tử vi đúng lắm, hắn bảo tôi đưa cho hắn tên họ, ngày, tháng, năm sinh của tôi và vợ con tôi, để hắn chấm cho một lá số chính xác. Tôi nghe lời hắn, đă đưa hết cho hắn như hắn yêu cầu, nhưng rồi sau đó, hắn đi đâu không biết, v́ lâu quá hắn không gọi cho tôi, mà tôi không có số điện thoại của hắn, tôi cũng có hỏi anh Chung, th́ anh Chung cũng cho biết không có số điện thoại của hắn, nên tôi phải gửi email qua cho Hà Tiên tức là Phong Lan đó, để nhắn với hắn, mục đích để hỏi hắn về chuyện chấm tử vi cho gia đ́nh của tôi…

Tôi cũng nghi ngờ Việt Thường lắm, nhất là cái chuyện hắn luôn giấu biệt tông tích của hắn, cả số điện thoại mà hắn cũng không cho tôi, cũng không cho cả anh Chung nữa … Có lần hắn gọi cho tôi, hắn nói bây giờ hắn đă ra ngoài đảo, không c̣n ở trong đất liền…”

 Và một lần khác, ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất đă nói với tôi:

“Hồi trước kia, khi anh Chung chưa loại Việt Thưởng ra khỏi Hồn Việt, th́ Việt Thường có nói với tôi là đă nói với anh Nguyễn Đức Chung rằng: Nếu tôi có mệnh hệ ǵ, th́ anh Chung hăy mời ông Hà Tiến Nhất làm cố vấn, và anh Chung cũng đă đồng ư như thế, nhưng lâu nay, tôi chờ hoài, mà không thấy anh Chung nói ǵ với tôi cả”.

Khi tôi đem những chuyện này kể lại với ông Nguyễn Đức Chung, th́ những chuyện khác chưa nói tới. Nhưng riêng về chuyện mời ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất làm cố vấn, th́ ông Nguyễn Đức Chung đă trả lời:

 “Đúng là ngày xưa, lúc tôi c̣n tin Việt Thường chống Cộng, lại nghe  Việt Thường nói là ông ta bị ung thư phổi vào thời kỳ cuối cùng, tôi tin luôn, nên mới đề nghị tặng một lá phổi, và tôi mới đồng ư với cả Việt Thường và ông Hà Tiến Nhất là nếu Việt Thường có mệnh hệ ǵ, th́ sẽ mời ông Hà Tiến Nhất làm cố vấn cho tôi. Nhưng bây giờ, mọi sự đă hoàn toàn khác, v́ nói “có mệnh hệ ǵ, th́ có nghĩa là khi Việt Thường chết. C̣n hiện giờ Việt Thường vẫn c̣n sống mạnh khỏe, không hề bị ung thư phổi thời kỳ cuối cùng. Nhất là tôi đă không c̣n tin tưởng Việt Thưởng và đă loại Việt Thường ra khỏi Hồn Việt rồi; trong khi đó, qua những bài viết ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất luôn tuyên bố Việt Thường là cùng chung chí hướng với ông Hà Tiến Nhất, lại c̣n dùng những “tài liệu là văn bản chính thức của đảng Cộng sản Việt Nam” do Việt Thường cung cấp, th́ nếu tôi mời ông Hà Tiến Nhất làm cố vấn cho tôi, th́ chẳng lẽ tôi mời ông Hà Tiến Nhất thế chỗ của Việt Thường. Như vậy, cũng vẫn là Việt Thường, đâu có khác ǵ đâu. V́ thế, tôi không mời ông Hà Tiến Nhất là vậy”.

Và gần đây, qua một lần điện đàm giữa ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất và ông Nguyễn Đức Chung, th́ hai người cũng đă nhắc lại chuyện “mời ông Hà Tiến Nhất làm cố vấn”. Ngoài chuyện này, ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất cũng nói với ông Nguyễn Đức Chung là “tôi cũng nghi ngờ Việt Thường, không tin Việt Thường… xin cho tôi một thời gian nữa, để tôi theo dơi Việt Thường…” Cuộc điện đàm này, có lẽ ông Nguyễn Đức Chung c̣n lữu giữ…

Nên nhớ, những lời nói của ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất vẫn c̣n đó, chứ không phải đă “gửi gió cho ngàn bay”. Tuy nhiên, tôi không hiểu những ǵ ông Hà Tiến Nhất đang làm, cũng như những lời ông của DLHTN đă nói là có đúng như những suy nghĩ thật trong tâm tư của ông Duyên Lăng Hà Tiến Nhất hay không?

Trần Hùng Văn, tức Việt Thường với “khả năng nói có thành không; Nói không thành có”.

Như quư độc giả đă thấy qua hai bài viết: “Trả lời nhà báo Thế Huy qua bài: Trả lời Nhà báo Thế Huy qua bài viết: “Việt Thường, ông là ai?”   và “Lư do tôi loại Việt Thường tức Trần Hùng Văn ra khỏi Hồn Việt UK online”  (Nguyễn Đức Chung). Ông Nguyễn Đức chung đă cho biết Trần Hùng Văn, tức Việt Thường đă “khoe” với ông Chung là “Tôi có khả năng nói có thành không; Nói không thành có”. V́ vậy, bởi chính cái “khả năng” này, mà Trần Hùng Văn, đă nói, đă viết ra vô số những chuyện “có thành không; Không thành có”. Mà một bằng chứng không chối căi được, là chính Trần Hùng Văn, tức Việt Thường đă tự ư bịa đặt, dàn dựng ra những chuyện hoàn toàn không hề có để miệt thị, hạ nhục Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và ông Ngô Đ́nh Nhu qua loạt bài “Giấc Nam Kha khéo bất b́nh”  như:   

“ông Diệm nghiện món bồ câu nhồi yến – Nguyễn Công Tài, con trai của Nguyễn Công Hoan đă vào miền Nam gặp ông Ngô Đ́nh Nhu tại nhà của Mă Tuyên, v́ Mă Tuyên  là người làm kinh tài cho gia đ́nh ông Diệm v…v…”

Những điều hoàn toàn bịa đặt trong “Giấc Nam Kha khéo bất b́nh”, th́ không riêng ai, mà bất cứ một công dân nào của nước Việt Nam Cộng Ḥa, và ngay cả những người dân của miền Bắc, nói chung mọi người dân Việt,  đều có quyền lên tiếng, phân tích về những điều bịa đặt ấy, để cho mọi người, cũng như lớp hậu sinh biết thật rơ ràng về nhân cách của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm: Người đă khai sáng Thể chế Cộng Ḥa tại Việt Nam: Việt Nam Cộng Ḥa.

Kết luận:

Như đă thưa cùng quư độc giả, v́ chúng tôi cần phải cạy cái mồm của Trần Hùng Văn, tức Việt Thường, buộc Trần Hùng Văn phải lên tiếng một lần, (bởi biết trước Trần Hùng Văn sẽ nói LÁO) để chúng tôi lên tiếng trả lời Trần Hùng Văn về những chuyện hoàn toàn bịa đặt với mục đích đê tiện, là để bêu riếu, bôi nhọ chúng tôi. Và như anh HN đă viết “một lần rồi thôi”, không bao giờ trả lời Trần Hùng Văn nữa, mặc cho Trần Hùng Văn có muốn vẽ vời, bịa đặt ra bất cứ một chuyện ǵ, th́ cũng như Trần Hùng Văn đă bịa ra những câu chuyện LÁO như sau:

1-    “Hàn Giang Trần Lệ Tuyền đă từng ở trong “Liên Khu 5 của VGCS”.

Nhưng sự thật, th́ vào thời điểm có cái gọi là “Liên Khu 5” của Việt cộng, (khoảng năm 1946-1947) th́ lúc ấy, Cha tôi chưa gặp, chưa cưới Mẹ của tôi. Nghĩa là tôi chưa được sinh ra đời.

2-    “Năm 1979, Hàn Giang Trần Lệ Tuyền đă được VGCS cho sang Pháp, để xâm nhập vào tổ chức của ông Trần Văn Bá, để giết chết ông Trần Văn Bá”.

Trong khi quư vị Cựu Tù Nhân Chính Trị Quảng Nam-Đà Nẵng đă chứng kiến vào năm 1979, tôi, Hàn Giang Trần Lệ Tuyền vẫn c̣n đi đốn củi, cuốc đất trồng sắn, cấy, gặt… dầm ḿnh dưới những đồng ruộng śnh lầy sâu tới bụng, tới ngực làm mồi cho đỉa trong “Trại T.154”, tức “Trại cải tạo” Tiên Lănh, Tiên Phước, Quảng Nam.

3-    “Hàn Giang Trần Trần Lệ Tuyền đă đi với Hoàng Duy Hùng sang Thái Lan, để bán 320 đảng viên Đại Việt cho Việt cộng”.

Đây cũng là một trong số câu chuyện hoàn toàn bịa đặt vô cùng LÁO KHOÉT của Trần Hùng Văn, tức Việt Thường, v́ bản thân tôi chưa hề đặt chân tới đất Thái Lan; chưa bao giờ có giao tiếp với đảng Đại Việt.

Và để kết thúc bài này. Tôi, Hàn Giang Trần Lệ Tuyền xin phép quư độc giả để thưa cùng quư vị đă từng bị Trần Hùng Văn, tức Việt Thường vu khống, chụp mọi thứ mũ, th́ hăy xem những cái mũ LÁO, mà Trần Hùng Văn đă chụp cho tôi, th́ chắc chắn sẽ hiểu thêm rằng: Trần Hùng Văn, tức Việt Thường sẽ không từ bất cứ một hành vi tiểu nhân, đê hèn, ti tiện, bỉ ổi nhất…, để t́m cách chụp nhiều cái mũ khác cho bất cứ một người nào, mà Trần Hùng Văn, tức Việt Thường thấy cần phải “vùi dập” cho tới “chết”.

Tuy nhiên, có “vùi dập” có làm cho người nào “chết” được hay không lại là chuyện khác! “Mưu sự tại nhân; Thành sự tại thiên”, nênTrần Hùng Văn, tức Việt Thường cần phải ghi nhớ:

“Trên đường đi,  nếu mỗi lần chó sủa là mỗi lần ta dừng bước, th́ ta sẽ không bao giờ đi tới mục đích sau cùng”.

Và một lần nữa, Hàn Giang Trần Lệ Tuyền xin phép quư vị, để được nhắc lại một câu ngắn, mà tôi đă từng gửi lên các diễn đàn như sau:

Nếu có một ai đó, tự ư muốn vẽ chân dung cho ḿnh; Nhưng lại hoàn toàn không giống ḿnh, th́ “bức chân dung” ấy, không bao giờ là của ḿnh cả.

Xin chân thành cám ơn quư vị, đă chịu khó đọc hết những ḍng chữ “chân quê” này. Kính chúc Qúy vị cùng gia đ́nh luôn được Bằng An-Thăng Tiến.

 

Trân trọng,

 

Paris ngày 03/10/2014

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

 


 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments: