֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa

֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution

֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos 

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

    ֎ Served  In A Noble Cause

֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống NĐD

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

     ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

     ֎ The Fall of South Vietnam

     ֎ Giờ Thứ 25

     ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

     ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

 

 ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008

֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009

֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009

֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009

֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010

֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010

֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010

֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011

֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011

֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011

֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012

֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014

֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015

֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016

֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016

֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016

֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017

֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017

֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017

֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018

֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018

֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018.

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearning Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

TRẠI TẬP TRUNG

 

DUYÊN ANH

 

 

 

 

 

CHƯƠNG 8

 

 

 

Báo tin mừng cho em biết

Anh vừa tháo gỡ loạt bom

Có trái nổ

Cám ơn trời anh không chết

Nhưng bạn-bè người banh xác, kẻ cụt chân

 

Báo tin mừng cho em biết

 

Anh vừa phát hoang khu rừng

 

Khi gom đốt

 

Đạn ch́m sâu lên tiếng thét

Cám ơn trời anh không chết

Nhưng bạn-bè người vỡ ngực kẻ bay lưng

 

 

Báo tin mừng cho em biết

 

Anh vừa đục núi gài ḿn

 

Lửa bén ng̣i nhanh

 

Đá bay như đạn rít

Cám ơn trời anh không chết

Nhưng bạn-bè người hộc máu, kẻ mù luôn

 

 

Báo tin mừng cho em biết

 

Anh vừa bắc lại cây cầu

 

Đang mùa lũ

 

Nước nguồn chẩy xiết

Cầu sập trôi

Cám ơn trời anh không chết

Nhưng bạn-bè người no nước, kẻ mù khơi.

 

 

Báo tin mừng cho em biết

 

Anh vừa chui xuống hầm phân

 

Hàng tỷ con ṛi ḅ khắp ḿnh anh gớm ghiếc

 

Cám ơn trời anh không chết

Nhưng bạn-bè người ngất xỉu, kẻ mửa mật vàng xanh.

 

 

Báo tin mừng cho em biết

 

Anh vừa ăn chuột cống, bọ cạp, thỏ śnh

 

Cóc nhái, rắn rết, châu-chấu, cào-cào

 

Ăn rau tầu bay, cỏ trời, cỏ dại tào-lao

Cám ơn trời anh không chết

Nhưng bạn bè người tiêu ma, kẻ kiết-lỵ quặn đau.

 

 

Báo tin mừng cuối cùng cho em biết

 

Ngày anh chết

 

Xác anh nhét trong chiếc ḥm

 

Trên xe cải-tiến

Bạn anh kéo, đẩy đem chôn

Mồ anh sẽ cạnh mồ tên ăn cắp

Chẳng một ai được quyền vẫy tay, lau nước mắt

Người ta đọc lệnh tha anh thay thế điếu-văn

Anh hoàn-toàn tự-do về sum-họp gia-đ́nh

 

 

Duyên Anh

 

Thơ Tù, Nam Á Paris 1984

 

 

Bài thơ Tin Mừng, theo người tù không có án là cảm-xúc, có thể, gọi là nguyên-khối mà tôi đă sáng-tác ở Sa Ác. Tôi nói có thể v́ một vài sự-kiện xẩy ra ở Sa Ác mà ở các trại Đồng Ban, Trảng Lớn, Kàtum, Suối Máu mà các bạn tù ở Phước Long kể cho tôi nghe. Như gỡ bom bị nổ, nhiều tù-nhân chết, nhiều tù-nhân cụt chân, cụt tay. Như phát-quang gom cây đốt, đạn nổ, tù-nhân mang thương-tích. Như gài ḿn đục núi lấy đá, tù-nhân bị tức ngực, bị mảnh đá văng trúng mắt. Như bắc cầu bị sập, tù-nhân mất-tích. Đội 21 nông-nghiệp của Đằng Giao đă gỡ bom. Các Đội phát-quang của Sa Ác B đă đốt cây nhằm chỗ đạn vùi sâu dưới đất. Đội 38 của Dương Đức Dũng đă bắc cây cầu qua sông Ray mùa nước lũ… Tôi muốn cảm-xúc của tôi được ghi tại chỗ. Tôi muốn thơ của tôi không bị xếp loại với thơ “chiêm-bao sự thật”. Những người chưa hề đọc Thơ Tù của tôi sẽ thắc-mắc rằng tôi đă làm thơ tù như thế nào? Trang đầu của Thơ Tù, tôi giải-thích:

 

 

“Anh phải có trí nhớ thật tốt. Điều này những kẻ nhốt anh đă tuyên-dương anh: Bọn nhà văn là bọn biết dấu-diếm những điều cần dấu-diếm kỹ trong đầu óc của chúng (Huỳnh Bá Thành, “Vụ án hồ con rùa”, nhà xuất-bản Tuổi Trẻ, tp. Hồ Chí Minh 1982). Họ tuyên-dương anh để quản-lư cả thể-xác lẫn linh-hồn anh đấy. Nếu anh bị nhốt ở các đề-lao Sàig̣n, Chí Hoà chẳng hạn, anh sẽ hiểu rằng mọi thứ giấy bút đều bị nghiêm-cấm. Bất chợt, cai ngục khám-xét túi bị của anh. Điều này thường xuyên xảy ra tại đề-lao thành-phố. Một mẩu bút ch́ thôi, anh vẫn bị c̣ng chân, bị tống vào cachot. Nếu thêm mẩu giấy ghi chép vài câu vô-nghĩa, họ sẽ nâng quan-điểm anh, bắt anh làm tự khai ṛng-ră để định-nghĩa sự vô-nghĩa của chữ-nghĩa vô-t́nh. Vậy anh làm thơ bằng cách nào?”

 

° ° °

Tôi làm thơ trong tù bằng óc của tôi. Tôi dựa lưng vào tường bê-tông. Tôi bám chấn song sắt to hơn cánh tay tôi – chấn song sắt của khám Chí Ḥa – nghĩ thơ. Tôi nhắm mắt làm thơ. Tôi mở mắt sửa thơ. Tôi nằm gối đầu trên tay học thuộc thơ. Quên cũng lắm. Sai cũng nhiều. Bằng óc. Óc tôi là giấy, là bút, là mực. Trí nhớ tôi là máy ghi âm. Thiếu chính xác v́ thiếu sinh tố bồi dưỡng. Người ta cấm tôi dùng tay đề viết. Tôi dùng tay đề găi ghẻ. Vừa găi ghẻ vừa làm thơ. Cần ǵ phải giấy bút. Cần ǵ phải cảm hứng. Nỗi ngứa đă là cảm hứng tuyệt vời. Tôi làm thơ và tôi găi ghẻ. Bởi v́ trong thống khổ và cô đơn, tôi thèm thơ. Tôi thèm thơ hơn tôi thèm nh́n giọt nước mắt của vợ, thèm ngắm nụ cười của con, thèm thấy một miếng đời sống bên ngoài cánh cửa pḥng giam nặng hàng tấn, thèm ăn cơm trắng, thèm uống nước trà, thèm tắm gội tập thể quá mười phút… Tôi làm thơ như Hồ Chí Minh làm thơ, như Tố Hữu làm thơ. Trong tù. Nhưng tôi không hậm hực kiều Hồ Chí Minh, rên xiết kiểu Tố Hữu. Tôi phơi phới. Tôi phiêu bồng. Tôi lăng du. Dẫu nhà tù Tố Hữu nhốt tôi ngày nay khốn nạn gấp ngàn lần nhà tù thực dân nhốt Tố Hữu ngày xưa. Luôn luôn chúng ta hơn cộng sản, thi sĩ của chúng ta hơn cộng sản. Chúng ta đem đời sống vào ngục tù. Chúng ta không đem ngục tù vào đời sống, dù ngục tù hằng đe dọa hủy diệt đời sống của chúng ta. Chúng ta lên tiếng chứ không lên án. Tiếng nói của chúng ta thơm nồng trái thị cổ tích, rạng rỡ tấm ḷng Thạch Sanh. Chúng ta kư thác t́nh yêu cho muôn thuở. Chúng ta không kêu gào thù hận nhất thời. Chúng ta có phần thưởng của chúng ta với dân tộc, với nhân loại như những người công chính có phần thưởng của họ trên nước Thiên Đàng.

 

Anh làm thơ trong tù bằng óc. Tôi hiểu rồi. Lao động khổ sai đầy đọa thể xác anh. Mỗi ngày anh ăn ba chén sắn lát, hai lưng cơm hẩm. Với nước muối. Với rau muống giây kẽm gai. Với củ cải sơ mướp. Anh phải phá g̣ mối ngh́n năm giữa rừng. Anh phải hạ cây cổ thụ già chín kiếp đời anh. Anh phải khiêng bom chưa kịp nổ. Anh phải lấp hố bom. Anh phải xuồng hầm phân nhung nhúc cả tỷ con ṛi, vục đầy xô phân bằng tay anh – tay anh thường chỉ quen cầm bút – và ṛi chui vào lỗ tai anh. v.v… Người ta kiểm soát anh tất cả, anh mỏi mệt với những hồi kẻng năo nùng, anh đặt lưng là anh ngủ. Vậy anh làm thơ bằng cách nào, ngoài trại tập trung?

 

 

Tôi làm thơ v́ tôi thèm định nghĩa con người. Tôi thèm định nghĩa con người trong nỗi thống khổ đ̣i đoạn mà con người biết chịu đựng một cách can đảm, im lặng và khiêm tốn. Thi sĩ là người nh́n rơ sự bất hạnh trong hạnh phúc và, đồng thời, không ngừng khám phá hạnh phúc trong bất hạnh. Từ dưới hầm phân, tôi ngửi được hương thơm hiếm có trên đất trời. Tôi biết ngưỡng mộ con gọng vó suốt đời bơi ngược ḍng nước lũ. Tôi cảm được tâm hồn nó và, nhờ nó, tôi đă được soi sáng. Trước đây, tôi chỉ tưởng tượng nỗi khổ, bây giờ, tôi trực diện nỗi khổ, dẫy dụa trong nỗi khổ. Trong tù, ngứa ghẻ là cảm hứng sáng tác của tôi. Ngoài trại tập trung, đau khổ là mật ngọt của đời sống tôi, đời sống một nghệ sĩ. Tôi làm thơ. v́ thế. Đừng sợ người ta kiểm soát tất cả. Khí trời, bầu trời, thiên nhiên và tâm hồn đích thực của con người, không ai kiểm soát nổi”…

 

 

Những bài thơ nồng nàn nhất của tôi, tôi đă viết ở trại tập trung khổ sai lao động. Thí dụ bài:

 

 

Một năm thèm đường ở Suối Máu.

 

Người tù ngồi lựa gạo

 

Nhặt được vài hạt ngô

 

Bắt đầu một giấc mơ

 

Một giấc mơ ảo năo

 

 

Ngay miếng đất anh nằm

 

Những hạt ngô reo rắc

 

Những hạt ngô nẩy mầm

 

Những cây ngô ao ước

 

 

Thân ngô nhú cao dần

 

Từng phân rồi từng tấc

 

Từng sáng anh tưới nước

 

Từng chiều anh ngó thăm

 

 

Ngô lên bằng đầu người

 

Gió đùa lá ngô vui

 

Nỗi niềm tan trong máu

 

Tù nhân dấu nụ cười

 

 

Anh múa lưỡi dao rừng

 

Những thân ngô ngă rạp

 

Mỗi khúc mỗi người cạp

 

Ôi, ngọt đến vô cùng

 

 

Đám bạn tù nh́n nhau

 

Mắt long lanh giọt ngọc

 

Bây giờ là hạnh phúc

 

T́m thấy khi qua cầu

 

 

Duyên Anh

 

Thơ Tù, Nam Á Paris 1984

 

 

Bài thơ này cảm hứng từ câu chuyện một năm thèm đường của anh bạn tù ở trại Suối Máu kể cho tôi nghe. Người khác kể chuyện ở trại Đồng Ban, tù nhân cuốc trúng ḿn bị cưa chân bằng cưa dùng để cưa củi. Tôi đă ghi nhanh bài :

 

 

 

Về nỗi khổ thật mới

 

Báo tin cho em biết

 

Bạn anh vừa cuốc đất trúng ḿn

 

Ḿn nào đó, ôi trái ḿn xảo quyệt

 

Ai cũng được quyền gài và quyền lớn tiếng thanh minh

 

 

Bạn anh quỵ xuống rất êm

 

Ôm chân máu v́ không muốn chết

 

Sau những giây phút sững sờ oan nghiệt

 

Bạn anh được cơng vội về

Chẳng thuốc mê và chẳng cả thuốc tê

Người ta đè bạn anh ra cưa sống

 

 

Lưỡi cưa cùn cưa gỗ cưa cây thật ớn

 

Đă cưa xương cưa thịt con người

 

Bạn anh thét kinh âm hưởng vút lên trời

 

Bạn anh dẫy dụa đất nứt tung cục cựa

Anh gh́ tay bạn anh

Mắt cài then kín cửa

Hồn đi xa khỏi thế giới lầm than

Nỗi đau đóng đinh thập giá có đâu bằng

Bạn anh bị cưa chân bởi thứ cưa cưa gỗ

Nhân loại có nhiều nỗi khổ

Nhưng chưa có nỗi khổ nào giống nỗi khổ bạn anh

Chưa có nỗi khổ nào giống nỗi khổ Việt Nam

Nỗi khổ vàng son xứng đáng tôn vinh

Nỗi khổ làm cho anh em ḿnh biết sống

Nỗi khổ làm cho loài người rung động

Anh mở mắt nh́n

Chân bạn anh rụng mất rồi

Hôm nay bạn anh chống nạng mĩm cười

Báo tin cho em biết

 

 

 

Duyên Anh

 

Thơ Tù, Nam Á Paris 1984

 

 

 

Những bài thơ tù của tôi không làm cho đồng bào của tôi di tản sang Mỹ trước 30-4-1975 xúc động. Họ dửng dưng. Có lẽ, “nỗi khổ vàng son xứng đáng tôn vinh” đă làm họ phiền phức. Nhưng người ngoại quốc th́ xúc động khóc sướt mướt. Ở Grenoble . Ở quận 6 thành phố Paris. Mời bạn nghe ông Pierre Bas, Viện sĩ Hàn lâm viện khoa học hải ngoại Pháp Dân biểu danh dự, Thị trưởng quận 6 Paris phát biểu:

 

 

“… Pierre Chaunu đă giới thiệu Duyên Anh với chúng ta. Độc giả của chúng ta thừa biết Chaunu là một nhà văn, một sử gia một xă hội học gia, một tư tưởng gia đă làm vinh dự cho xứ sở chúng ta. Chaunu giới thiệu Duyên Anh như một nhà thơ lớn, một niềm hănh diện và vinh quang cho quốc gia đă bị cộng sản nhốt vào tù ngục. Những bài thơ được chuyền dịch Pháp ngữ do kịch sĩ Michel Etcheverry của Viện kịch nghệ quốc gia Pháp diễn tả thật xuất sắc. Quần chúng rất xúc động.

 

 

 

Được thả ra khỏi trại cải tạo nhờ những phản kháng của thế giới tự do, Duyên Anh cho chúng ta hiểu trại ấy là ǵ: Một thế giới của kinh hoàng, của đau thương ghê gớm, một hệ thống tù đầy, có lẽ c̣n tồi tệ hơn cả hệ thống tù đầy mà Soljenitsyne đă cực tả. Đó là thế giới của sự tàn ác, của sự cuồng bạo, của những nhục nhă, của những trừng phạt tàn khốc, một thế giới mà không một người nào trong pḥng này biết đến sự hiện hữu của nó, một thế giới mà chúng ta biết nhờ sự tiết lộ, một thế giới mà người ta lấy làm hổ thẹn v́ nó đă có vào năm 1987 trước mắt nhân loại, một thế giới của tuyệt vọng, nhắc nhở người ta đến sự ghê tởm của các trại tập trung của quốc xă. Tối hôm đó, một buổi tối vui vẻ và dễ chịu như mọi buổi tối vui vẻ và dễ chịu của Paris, chúng ta mới được biết rằng, trên trái đất, tại Việt Nam, đă có chủ nghĩa quốc xă với những sự ghê tởm của nó.

 

 

Tôi đă nói đủ, những bài thơ của Duyên Anh sẽ kể hết cho quư vị biết. Tôi mong mỏi quư vị sẽ t́m đọc những bài thơ ấy. Như thế, quư vị sẽ được thông báo đầy đủ, quư vị sẽ hiểu những ǵ đang xẩy ra trên trái đất. Quư vị sẽ hỏi các tổ chức từ thiện, các hội đoàn tranh đấu cho nhân quyền rằng, mỗi khi một nhà báo không xem được hồ sơ tại một xứ nào đó của tây phương, các tổ chức ấy vẫn la lối th́ nay, hỏi xem họ đă làm ǵ khi con người bị hạ nhục, con người bị hành hạ. Duyên Anh gọi đó là “sự đóng đinh trên thập giá”. Đúng vậy, đó là những sự hành hạ cũng tàn khốc như sự đóng đinh trên thập tự giá lên con người của thời đại chúng ta mà chúng ta lại giả vờ không biết, chúng ta bịt tai, chúng ta không muốn dính líu.

 

 

Chúng ta trông đợi Bộ ngoại giao Pháp t́m cách chấm dứt những sự ghê tởm đó đi. Không thể nào chấp nhận nước Pháp sẽ không nói ǵ với các tổ chức quốc tế, có lẽ viện cớ cần giải quyết vài hồ sơ hợp tác, trong khi có những mạng người cần phải cứu vớt. Chúng ta có bổn phận báo động dư luận nhân dân Pháp. Tôi cam kết dẫn đầu cuộc chiến này và tôi cầu mong nhiều người khác nhập cuộc cùng tôi. Những ǵ đang xẩy ra tại Việt Nam phải được chấm dứt, nếu không khuôn mặt nhân loại bị đánh tạt và bị ô nhục bởi những sự ghê tởm của chế độ Hà nội”.

 

 

(trích bài xă luận của tờ Le Courrier tháng 2-1987)

 

 

Hơn cả sự hờ hững, đồng bào trong và ngoài nước của tôi đă quên lăng những tù nhân, những nhà tù, những trại tập trung khổ sai lao động. C̣n nhớ chăng là những người mẹ có con đi lao cải, những người vợ chung thủy có chồng đi lao cải, những người con có cha đi lao cải, những người em có anh đi lao cải. Thỉnh thoảng vài anh cai thầu nỗi khổ lại ném vào sự lăng quên những phản đối làm cảnh, những phản đối được đài thọ một chuyến đi, những phản đối đánh bóng cá nhân 30 năm sống bên Tây, những phản đối có mặt của một chủ tịch đào nhiệm từ 1973 cho cái gọi là Trung tâm Văn Bút đỡ trơ trẽn. Tôi cảm thấy bộ hồi kư tù ngục của ḿnh vô duyên, lăng nhách. Nó vô duyên, lăng nhách v́ những tên tướng khốn kiếp đào ngũ, sau 13 năm sống vô liêm sỉ trên đất nước Hoa kỳ, vẫn c̣n thừa thăi sự vô liêm sỉ đề mặc quân phục Việt Nam cộng ḥa, nhâng nhâng nháo nháo phơi bầy những khuôn mặt đă ngâm “nước vỏ lựu, hoa mào gà” cứ đen thui như mơm chó, đi duyệt binh Ngày Quân Lực không c̣n…quân lực. Khi ấy, sĩ quan kiêu hùng của chúng ta, của dân tộc ta của tổ quốc ta,nạn nhân của bầy tướng lănh bất tài, tham nhũng đầy tớ Mỹ, đang quằn quại ở các trại lao cải cộng sản. Giọt nước mắt nào cho những anh hùng bị tước đoạt quyền chiến thắng ấy ở đêm liên hoan có nhẩy đầm tíu tít Ngày Quân Lực…lưu vong? Không có giọt nước mắt nào cả. Chỉ có những tiếng cười man rợ, tiếng rượu trôi ừng ực xuống dạ dầy. Chúng nó đă khiêu vũ trên nỗi thống khổ của chiến hữu chúng nó, của dân tộc chúng nó. Chúng nó khỏa lấp sự phẫn nộ của người công chính. Chúng nó bảo cần thiết một “huynh đệ chi binh” trong Ngày Quân Lực. Chúng nó bảo cần thiết những thằng tướng bẩn, tướng hèn, tướng đào ngũ triển lăm toàn diện sự bất cố liêm sỉ. Chúng nó bảo cần thiết những thằng tướng khốn kiếp phóng uế trên đất nước Lincoln. Và chúng nó khoán quyền đại diện tù nhân chiến hữu của chúng nó cho cai thầu nỗi khổ 30 năm phè phỡn bên Tây, chưa hề nh́n thấy lính Sài g̣n cũng chưa hề nh́n thấy bộ đội Hà nội.

 

 

 

Người Mỹ đă không dạy chúng nó cách cai tri đồng bào chúng nó ở Việt Nam. Người Mỹ cũng không thèm dạy chúng nó những bài học dân chủ và tṛ chơi dân chủ ở nước Mỹ. Mở miệng, chúng nó nói dân chủ và chiến đấu cho dân chủ, tự do. Nhưng chúng nó chỉ muốn độc quyền tự do, dân chủ. Chúng nó đ̣i tự do, dân chủ…độc tài. Chúng nó đ̣i tự do phóng uế chính trị, phóng uế kháng chiến, phóng uế giải phóng dân tộc. Nhưng chúng nó cấm người khác tự do phản kháng phóng uế chính trị, phóng uế kháng chiến, phóng uế giải phóng dân tộc. Chúng nó không thích tṛ chơi dân chủ. Chúng nó không thích đối lập ở nơi chốn mà dân chủ, tự do là biểu tượng cao quư nhất của con người, bất kề con người nào, mầu da nào, chủng tộc nào. Bọn ngu xuẩn này chỉ thích duy ngă độc tôn, sau chúng nó là đại hồng thủy. Quyền uy ảo tưởng và thế lực báo chí giẻ rách của chúng, có thể đe dọa những người cầu an, những người yếu bóng vía, có thể bịt miệng sự lên tiếng của bọn nhà văn Hamburger sinh ra đă sợ bạo lực và chỉ dám bạo miệng chống đối Cộng sản cách xa một đại dương, chỉ dư can đảm lè nhè chửi bới người vắng mặt song, không thể không bao giờ có thể đe dọa, bịt miệng nổi những nhà văn, những nhà báo khí phách và thừa thăi tài năng. Một bài thơ lửa đủ đốt thiêu chúng nó. Một bài báo thép đủ chặt ngang thây chúng nó. Chưa cần một cuốn sách. Và chẳng cần đến một tác phẩm. Thực chất, chúng nó chẳng có quyền uy ǵ. Nếu các nhà văn bầy tỏ thái độ nhất loạt, nếu báo chí tư cách bầy tỏ thái độ nhất loạt, chúng nó sẽ co rúm, sẽ cúi gầm mặt, sẽ câm họng. Chúng nó chẳng là cái ǵ cả . Chúng nó là đồ bỏ.

 

 

Người tuổi trẻ lưu vong phải quán triệt điều này:

 

 

 

Những ông chính khách kinh niên, những ông lănh tụ đảng phái già nua, những tên đă nắm quyền bính ở miền Nam, những thằng tướng hèn đào ngũ không có tương lai, không c̣n tương lai nữa. Họ không chiến đấu cho tương lai của dân tộc đâu. Hiển nhiên. V́ họ thiếu tài năng và tư cách. Cái mà họ đang gọi là chiến đấu chỉ là cuộc chiến đấu hư ảo nhằm mục đích phục hồi quyền bính dĩ văng. Phục hồi quyền bính dĩ văng đă là hư ảo, với bọn kể trên, là hư ảo b́nh phương. Bọn họ được chia làm hai loại. Một loại chưa nắm quyền bính, chưa ngồi ở những địa vị có thể ăn cắp nhiều. Một loại đă nắm quyền bính, đă ngồi ở những địa vị tha hồ ăn cắp. Loại thứ nhất, v́ ăn cắp ít, nên lưu vong không được xếp vào loại tổ sư ăn cắp đâm ra “đố kỵ” tài năng …. ăn cắp. Chúng t́m nhau, hùn hạp lập công ty kháng chiến, hợp tác xă giải phóng dân tộc. Chúng bắt chước cộng sản, bôi son vẽ phấn cho chủ tịch, râu ria vài sợi, khăn rằn quấn cổ, g̣ khuôn mặt chủ tịch méo mó, khắc khổ. Chúng soạn cương lĩnh và ḥ hét. . . lạc quyên, xổ số, tem phiếu, hũ gạo. Và chúng vơ vét ngót nghét 10 triệu đô la, vẫn tiếp tục rao truyền cương lĩnh lạc quyên đốn mạt cho sự nghiệp ăn cắp công khai của chúng. Biểu tượng khốn kiếp của thời đại mê sảng là chủ tịch HCM. Rốt cuộc, công ty ră đám. Chủ tịch lạc quyên đ̣i chủ tịch lănh tụ làm sáng tỏ tiền ăn cắp? Lư do đơn giản: Chúng nó chia chác không đồng đều. Loại thứ hai, ăn cắp nhiều no nê rồi, ngồi cạp tiền ăn cắp măi đâm ra tương tư dĩ văng. Thêm nữa, bị vợ khinh con chê, nhân t́nh lỉnh. Đường đường tổng thống, phó tổng thống, thủ tướng, đại tướng, trung tướng, thiếu tướng hét ra khói, ói ra lửa, nay cà lơ thất thểu, đứa ngồi thở dài, đứa bán rượu, đứa gác-dan, vợ nó khinh là đúng. Bèn phẫn chí may quân phục, mua sao lên sân khấu thủ những vai hề cù không ai cười mà chủ đề nghe phỉ báng. Lâu lâu, chúng nó phát ngôn “Phục quốc là trách nhiệm”, “Giải phóng dân tộc là bổn phận”. Đúng rồi, phục quốc và giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị cộng sản là trách nhiệm, là bổn phận của mọi người Việt Nam, trừ những thằng tướng hèn đào ngũ, những thằng tổng thống, tổng trưởng đầy tớ Mỹ, tham nhũng, thối nát. Một thằng tướng đă tuyên bố. “Tôi không đi đâu cả, tôi ở lại để ăn cơm với tương cà, canh mắm. Ăn bơ, uống sữa chỉ đi té re. Đứa nào sang Mỹ th́, đàn ông làm cu ly, đàn bà làm đĩ”! Lịch sử nào cũng có những trang chó đẻ Những trang chó đẻ của lịch sử hiện đại của dân tộc ta, ngoài sự phản phúc của Mỹ c̣n ghi cả xú ngôn của những thằng vô lại. Thằng tướng vô lại ấy đă sang Mỹ. Vợ nó cũng sang Mỹ. Nó có làm cu ly? Vợ nó có làm đĩ ? Điều này b́nh thường. Hơn cả b́nh thường, nó tầm thường. Đôi khi c̣n hợp lư. Cái không b́nh thường là nó c̣n dám diện quần áo tướng, quấn phu-la đi duyệt binh Ngày Quân Lực…tan hàng, ở một nơi ai muốn làm ǵ tùy ư, miễn là đừng phóng uế lên danh dự Việt Nam. Vợ nó cũng… duyệt binh. Khi có ai lên tiếng rằng cu ly và đĩ không được phép nhục mạ quân đội, sẵn sàng khuyển mă của khuyển mă lư luận: Ngày Quân Lực là ngày đoàn kết quân đội! Đồng ư. Nhưng quân đội là những ai? Quân đội có phải là của tướng lănh, nhất là của tướng lănh đào ngũ hèn mọn? Không đâu, quân đội của chúng ta là những người lính kiêu hùng, là những hạ sĩ quan gan dạ, là những sĩ quan trong sạch quả cảm chiến đấu chống kẻ thù cộng sản đến giây phút cuối cùng. Ở Khánh Dương, ở trước dinh Độc Lập, ở cầu Thị Nghè, lính và sĩ quan dũng cảm của chúng ta c̣n chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Chỉ có những thằng tướng đang hung hăng sủa bậy “phục quốc, giải phóng, kháng chiến” là đào ngũ, là cút chạy quá sớm trước lệnh đầu hàng. Những kẻ đă đào ngũ có c̣n là quân đội, có c̣n là chiến hữu của những người lính đang chiến đấu ở quê nhà, những sĩ quan đang quằn quại ở trại tập trung khổ sai lao động của cộng sản? Quân đội của những người lính đă thắp sáng B́nh Long, Kontum, Pleime, Quảng Tri…, đă tưới máu đào từ Bến Hải vào tận Cà Mau có thể “đoàn kết” với những thằng tướng đào ngũ, có thể bị nhân danh bởi những thằng vô lại?

 

 

 

Người tuổi trẻ đă là lính hay chưa là lính cần nh́n rơ vấn đề, cần điểm mặt lănh tụ. Để nhận đường chiến đấu. Cuộc chiến đấu hôm nay là cuộc chiến đấu của Thiên Thần với Ác Quỷ. Nó đ̣i hỏi nhiệt t́nh, ḷng tự phụ, tài năng và sáng tạo chỉ có ở tuổi trẻ. Vậy nó là cuộc chiến đấu của tuổi trẻ. Cuộc chiến đấu này phải loại bỏ lănh tụ già, lănh tụ vô lại, lănh tụ vô học; loại bỏ bọn tay sai Mỹ, tay sai Liên Xô, tay sai Tây, tay sai Tầu cũ và, đồng thời khu trừ bọn tay sai Mỹ, tay sai Liên Xô, tay sai Tây, tay sai Tầu mới, dẫu tay sai có là người trẻ trung, mới mẻ. Cũng khu trú luôn đám cai thầu nỗi khổ của dân tộc, dây máu ăn phần sau 30 năm ngủ vùi trên đất thiên hạ.

 

 

 

Viết đến đây, tôi bỗng cảm thấy bộ hồi kư ngục tù của tôi không vô duyên, lăng nhách nữa. C̣n tuổi trẻ Việt Nam an ủi tôi, c̣n tuổi trẻ Việt Nam là những người tôi sẵn sàng cống hiến chút tài năng c̣m cơi của tôi, chút kinh nghiệm kinh qua thống khổ của tôi, trọn phần đời c̣n lại của tôi, cho họ. Cho hết. Cho không đ̣i hỏi. Để họ không c̣n bị làm guốc cho bọn lănh tụ ghẻ lở. Để họ không c̣n bị ném lên sân khấu bởi bọn đạo diễn mù. Tôi không có tham vọng chính trị. Tôi không có máu mê lănh tụ. Tôi không lợi dụng tuổi trẻ. Tôi là nhà văn. Nhà văn th́ không cần thế lực và hậu thuẫn. Thế lực và hậu thuẫn của nhà văn là Sự Thật và Lẽ Phải. Và đó chính là khuôn vàng thước ngọc của người cầm bút ở bất cứ thời đại nào. Bằng Sự Thật và Lẽ Phải, nhà văn khinh thường Bạo Lực. Luôn luôn bị Ngộ Nhận, bị Chụp Mũ, bị Đe Dọa, bị Vây Hăm nhưng chằng bao giờ bị hủy diệt v́ không một bạo lực nào đủ khả năng hủy diệt Cái Thật, Cái Tốt, Cái Đẹp. Lư tưởng chiến đấu của tuổi trẻ thế hệ sau 30-4-75 và những thế hệ kế tiếp là phải leo lên đỉnh ngọn Chân, Thiện, Mỹ; phải tạo dựng chính quyền cho quê hương Việt Nam, phải là Vạn Thắng Vương, dẹp tan 11 thứ phỉ, thứ ngụy để mơ kỷ nguyên Đại Cồ Việt mới.

 

 

 

Trong ư nghĩ ấy, tôi t́nh nguyện làm con ngựa già kéo xe cho Tuổi Trẻ ruổi rong làm lịch sử. Với tôi, giai đoạn tiểu thuyết lẩm cẩm, tùy bút tửu điếm, pḥng trà lăng nhăng chấm dứt. Với tôi. hôm nay: “Cho lửa vào thơ văn hay cho thơ văn vào lửa”. Hoặc tôi tiếp tục văn chương chiến đấu, tư tưởng dấy động và chấp nhận mọi nghịch cảnh, mọi hệ lụy vây hăm, hoặc tôi bẻ bút. Tôi chọn lựa văn chương chiến đấu, văn chương có chính kiến rơ rệt. Người cầm bút phải có thái độ sống và thái độ viết thích ứng với thời đại của y. Nói theo nhà tư tưởng lư Đông A: “Văn nghệ phải để cho yêu thương của lư tưởng có tranh đấu trụ tŕ “ 1. Những kẻ cầm bút không có chính kiến, cầu an, sợ hăi bạo lực, thù hận của bạo lực và h́nh phạt của bạo lực chỉ là bọn thư lại chữ nghĩa. Những kẻ cầm bút chối bỏ Sự Thật và Lẽ Phải, nói theo Lư Đông A là bọn văn nghệ “mơ chợ”, bọn văn nghệ “chó sủa” 2. Lư Đông A mượn ư của Shelley nhắc nhở rằng: “Nhà văn phải thổi kèn đánh thức” con người và lương tri của con người. Tôi muốn làm người thổi kèn, chỉ đề đánh thức cho tuổi trẻ Việt Nam lên đường và báo động hoàng hôn chết của lănh tụ già nua mọi mặt. Thế thôi.

 

 

 

Trong mọi lănh vực, người tuổi trẻ cần hiện diện. Lăo thành cách mạng, lăo thành kư giả, lăo thành chính khách, lăo thành văn sĩ là những người sắp chết, gần kề nỗi chết. Tương lai th́ lại sẽ tới, sắp tới, đang tới và c̣n tới măi măi, vô tận. Tương lai không của người già càng không phải của những người hết thời. Tương lai là của tuổi trẻ. Tương lai là mầm vừa nhú, lộc đang đâm chồi, hoa chờ hé nhụy. Tương lai không là cây đă cổ thụ, hoa đă héo tàn, cà đă thâm, dưa đă khú. Đất nước chỉ toàn cây cổ thụ là đất nước buồn bă. V́ trên ngọn th́ quạ đậu đầy, dưới gốc th́ b́nh vôi đặc khịt chồng chất. Đất nước ta đă 50 năm rặt quạ và b́nh vôi. Và đất nước ấy đă thê thảm cùng cực. Phải làm cho đất nước cơ man cây trổ hoa, đơm trái. Phải làm cho đất nước rộn ràng ong bướm, véo von chim hót. Và đó, nghĩa vụ của tuổi trẻ Việt Nam. Tôi hy vọng, bộ hồi kư tù ngục này sẽ giúp tuổi trẻ đôi chút kiến thức về cộng sản. Đề họ nh́n kẻ thù chính xác mà chiến đấu. Nó cũng c̣n là một báo động một xúc động phôi phai cho họ, những người rời quê hương trước 30-4-1975 quá trẻ, dễ ch́m nghỉm dưới bùn lầy vật chất nước Mỹ và đă quên thân phận dân tộc, số phận tù nhân lao cải mà thống khổ chịu đựng, văn chương của tôi không đủ khả năng diễn tả.

 

--------------------------------

1

Đạo Trường Ngâm, Thay lời tựa, Nhân Chủ Học Xă xuất bản, USA 1985.

 

CHƯƠNG 9

 

Đằng Giao kể:

 

- Hoàng Anh Tuấn thèm thực hiện một cuốn phim về nhà tù cộng sản. Phần générique Tuấn sẽ quay những khuôn mặt hốc hác dán vào cửa gió cachot. Giới thiệu tên phim, tài tử, đạo diễn, nhà sản xuất xong xuôi, mở đầu, một tù nhân đẩy cửa cachot bước ra, chân xích, tay c̣ng. Cai ngục dẫn tù nhân tới pḥng chấp pháp….

 

 

Đằng Giao nói tiếp:

 

 

- Giá mà Hoàng Anh Tuấn ở Sa Ác. Phần générique sẽ quay cảnh tù nhân trần truồng tắm bến sông Ray…

 

 

Bến sông Ray, bến tắm tập thể của cả trại lao cải Sa Ác B, trưa và chiều. Gọi là sông v́ nó là sông. Nó là con suối mới đúng. Khúc chảy qua Sa Ác, chiều ngang của nó khoảng 40 thước. Bến tắm được quy định một chiều dài khoảng 100 thước. Tù nhân không được phép lội sang bờ bên kia. Khi kẻng tan lao khuya, vệ binh canh pḥng tù tắm giặt đă bố trí trung liên nạp đạn trên bờ. Ít nhất năm ổ trung liên. AK không kể. Vệ binh sẵn sàng khạc đạn nếu tù nhân leo lên bờ bên kia. Mùa nước lũ, có một hàng rào kẽm gai, giăng từ lúc sông cạn, đề pḥng tù trốn trại bằng cách theo ḍng nước chảy xiết mà ra đi. Ở chỗ hàng rào, cái đăng đón cá tù, vệ binh ngồi gác. Vệ binh được phép bắn chết tù nhân trốn trại. Tôi chưa thấy tù nhân nào trốn trại dưới sông, mùa nước lũ. Người ta sợ chết sặc khi vướng rào kẽm gai. Nước chảy xiết, tù nhân dính rào kẽm gai như cá dính mắt lưới. Bởi thế, mùa nước lũ, tù nhân chỉ tắm sát bờ sông. Nhiều người xách nước lên bờ tắm gội. Mùa nước lũ, tù nhân được uống “cà phê sữa”, tức là nước sông ngầu phù sa không đánh phèn, cứ “nguyên chất” mà đun sôi. Chúng tôi đă uống đất rừng, lá mục, xác thú chết trong những ca “cà phê sữa” suốt mùa mưa lớn. Uống nước phù sa đun sôi không thú vị bằng uống Coca Cola, Sprite, Pepsi, Fanta, sữa tươi nhưng, quả thật, phù sa đă bồi dưỡng cho cảm hứng sáng tác của tôi. 

Năm 1979, tôi 44 tuổi. 44 tuổi tôi được soi sáng ư nghĩa của đời sống qua h́nh ảnh con gọng vó bơi ngược ḍng nước lũ. Con gọng vó bé nhỏ, yếu đuối, hèn mọn sống trong ḍng mà không chịu xuôi ḍng. Luôn luôn nó ngược ḍng. Sự phấn đấu chạy ngược ḍng của nó thật cô đơn, thật lăng mạn và thật dũng cảm. Chắc chắn, đă không ai theo dơi cuộc chiến đấu với bản thân của con gọng vó. Chắc chắn, đă không ai hiểu nổi tâm sự của con gọng vó. Nó chính là người nghệ sĩ sáng tạo phản kháng, kẻ không chấp nhận theo ḍng, xuôi ḍng. Nó không thích bị cuốn xoáy xuôi ḍng. Giữa con gọng vó và củi mục, thú chết. lục b́nh, tôm cá là một khác biệt. Tôi phải cám ơn cộng sản đă bắt tôi, đă đầy đoạ tôi. Nhờ thống khổ, tôi được con gọng vó soi sáng niềm bí ẩn của đời sống. Ít ra, nó đă giúp tôi cảm hứng viết bài thơ:

 

Như con gọng vó

 

 

Nỗi thống khổ dạy anh những điều khôn ngoan

 

Dạy anh giải tỏa niềm ẩn ức

 

Dạy anh gieo trồng hạnh phúc

 

Dạy anh nh́n rơ anh hơn

Nỗi thống khổ không dạy anh căm hờn

Không dạy anh phản phúc

Không dạy anh làm điều ô nhục

Không dạy anh tuyệt vọng chán chường

Nỗi thống khổ dạy anh bơi lội ngược ḍng

Như con gọng vó

 

 

Đừng bao giờ than thở

 

V́ hệ lụy điếc câm

 

Nỗi thống khổ soi sáng anh mọi sai lầm

 

Dẫn anh vào trái tim nhân loại

Hăy là con đại bàng vươn cánh soải

Và thương loài chim sẻ léo nhéo bờ tường

Bởi sức nó chỉ để bay mái nhà này sang mái nhà khác

Nỗi thống khổ không dạy anh những điều gian ác

Chỉ dạy anh chịu đựng nhín nhường

Dạy anh khoan dung và cao thượng luôn luôn

Dạy anh tha thứ kẻ đă đầy anh xuống địa ngục

Nỗi thống khổ dễ ǵ ai cũng một lần gặp

Nên giữa anh có khoảng cách với cuộc đời

Anh cô đơn

như con gọng vó

ngược ḍng bơi

 

 

Duyên Anh

 

(Thơ Tù, Nam Á Paris, 1984)

 

 

 

Tôi trở về cái bến tắm sông Ray. Tù nhân khắp các hiện trường lao động lũ lượt đổ về bến tắm duy nhất của Sa Ác B. Xuất trại, tù nhân phải ăn mặc chỉnh tề. Nhập trại, có thể cởi trần, mặc quần xà lỏn ướt. Từ băi lao động về bến tắm, tù nhân cởi trần. Đến bến tắm, tù nhân trần truồng nhào xuống sông. Đội nào tới trước tắm trước. Tắm trước, nước c̣n trong, đến sau, tắm vào lúc cả chục đội chen chúc nhau một vũng nước sâu, bùn bị khuấy đen ng̣m, cá cũng ngộp thở! H́nh tưởng đám ṛi lúc nhúc dưới hầm phân. Tù nhân dưới khúc sông quy định cũng thế. Đội trưởng và Đội phó thay phiên nhau tắm nhanh lên vội. Khi vệ binh ra lệnh bảo đội lên, Đội trưởng hú lớn cho đội lên tập họp, điểm số. Đội 21 nông nghiệp của Đằng Giao có một tù nhân xuân thu nhị kỳ tắm gội. Đó là Hùng nhí, figurant mà Đằng Giao chọn lựa cho đạo diễn Hoàng Anh Tuấn. Hùng nhí, 22 tuổi, lùn t́, nhỏ xíu, thứ gà đẹt. Nó có khuôn mặt hao hao Dracula. Răng rụng gần hết. Hùng nhí can tội…gián điệp ! Theo “truyền kư lao cải”, Hùng nhí được ông tướng Dư Quốc Đống nhận làm con nuôi, cho mặc quân phục nhẩy dù và thường cho nó ngồi cạnh trên xe jeep của ông. Hùng nhí trở thành lính dù danh dự sau khi nó giúp lính nhẩy dù khám phá hầm vũ khí của Việt cộng, hồi Mậu Thân, ở ngă tư Bẩy Hiền. Nó bị bắt ngay đêm 30-4-1975. Hùng nhí lưu lạc các trại Suối Máu, thành ông Năm, Đồng Ban, Trảng Lớn. Rồi về Sa Ác A. Rồi vào Sa Ác B. Người ta thầm th́ Hùng nhí là “ăng ten” ở đâu đó. C̣n ở Sa Ác B, cả ngày nó nằm vơng ni lông ngủ th́ co róm. thức th́ khóc. Nằm nhà buồn, nó t́nh nguyện ra băi chơi cho vui. Không ai bắt nó lao động cả. Nó không có răng nhai bo bo nên nói rất ít. Nó lại nằm lỳ một xó, lười đi lại. Thế mà người ta nỡ chụp mũ “ăng-ten” lên đầu nó, một thằng sinh ra đă hẩm hiu bất hạnh!

 

V́ Hùng nhí không tắm nên Đẳng Giao giao cho nó trách nhiệm hú đội lên tập họp. Hùng nhí làm tṛn trách nhiệm. Nó chụm hai bàn tay vào miệng thay loa, mặt nhăn nhúm, há rộng mồm nghiến răng mà hét “Đội 21 lên!”. Khuôn mặt nó, lúc ấy, vừa bi thảm vừa hăi hùng. Đằng Giao muốn ống kính của đạo diễn Hoàng Anh Tuấn thu riêng khuôn mặt Hùng nhí thật lớn. Tiếng hét của nó vừa dứt th́ ống kính quay xuống sông. Tù nhân trần truồng lên bờ. Các đội khác vẫn ngụp lặn dưới nước bùn.

 - Được chứ, ông thầy?

 

 

 

- Độc đáo ra phết.

 

 

- Khán giả sẽ thấy cả sự gầy ốm lẫn ghẻ lở, hắc lào và những khẩu cà nông nhiều năm không khạc đạn! Tôi chưa nghĩ ra tên cuốn phim.

 

 

- Sông Ray phẫn nộ.

 

- Hay đấy.

 

- Tôi lại nghĩ cả đến màn tập họp lao động. Màn này làm générique cho phim cũng tuyệt cú mèo.

 

 

Đúng thế. Không có cảnh nào bi đát hơn cảnh tù nhân tập họp buổi trưa chờ gọi đi lao động. Trước hết, nói về nón mũ. Nón lá mới, nón mê là thường. Nón cối cộng sản là thường. Nón cao bồi Tểch- xa, nón lính Tân-tây-lan là thường. Nón sắt quân đội Mỹ là thường. Mũ nồi của các binh chủng tầu ḅ, nhẩy dù, thủy quân lục chiến là thường. Mũ cói là thường. Một thứ mũ cắt bị cói ra khâu thành mũ lao cải mới lạ mắt. Riêng loại mũ này cũng cả vài chục kiểu. Chưa có trại tập trung nào phong phú mũ như trại tập trung khổ sai lao động của cộng sản. Có tù nhân lười, chụp luôn cái bị lên đầu. Rất tiện. V́ buổi chiều về có thề đựng củi hay đựng vài thứ rau rừng… Các ông lái mũ ở xóm lầy Orange County, ở công ty kháng chiến hải ngoại, ở hợp tác xă giải phóng lưu vong, ở liên minh dân chủ cà chớn và, đặc biệt, ở tiệm của ông Trần Tam Tiện quận 7 Paris, ở tiệm của ông Nguyễn Ăn Kaka thành phố Bruxelles, chắc chắn, chưa hề nh́n thấy nón mũ lao cải. Cho nên, quư ông ấy hơi ngu. Là cứ nhè những thằng đă đội mũ lao cải mà chụp mũ cộng sản, mũ “ăng-ten”. Mũ của quư ông ấy ghi rơ made in USA, made in France, made in Belgium nhưng quên không ghi thêm made by Đào Ngũ, made by Đào Nhiệm, made by Đào Tẩu, made by Đánh Mướn, ma e by Lănh Lương Lạc Quyên. Vân vân… Tôi thấy cần khuyên các ông lái mũ thuộc thành phần đào ngũ và thuộc thành phần nhớp nhúa ở xă hội Việt Nam Cộng Hoà không nên làm nghề chế tạo nón mũ. Cái thứ mũ các ông đang đội lên đầu ḿnh là thứ mũ nặng tội nhất, hèn hạ nhất, không dễ ǵ lột ra vất đi nổi: Mũ đào ngũ. Mũ này nó hằn sâu vào sự nghiệp bẩn của các ông, dẫu có ông đă là tiến sĩ. Vậy muốn giương danh tiến sĩ lỏi, nên bỏ nghề chụp mũ và tự truy nă bản thân ḿnh mà tu tỉnh cho nên người.

 

 

Bây giờ nói về giầy giép lao cải. Giầy bố, giày da quân đội, giầy vải, giép Nhật made in Chợ Lớn, giép râu đă tập họp đầy đủ ở trại lao cải. Tại Sa Ác B, sĩ quan quân đội biên chế riêng thành các đội chỉ có sĩ quan, sĩ quan cảnh sát biên chế riêng, công chức tŕnh diện học tập biên chế riêng và phản động biên chế riêng. Quân đội của ta thà mang giầy ṃn vẹt, há mơm chứ nhất định không thèm xỏ chân vào giép râu. Giép râu có nhiều ở các đội công chức, phản động và h́nh sự. Các đội h́nh sự đoạt kỷ lục chân đất. Khi các đội đứng hết dậy, ống kính máy quay phim thu từ đầu gối xuống là thấy đủ ngh́n vẻ phong sương của ngh́n đôi giầy giép. Đảng và nhà nước cộng sản bóc lột tàn bạo. Mỗi năm tù nhân chỉ được phát một bộ quần áo. Mũ nón, giầy giép phải…khắc phục! Do đó, tù nhân đă vá giầy, khâu giép mà vào rừng gai phát quang.

 

 

Đến quần áo lao cải th́ bất hủ. Vá chằng vá đụp, vá đủ thứ mụn, đủ thứ mầu. Vá đè lên dấu tù. Quần áo lao cải, có khi, chẳng thèm giặt. Cứ nhất bộ nhất bái dầm mưa, giăi nắng. Nếu gia đ́nh không gửi quần áo vào, tù nhân sẽ trần truồng thực hiện khẩu hiệu “Lao động là vinh quang”. Và, lúc ẩy, tự mỗi tù nhân sẽ t́m ra ư nghĩa tuyệt vời của khẩu hiệu: “Lao động là thước đo giá trị của con người”.

 

 

- Lấy đầu tù, ḷng tù và chân tù làm générique.

 

- Hay lắm.

 

- Vào phim là cảnh tù nhân trốn trại bị trói, mặt mày sưng vù, máu khô dính mép, đứng nghiêm nghe đọc quyết định kỷ luật “Cộng Hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam. Độc lập, tự do, hạnh phúc”…

 

 

- Đểu quá, đểu quá!

 

- Thoát ra, sang Mỹ, ông thầy nên thực hiện phim Sông Ray phẫn nộ.

 

- Cứ ước mơ đi.

 

Tôi đă ước mơ, ước mơ thật nhiều năm tháng cơ cực trong tù. Ước mơ cho tôi hy vọng. Hy vọng cho tôi can đảm sống đời tù. Tôi đă thoát ra, sang Pháp, chưa sang Mỹ. Tôi không có ư định sang Mỹ nữa. Bây giờ, tôi ước mơ chóng chết. V́ ước mơ tôi mang ở 3 nhà tù, 2 trại tập trung khổ sai lao động ra, tôi mang theo nó lênh đênh biền cả, gian khổ chập chùng, tôi đưa nó lên đảo Poulalu Bidong lầm than và nó đă bị cháy đen từ tôi nh́n rơ thế giới tự do và đồng bào tôi và đồng nghiệp tôi và bằng hữu tôi lưu vong. Quả thật, ước mơ hay ước vọng của tôi đă là ảo vọng bùi ngùi. Tôi đành ước mơ chóng chết. Nhưng ước mơ chóng chết cũng khó như ước mơ thực hiện một cuốn phim nói lên trọn vẹn và trung thực nỗi thống khổ của tù nhân Việt Nam ở trại tập trung khổ sai lao động của cộng sản sau cái gọi là ḥa b́nh của chiến tranh ư thức hệ. Những ngày nằm tù, tôi đă ngây thơ nghĩ:

 

 

…Cái tiểu ngă nhập vào đại ngă

 

Nỗi thống khổ chẳng riêng ai chịu nữa

 

Nó đè lên vai cả dân tộc, cả thế giới chứng minh

 

Nó trong giọt nước mắt già và trên ngọn tóc xanh

Nó ở cuộc đời thênh thang và ngục tù tăm tối

Nó ở ban mai kinh nguyện cầu, nửa đêm kinh sám hối

Ở hồi chuông cáo phó

ở tiếng khóc chào đời

Nó gầm gừ đe doạ dài dài

Sau mỗi hoà b́nh của chiến tranh ư thức hệ

Nó là tham lam, ích kỷ

là kiêu căng ngu xuẩn, là độc ác dối gian

Nó xui Việt Nam tàn nhẫn với Việt Nam

 

 

Và bắt nhân loại phải rời xa nhân loại

 

 

 

Không, nỗi thống khổ vẫn chỉ riêng tù nhân và thân nhân của họ phải chịu. Cái tiểu ngă không bao giờ nhập vào cái đại ngă. Cái tiểu ngă của đồng bào tôi ngoài nước Việt Nam càng không bao giờ nhập vào cái đại ngă. Nếu tôi đă không ngây thơ câu này đúng nhất “Việt Nam tàn nhẫn với Việt Nam”. Đừng trách cộng sản Việt Nam tàn nhẫn với người Việt Nam. Hăy hỏi xem người Việt Nam tị nạn ở Mỹ có tử tế với người Việt Nam tị nạn? Hỏi đi! Hỏi đi! Người ta mở rộng túi đóng thuế cho thảo khấu kháng chiến 10 triệu đô la. Người ta đă quyên tặng Hội y sĩ thế giới được bao nhiêu đă làm phương tiện cứu vớt đồng bào của người ta đói khát, sợ hăi giữa đại dương mà hải tặc ŕnh chờ hăm hiếp, cướp bóc, chém giết? Không c̣n ǵ mỉa mai hơn Hồng Kông thực hiện phim Boat People và sự giúp đỡ của Trung cộng. Hồng Kông tŕnh bầy giùm dân tộc Việt Nam nỗi thống khổ đ̣i đoạn nhất của thời đại với loài người hôm nay và mai sau. Người Việt Nam không nói được tâm sự của dân tộc ḿnh? Có đấy chứ, những vidéo cóc nhái bôi nhọ nghệ thuật, những cuộc thi hoa hậu quốc sỉ, những phim ảnh dơ dáy luộc lại… Một phim lớn về Thuyền Nhân dũng cảm Việt Nam? Không có. Không bao giờ có cả. Bởi v́ 5 đô la quá nhỏ để 1 triệu người góp thành 5 triệu đô la và quá lớn để uống coca, hút thuốc lá. Tôi lấy làm xấu hổ khi thấy Siêu thị Tang Frères ở quận 13 Paris mở chiến dịch Sampan lấy tiền giúp Hội y sĩ thế giới, trong ṿng ba tháng, số tiền cứu vớt thuyền nhân gấp mấy lần người Việt Nam đóng góp trong ṿng ba năm. Tôi đâm ra cụt hứng, không dám động chạm tới sự hờ hững của nhân loại đối với dân tộc tôi nữa. Ấy là tôi đă quên cái thân phận tầm thường của tôi, c̣n nằm trong ngục tù đă bị vài người Việt Nam… nhà văn, nhà báo đánh dập, đánh vùi và vừa đặt chân lên “đất hứa” bị đánh tới tấp, đánh tối tăm mặt mũi. Tôi có ra ngoại quốc để tranh giành quyền bính, quyền lợi ǵ đâu? Quyền lợi chính đáng của tôi bị xâm phạm, bị tước đoạt, có nhà văn, nhà báo nào bênh vực? Th́ thôi. C̣n chữ nghĩa, ai có nhiều người ấy viết, bầy đặt vít rào, cản lối nhau làm chi nhỉ? Chỉ riêng nghĩ đồng nghiệp bằng hữu của tôi, tôi đă lợm giọng. Và sự lợm giọng khiến ước mơ trong tù của tôi cháy khét.

 

 

Nhưng rồi tôi vẫn viết cho đồng nghiệp cũ và lại bị ăn quỵt nữa. Người ta bêu nhục tôi chán, người ta ăn quỵt công lao và tiền cước phí của tôi. Và đó là Lẽ Phải của nhân sinh quan mới, thứ nhân sinh quan liêu mong triệu năm vẫn khó ḷng phục quốc.

 

 

 

Tôi đă tiếc ḿnh không chết ṃn trong nhà tù cộng sản. Như thế hạnh phúc bao nhiêu. Ước mơ của tôi không bị thắt cổ. Cho đến lúc nhắm mắt, tôi vẫn nghĩ bằng hữu ḿnh ở Mỹ chung thủy lắm, không có thằng nào phản phúc cả, không có thằng nào bỉ ổi cả.

 

 

 

C̣n đồng bào của tôi trưởng thành cả, tốt đẹp cả, không ai thèm vào quốc tịch Mỹ v́ sắp về giải phóng quê hương đến nơi rồi. Báo chí Việt Nam hải ngoại rực rỡ. Các nhà văn, nhà thơ lưu vong đều năm bẩy tác phẩm dịch Anh ngữ do các nhà xuất bản lớn ở Nữu Ước ấn hành, Tây, Tầu, Pháp, Nhật, Ư, Đức xin dịch ầm ầm. Có nhà văn chuẩn bị lĩnh giải Nobel văn chương. Nhất định không có thảo khấu kháng chiến. Các tướng lănh, đại tá quan trọng đều viết tự khai tham nhũng, nhận tội đào ngũ và xin hồi hương để ra hầu ṭa án Quân Sự. Các nghị sĩ, dân biểu viết thư về nước xin lỗi cử tri và cam kết không ra ứng cử nữa. Các tổng trưởng, thủ tướng theo chân tổng thống lên chùa quy y, phát nguyện kiếp sau xin làm bọ hung, làm chó. Các linh mục hối hận chuyện bỏ con chiên di tản và vượt biên. Các thượng tọa đại đức không bầy tṛ thùng sương và rút hết tiền ngân hàng ra phát chẩn. Linh mục và thượng tọa nào lỡ cho vay tiền xanh xít đít đui, gọi hết con nợ tới., thiêu hủy văn tự. Vân vân và vân vân…

 

 

 

Ước mơ của tôi tuyệt vời thế mà bị thắt cổ. Chỉ tại tôi đă không chết rũ trong tù và ḷ ḍ sang… thế giới tự do, thế giới “tham lam, ích kỷ, kiêu căng, ngu xuẫn, độc ác, dối gian” từ ở trại tị nạn cộng sản. Nhưng mà…

 

 

 

Ta đến đây đành ở lại đây

 

Cuối đời thấm thía kiếp lưu đầy

 

Nghẹn ngào sách vở từng trang mục

 

Chữ nghĩa vèo bay như lá bay

Những tưởng tài năng vần thế cuộc

Nào ngờ tai họa giáng tê vai

Đường người chó sói nhe răng nhọn

Nghe buốt đau thương cả đế giày

Vàng thau lẫn lộn phiền than lửa

Ngọc đá ganh đua rộn giũa mài

Bùn khuấy thờn vơn khoe gặp vận

Tép tôm hí hửng nhẩy tranh tài

Cá sấu chưa cười rung tiệc máu

Kên kên vẫn khóc rỉa moi thây

Hỡi ơi dâu biển và dâu biển

Ta đến đây đành ở lại đây

 

 

 

Giả câm giả điếc xem tuồng cũ

 

Đào kép hiêu hiêu lũ cáo cầy

 

Vôi trắng vôi vàng vôi lốm đốm

 

Mặt mày nham nhở dối lừa ai

Bọ gậy ngo ngoe tṛ cách mạng

Ruồi xanh bu rối rít khen hay

Học đ̣i Câu Tiễn nuôi thù hận

Chí lớn xem chừng cái móng tay

Răng rụng trống tung c̣n hám lợi

Thân lươn lănh tụ đắm mưa lầy

Hư danh gạt gẫm phường khoa bảng

Nguyệt mộ khơi rồi chửa tỉnh say

Đeo mo mấy đứa buôn dân tộc

Cứu nước khom lưng truống chủ thầy

Nỗi buồn quốc sỉ Lê Chiêu Thống

Gươm giáo Quang Trung có thở dài

 

 

 

Đă ngỡ ngh́n xưa Trần Ích Tắc

 

Ngh́n sau nhan nhản bọn tay sai

 

Hỡi ơi dâu biển và dâu biển

 

Ta đến đây đành ở lại đây

Thiếu kiếm bạt non Tôn Thất Thuyết

Lấy thơ ta lấp kín sầu mây

Mong ǵ Giới Tử Thôi dâng thịt

Ai kẻ cầu sương điếm cỏ đây

Đất khách cùng đồ buông hiện tại

Quê người mạt vận bỏ tương lai

Vo ve nhặng ốm quanh sơ mít

Inh ỏi gà què quẩn cối xay

Đỉnh chung cơi tạm cao hơn núi

Sĩ khí lưu vong thấp gót giầy

Ôi cái phương danh mà định nghĩa

Cơ hồ giảm giá vị chua cay

 

 

 

Đầu lưỡi văn nhân ph́ nọc rắn

 

Đáy tim thi sĩ vút dao bay

 

Thế nên đĩ điếm thầu văn nghệ

 

Trọc phú đầu tư núp áo dài

Yêu nước ngứa nghề anh bếp Mỹ

Thương ṇi đú đởn chú bồi Tây

Hỡi ơi dâu biển và dâu biển

Ta đến đây đành ở lại đây

Thẹn v́ cơm áo ṃn khinh bạc

Rượu đốt thời gian lũng dạ dầy

Vó ngựa giao vành đêm mộng hăo

Hồn hoang nhức nhối gió heo may

Máu đă úa khô đường phát văng

Cung tên đố kỵ ngắm nhau hoài

Ngỡ đau giăi mũ Hàn Phi Tử

Ai đưa Lư Tư mảnh đất này

 

 

 

Học đ̣i lối gă Công Tôn Át

 

Rồi sẽ ḿnh dao đâm thối thây

 

Xá chi đỉa đói đeo chân hạc

 

Mà luận công danh gă rạc rài

Đâu phải bây giờ sông mới lấp

Đă từng cát bụi khóc thiên tai

Th́ thôi chả trách b́m leo dậu

Cây cỏ luân hồi vẫn cỏ cây

Cố quận cha già căng mắt đợi

Viễn phương hạnh ngộ cứ hao gầy

Hỡi ơi dâu biển và dâu biển

Ta đến đây đành ở lại đây

Dao cùn múa măi bài vong quốc

Ngơ ngẩn như chiên bị lạc bầy

Thời đă thu không hồi trống điểm

Giật ḿnh tóc gẫy xuống ngày mai

 

 

Khương Tử Nha đâu bờ Vị Thủy

 

Phong thần bảng ấy có hôm nay

 

Bồi hồi tiếng thét xô hung Trụ

 

Lửa thắp chiêm bao một giấc đầy

Mộng ảo chẳng no cơn biệt xứ

Đ́u hiu nghịch cảnh khép ṿng vây

Con chim trốn tuyết về chưa nhỉ

Ta măi cô đơn giữa chốn này

Gươm gỗ làm sao mài dưới nguyệt

Mà đ̣i sông núi nặng hai vai

Mưu sinh chữ nghĩa gầy tư tưởng

Tỳ vết kiêu sa vẹt tháng ngày

Ngùi trông cố quốc t́nh hong muối

Héo hắt tài hoa tâm sự phai

Thiếu kiếm bạt non Tôn Thất Thuyết

Lấy thơ ta lấp kín sầu mây

 

 

Ai trước Hồ Trường chưa rót cạn

 

C̣n nghiêng bầu hẹn một người say

 

Hỡi ơi dâu biển và dâu biển

 

Ta đến đây đành ở lại đây

 

 

Duyên Anh

 

(Bài lưu đầy, 1987 trong tập thơ Em, Tôi, Sàig̣n và Paris)

 

 

Đành ở lại đây đợi chết ṃn chứ biết tính sao bây giờ. Tâm sự buồn bă của hoàng hôn đời tôi được tôi diễn tả:

 

 

Ta đến một ḿnh không có Moise

 

Chân hoang ch́m lún giữa truông đời

 

Đào sâu đất hứa chôn tâm sự

 

Rượu cháy phồn hoa yêu nữ ơi

 

 

Ta đến một ḿnh không có em

 

Mùa tàn, đất nẻ, bặt lời tim

 

Hồn oan sa vũng bùn luân lạc

 

Thoi thóp hoàng hôn, mỏi cánh chim

 

 

Ta đến một ḿnh không có ai

 

Gập ghềnh địa nạn, dốc thiên tai

 

Thế gian vùi ngủ quên hồng thủy

 

Thuyền vắng Noé, nước ngập đầy

 

 

Ta đến một ḿnh ta với ta

 

Bỗng dưng thương ngục đá đêm già

 

Cuối đường hiu hắt chiều giăng mắc

 

Thấp thoáng hồ ly đốm lửa xa

 

 

Duyên Anh

 

(Ta và Ta, 20-12-86 trong tập thơ Em, Tôi, Sàig̣n và Paris)

 

 

Và sau hết:

 

 

Chẳng hẹn mà thành khách viễn phương

 

Cũng rằng non nước dục lên đường

 

Dấu giầy lữ thứ hằn lưng cát

 

Áo bạc ḥa hoa nát gió sương

 

 

Chấp kích lang cười khinh Hạng Vơ

 

Đêm ṃn đợi kiếm báu Trương Lương

 

Đời không có kẻ nhường xe ngựa

 

Chậm bước tiên phong muộn chiến trường

 

 

Nghĩ giận thế thời con mắt đóm

 

Ngọc nằm bất động giữa văn chương

 

Hỡi Cao Bá Quát trùm thiên địa

 

Một nhát gươm vung rớt mộng cuồng

 

 

Vương đạo trái mùa thương Vệ Ưởng

 

Nghẹn ngào tư tưởng lănh tai ương

 

Xác xơ chữ nghĩa gầy nghiên bút

 

Rượu ngút trời thiêu giấc bá vương

 

 

Trả lại phong trần cho bụi đỏ

 

Lênh đênh sông hẹp bỏ trùng dương

 

Chiều nay ta thấy ta rời ră

 

Nhan sắc hồng lâu nguội phấn hương

 

 

Duyên Anh

 

(Bài Ta, 1987 trong tập thơ Em, Tôi, Sàig̣n và Paris) Với tâm sự ủ ê như thế, thật sự tôi chẳng thiết ǵ cuộc sống lưu vong vô vọng. Tôi đă 53 tuổi, chết là vừa. 53 tuổi, tôi đă trải đời tôi theo vận mệnh của đất nước tôi.

 

10 tuổi tôi đi đếm xác người quê hương tôi chết đói trên vỉa hè, dưới gầm cầu. Tôi đă mở to đôi một nh́n con người chết đói từng giây. Chết thật nhanh. Tôi đă thấy người mẹ chết, đứa con nhay vú mẹ rồi chết theo. 10 tuổi, tôi chứng kiến Nhật đảo chính Tây, chứng kiến kiếm thép to bản của giặc lùn chặt đứt bàn tay của những đứa bé bằng tuổi tôi nghèo đói, ăn cắp thóc nuôi ngựa Nhật; tôi chứng kiến cách mạng 19-8-1945 và tôi chạy theo cách mạng mà ḥ hét mà sung sướng.

 

11 tuổi tôi nh́n Tầu phù sang nước tôi tước khí giới Nhật. Tôi đă h́nh tưởng quân của Mă Viện, của Ô Mă Nhi, của Trương Phụ, của Tôn Sĩ Nghị.

 

12 tuổi tôi chứng kiến tiêu thổ kháng chiến.

 

 

15 tuổi, tôi chứng kiến giặc Pháp đốt nhà, bắn giết, hăm hiếp đồng bào tôi.

 

 

19 tuổi, tôi chứng kiến giặc Pháp thua, quân ta chiến thắng. Và cũng 19 tuổi, tôi làm chuyến phiêu lưu quá xa với tuổi tôi và thời của tôi. Tôi lại chứng kiến cách mạng nhân vị phản phúc, chứng kiến loạn sứ quân tân thời, chứng kiến đảo chính, chứng kiến thoán nghịch, chứng kiến chiến tranh tàn phá đất nước tôi. Cuối cùng, tôi chứng kiến cộng sản vào Sài g̣n. Và tôi bị cộng sản giam nhốt 6 năm qua 3 nhà tù, 2 trại lao cải.

 

 

49 tuổi, tôi làm thuyền nhân, nằm ăn mày ân huệ định cư 6 tháng ở nhà tù thế giới tự do. Tôi tiếp tục chứng kiến… Kể ra kiếm một nhà văn lớn dần theo những biến cố chó đẻ của lịch sử và có trí nhớ tốt, biết ghi nhận biết suy nghĩ như tôi cũng hơi hiếm. Rốt cuộc, sang đến Paris, nh́n sang bên bờ Đại Tây dương bên kia, tôi buồn nôn. Vẫn nối tiếp những “biến cố” bắt chửi thề. Tôi hoàn toàn tuyệt vọng dẫu tôi đă sống trọn vẹn với những đau thương của quê hương tôi, của thời đại tôi.

 

 

Rất may, tôi c̣n t́m được một niềm an ủi cuối đời ở một số người tuổi trẻ, những người bạn tuổi nhỏ của tôi. Thế là tôi bèn thèm sống thêm vài năm nữa. Để trao đổi kinh nghiệm sống, kinh nghiệm viết và kinh nghiệm chiến đấu với các bạn tuổi nhỏ của tôi. Tôi thắp sáng một ước mơ mới thay thế ước mơ trong tù đă tắt ngóm.

 

HỒI KƯ TRẠI TẬP TRUNG CẢI TẠO CỦA DUYÊN ANH - KỲ 3

 

 

 

1      2      3      4     5     6

 

CHƯƠNG 10

 

Vụ ngô thu hoạch bết bát nên chúng tôi bị thổi “ác-mô-ni-ca” có hai mươi ngày.ngô, trưa ngô, chiều ngô. Răng đă hư v́ mày của bo-bo, bao tử đă loét v́ mày của bo-bo, bây giờ đến mày ngô vàng, tức là bắp đá. Ngô già luộc cả đêm, cạp muốn rụng răng, nhai muốn lệch quai hàm. Hùng nhí cầm “kèn”, không dám “thổi”. Nó đi xin ḿ vụn sống cầm hơi đợi thu hoạch vụ khoai. Và vụ khoai trúng lớn. Chúng tôi ăn khoai ṛng ră ba tháng. Khoai ăn nóng ruột. Nhưng nhuận tràng. Tù nhân đăng kư… đi cầu tối và sáng sớm. Suốt đêm, đạn tiểu liên chơi ra-phan. Nhuận tràng quen thói hoá tiêu chẩy. Tiêu chẩy biến chứng rất nhanh sang kiết lỵ. Y tế của Sa Ác B chỉ có …Xuyên tâm liên 1. Xuyên tâm liên vô hiệu quả th́ bác sĩ Thạch phát thứ thuốc tiêu chẩn uống cầm ngay nhưng táo bón và kiết lỵ th́ thuốc chích Emitine lạc hậu đă đầu hàng. Khoai ăn liên miên, tù nhân kiết lỵ hơi nhiều, anh em cứ nhè các đội nông nghiệp mà chửi.

 

 

Bác sĩ Thạch kê cái bàn giữa sân trước giờ kẻng báo tập họp lao động. Tù nhân h́nh sự khai bệnh nằm nhà rất đông. Thời gian này. Sa Ác B có thêm một cán bộ trực trại. Ông thầy này tên Nguyễn Tấn Độ. Thầy Độ da ngăm ngăm đen, mắt trắng dă, rất ưa đinh tù h́nh sự. Nét độc đáo của thầy Độ là thầy “phản động” nói ngọng. Toàn thể các đồng chí của thầy Lhóa N. Riêng thầy N hóa L. Đám tù h́nh sự khai bệnh nằm nhà phải ngồi dưới gốc cây gần “pḥng mạch” của bác sĩ Thạch, đợi thầy tới khám bệnh lại. Thầy xăn tay áo, gỡ đồng hồ. Thầy bắt từng tù nhân h́nh sự đứng dậy. Chỉ cần bác sĩ Thạch lắc đầu là thầy đinh tù tại chỗ về tội khai bệnh láo. Nhưng bác sĩ Thạch gật đầu lia. Bác sĩ đă cho nghỉ rồi mà. Tù chính trị thoát cảnh tái khám. Ṛng ră 15 tháng ở Sa Ác B, tôi chưa hề thấy cai tù đánh đập tù nhân sĩ quan cải tạo, công chức cải tạo và phản động, trong trại và ngoài băi. Một vài tù nhân phản động bị đánh th́ đều thuộc thành phần phản động cà chớn, phản động vượt biên. Vượt biên là tù chính trị. Trung gian vượt biên lại là tù h́nh sự. Tôi có cảm tưởng cộng sản đă lố bịch hóa cái nghĩa tù chính trị. Cho nên, thế giới đă lắc đầu v́ con số 1 triệu tù nhân chính trị sau 1975.

 

Phải thành thật nói điều này: Cai tù ở trại lao cải không hề chửi bới tù nhân một cách tục tĩu. không hề dùng roi vọt quất tù nhân, bắt tù nhân lao động. Vệ binh ghét tù nhân nào th́ gọi tới giáo dục Nội quy.

 

- Anh cải tạo mấy năm rồi?

 

- Ba, cán bộ.

 

- Thuộc Nội quy chưa?

 

- Thuộc.

 

- Đọc điều bốn.

 

-”Trại viên phải triệt để tuân hành mệnh lệnh và chỉ thị của cán bộ”…

 

-Tốt.

 

Nó có thuộc nội quy đâu. Mọi điều nó bắt ḿnh đọc, cứ đọc điều một là nó sướng phổng mũi. Đứng đực hay nói không thuộc, sẽ bị nó giáo dục lung tung, giáo dục mỏi chân. Đi lao cải phải thông minh, mồm mép đỡ… học tập. Đi lao cải mà ngu th́ vất vả. Thật thà th́ lại càng vất vả.

 

- Anh bảo tuân hành mệnh lệnh cán bộ sao anh không tuân hành mệnh lệnh tôi?

 

- Cán bộ ra lệnh ǵ?

 

- Tôi gọi anh.

 

-Tôi điếc, cán bộ ơi!

 

- Thế hả? Thôi thông cảm. Có điếu thuốc lá nào không?

 

C̣n quản giáo có quyền tập họp cả đội mà “lên lớp”:

 

- Các anh vô lương tâm, thiếu t́nh cảm gia đ́nh, không chịu cải tạo tiến bộ, ngồi chờ vợ con thăm nuôi.

 

Đó là về lao động lề mề. Đánh nhau, chửi nhau th́ nó “lên lớp”:

 

- Các anh không thương nhau, ai thương các anh?

 

Một tù nhân ăn cắp củ khoai, bắp ngô, trái mướp, nó lên lớp:

 

- Tưởng các anh sĩ quan, trí thức miền Nam là ghê lắm. Các anh cũng ăn cắp. Ăn cắp là xâm phạm tài sản xă hội chủ nghĩa.

 

Sa Ác B không có ai “ăn vụng thịt dưới nhà bếp, ăn tranh phần khoai và cháy của heo” nên tôi không hiểu cai tù sẽ “lên lớp” nhục nhă chừng nào.

 

Tuyệt nhiên, cai tù cộng sản không “đù cha, đéo mẹ” tù nhân lao cải, không “mày tao” và không xử dụng ngôn ngữ mất dậy để mắng mỏ tù nhân.

 

Thầy trực trại Nguyễn Tấn Độ mềm dẻo với tù chính trị bao nhiêu th́ cứng rắn với tù h́nh sự bấy nhiêu. Nhưng thầy không thể cứng rắn với đồng chí Amibe vĩ đại “sống măi trong sự nghiệp” kiết lỵ. Chính thầy đă bị đánh dội ra khi thầy vào nhà kiểm soát nếp sống văn hóa mới. Mùi phân kiết lỵ tanh tưởi. Nhiều tù nhân “con bà phước” kiệt sức không thể lết vào cầu, leo lên bục. Nên hoặc chơi tại chỗ, hoặc chơi dưới sàn nhà. Ruồi nhặng vo ve. Thêm nạn chuột ngày ngao du máng cầu, đêm phiêu lưu chỗ tù nhân ngủ kiếm chác quà thăm nuôi. Chuột đem phân kiết lỵ lên quần áo người ! Chúng tôi đă ăn, uống, hít, thở, ngủ bằng dưỡng khí nặng mùi phân kiết lỵ. Không ai chết cả. Thế mới là phép lạ. Con người bị tiêu hao, xoáy ṃn th́ trông rơ. Sức đề kháng của con người Việt Nam thật kỳ ảo. Bọn Mỹ nằm nhà tù lao cải th́ chỉ có chết.

 

Tuy nhiên, khoai cũng làm khởi sắc nhiều tù nhân hợp khoai. Đám h́nh sự x́ ke, trộm cắp mập mạp trông rơ. Vào thời kỳ “lao động là vinh quang” khoai, tôi nhận được thuốc men, quà cáp của nhóm Amnesty International ở Lannion miền Bretagne, Pháp gửi về địa chỉ gia đ́nh tôi. Con tôi thăm tôi cho biết AI đang ráo riết can thiệp cho tôi được trả tự do. Tôi b́nh tĩnh chờ đợi ngày cộng sản phải thả tôi ra. Cũng vào thời kỳ này, Sa Ác B xuất hiện một “nhân vật” cai tù quan trọng: thầy giáo dục Mai Sơn. Công tác đầu tiên của Mai Sơn là thử tài vẽ của Đằng Giao và Nguyễn văn Thương, giáo sư trường Mỹ thuật. Đằng Giao bị chê vẽ thiếu phẩm chất. Anh ta cố t́nh bôi bác để khỏi bị vẽ. Nguyễn văn Thương được chấm. Tác phẩm của Nguyễn văn Thương cảm hứng từ khẩu hiệu thi đua: vượt cờ xanh. giành cờ đỏ, bỏ cờ trắng. thắng cờ vàng được thể hiện trên cái paneau to tướng dựng trước mặt tù nhân khi ngồi tập họp lao động. Nó như vầy: Xe cải tiến biểu tượng của cờ xanh, xe vận tải biểu tượng của cờ đỏ, máy bay phản lực biểu tượng của cờ trắng, hỏa tiễn biểu tượng của cờ vàng. Tôi hiểu sự xỏ lá kềnh của Nguyễn văn Thương. Cờ đỏ cộng sản mới chỉ là xe vận tải. Cờ vàng quốc gia mới là hỏa tiễn. Anh Thương đưa ư kiến, Mai Sơn “nhất trí”. Và tù nhân khoái chí.

 

Công tác thứ hai của Mai Sơn là thực hiện một ngày lao động xă hội chủ nghĩa liên khu ABC mở con đường từ cầu sông Ray ra Long Khánh. Ngày lao động xă hội chủ nghĩa là ngày chủ nhật. Mai Sơn phát động thi đua giữa ba khu ngày đó. Vậy cần tin tức nóng hổi để phát thanh tại chỗ gây khí thế lao động. Nó lập ban văn nghệ khẩn trương, rồi nó gọi Phạm Long và tôi “làm việc” với nó:

 

- Anh nào là Phạm Long?

 

- Tôi.

 

- Anh đă cộng tác với đài phát thanh nào?

 

- VOF.

 

- Đài địch hả?

 

- Đài Tiếng Nói Tự Do.

 

-Tự do mẹ ǵ, phản động nặng! Anh làm cái ǵ?

 

- Tôi viết tin và đọc.

 

- Anh nói cách đọc tin của anh cho tôi nghe?

 

Phạm Long mỉm cười:

 

- Th́ nói như tôi đang nói.

 

Mai Sơn bĩu môi:

 

- Thế mà địch nó cũng thuê anh?

 

Nó quay sang tôi:

 

- Anh chắc là Duyên Anh rồi?

 

Tôi đáp:

 

- Phải.

 

- Bao nhiêu năm tay nghề báo?

 

- 15 năm.

 

- Báo lá cải hả?

 

- Lá cải.

 

-Bao nhiêu năm tay nghề tiều thuyết.

 

- 15 năm.

 

- Tiểu thuyết ba xu chớ mẹ ǵ! Anh biết làm thơ không?

 

- Biết.

 

- Anh có biết mắt của thơ không?

 

- Không.

 

- Mỗi bài thơ đều có mắt đấy.

 

Tôi không đủ can đảm để hỏi ông thầy giáo dục Mai Sơn, đại diện của Tố Hữu, ngoài mắt, thơ có mũi, miệng, tai, rốn và hậu môn?

 

- Anh biết viết tin không?

 

- Biết.

 

- Tin ngắn và tin dài khác nhau thế nào?

 

Tôi chợt nhớ Thanh Tâm Tuyền nói về truyện ngắn, truyện dài. Bèn trả lời:

 

- Thưa cán bộ, tin ngắn là tin không phải tin dài và tin dài không phải là tin ngắn.

 

Nó quác mắt:

 

- Anh dở tṛ phản động cộng lưu manh hả?

 

Rồi nó đuổi Phạm Long và tôi về. Nó nhún vai rất ngạo mạn:

 

- Sài g̣n không có tài năng!

 

Thầy tu Phạm Long khoác tay lên vai tôi:

 

- Đ.m. cộng sản con hỗn hơn cộng sản ông nội. Nó dạy sư tổ nó cách viết tin cắc ké và đọc tin bằng Ô-pạc-lơ xách tay! Anh buồn không?

 

Tôi cầm tay Phạm Long:

 

- Cậu sẽ kể kỷ niệm này cho Phạm Hậu, Phạm Huấn nghe. Chúng nó sẽ cười vỡ nước Mỹ.

 

Mai Sơn khoái tṛ bầy hương án sáng chủ nhật. Nó nói về kinh tế, xă hội, chính trị miền Nam. Thằng này mang quân hàm thượng sĩ. Hễ mở miệng nói về văn hóa. Nó không quên tôi: “Văn hóa miền Nam toàn bọn nhà văn lá cải, thí dụ tiểu thuyết ba xu của Duyên Anh”. Một hôm nó nói về pḥng Hạnh Phúc 2 nằm trong nhà thăm gặp. Nó bảo tù nhân nào xuất sắc đoạt giải thi đua lao động sẽ được ngủ với vợ suốt một đêm và miễn lao động hai ngày. Nó đem vợ tù nhân ra treo giải thưởng và ban ân bố đức. Nó thi hành chính sách đốn mạt của Đảng nó.

 

Pḥng Hạnh Phúc, cái pḥng khốn kiếp này, chỉ dành cho tù nhân phụ trách thăm nuôi, y tế trật tự, văn hóa. Mà Sa Ác B có một tù nhân chính trị duy nhất được làm y tế: bác sĩ Thạch. Mai Sơn nham nhở như Amibe. Nó thao túng Sa Ác B nhờ có thầy đỡ đầu ở Bộ nội vụ. Nó qua mặt giám thị Hiểu. Mai Sơn c̣n khoái tṛ tổng vệ sinh chủ nhật. Nó huy động vệ binh, quản giáo bắt tù nhân đem hết chổi cùn dế rách ra sân, lục tung hành lư kiểm tra tỉ mỉ. Lúc ấy, sân trại là chợ trời.

 

Nhưng mà “tác phẩm” đáng kể của nó là xây một cái hồ chứa nước mưa bằng đá. Bốn đội bị động viên xuống sông Ray vác đá tảng lên bờ. Có đội của tôi. Tháng 11 đă lạnh lắm. Buổi sáng đầy sương mù. Ra băi lao động, chúng tôi thường sưởi ấm ở những gốc cây đốt c̣n hồng rực than. Thế mà chúng tôi phải trần truồng lặn xuống sông Ray móc đá trôi tới tự kiếp nào bê lên xếp đống trên bờ. Cho cai tù có nước mưa trong mùa nước lũ. Tôi sẵn bệnh bao tử, thêm bệnh dị ứng da. Hễ dầm mưa một lát, y rằng mu bàn tay đỏ ửng, ngón tay ngứa ran rồi mông, đùi ngứa ran. Tôi đă lặn dưới nước những sáng mùa đông. Bệnh dị ứng da của tôi sợ… tự kiểm, hết dở chứng! Tưởng đă sưng phổi. Tôi chả hiểu tại sao chúng tôi không có ai bị sưng phổi. Lạnh nó bắt đói. Đói nó làm lạnh gia tăng. Vài cục đường chẳng đủ chống lạnh. Tôi mới thấy h́nh phạt của thù hận gớm ghiếc quá. Một tháng lặn sông ṃ đá th́ cũng như tổ tiên ḿnh đă “xuống biển ṃ ngọc trai”. Có lẽ, đau xót hơn tổ tiên, v́ chúng tôi bị ṃ đá giữa kỷ nguyên “độc lập, tự do, hạnh phúc”, kỷ nguyên “không c̣n người bóc lột người”, kỷ nguyên “tôn trọng con người”, kỷ nguyên của “chủ nghĩa ưu việt, , của “ḥa giải dân tộc”, kỷ nguyên của người Việt Nam đối xử với người Việt Nam tàn tệ và tồi tệ hơn cả thực dân, phát xít, đế quốc. Nghĩ đến thù hận, tôi cảm hứng viết bài thơ tù:

 

Thư tù

 

Gửi cho anh đôi mắt

để anh ráp trên khuôn mặt hận thù

Nó sẽ biết nh́n sự trơ trẽn ngục tù

và nó thấy nó bọ hung lầm lũi

 

Gửi cho anh cái mũi

để anh ráp trên khuôn mặt hận thù

Nó sẽ biết ngửi mùi tanh tưởi cachot

và nó thấy nó côn trùng câm nín

 

Gửi cho anh cái miệng

để anh ráp trên khuôn mặt hận thù

Nó sẽ biết ăn thực phẩm trâu ḅ

và nó thấy nó ngh́n năm rác rưởi

 

Gửi cho anh cái lưỡi

để anh ráp vô họng hận thù

Nó sẽ biết tập tành nói chuyện thương yêu, lăng mạn, mộng mơ

và nó thấy nó xụt xùi muốn khóc

 

Gửi cho anh bộ óc

Gửi cho anh trái tim

Gửi cho anh ái t́nh

Gửi cho anh cuộc đời dạt dào cảm xúc

Gửi cho anh con người hào hoa đích thực

Gửi cho anh

gửi tặng hận thù

 

Tôi cũng nghĩ cả đến ḷng trắc ẩn của những kẻ làm chúng tôi đau khổ, nh́n chúng tôi đau khổ, tưởng tượng chúng tôi đau khổ và đă quên chúng tôi vẫn đau khổ. Than ôi, “mặt trời soi trên kẻ ác cùng người thiện, mưa cho người công nghĩa cùng kẻ bất nghĩa” th́ ḷng trắc ẩn ở chỗ nào nhỉ? Tôi làm tiếp bài thơ tù:

 

Ḷng trắc ẩn

 

Con chuột đă chui vào

ăn hết phần cơm anh để dành khuya đói

chẳng cho anh ngủ yên khi anh đă ră rượi

nó cắn chân anh bắt anh thức với niềm đau

 

Con dán đă chui vào

bơi đùa trong ca nước

Làm sao anh uống được

cổ anh khô mà cánh nó ướt nhầu

 

Con thạch thùng đă chui vào

thở than sám hối

nó muốn linh hồn anh chới với

sáng hôm sau tự khai vỡ máu trong đầu

 

Con muỗi đă chui vào

đốt anh sưng vù mặt

nó thích anh mở to đôi mắt

nh́n đêm đen chua chát nỗi đời

 

Nhưng một hôm

anh tha thiết yêu người

Con dán thương anh ngậm đầy oan khổ

con thạch thùng nh́n anh tư lự

con muỗi cong lưng chích c̣ng xích ngục tù

con chuột gặm cửa sắt cachot

 

Em yêu dấu

thấy chưa

ḷng trắc ẩn

 

Ở thời đại tôi và với đồng bào của tôi, ḷng trắc ẩn, h́nh như , đă tê liệt. Và tôi đành nhận ḷng trắc ẩn của con dán, con thạch thùng, con muỗi, con chuột, nhân danh tất cả những ǵ tôi biết về thống khổ, về thù hận, về h́nh phạt của thù hận.

 

Cực h́nh lặn sống ṃ đá kéo dài đến cuối tháng 12-1979. Tôi lại về với gốc cây, xe cây và g̣ mối.

° ° °

 

Chuẩn bị đón Tết, TH6 tuyển lựa các nhân tài cho văn nghệ, thể thao. Mỗi khu sẽ có một hội tuyển bóng đá, một hội tuyển bóng chuyền. Trước đó, mỗi Nhà có một hội bóng chuyền giao đấu đề chọn cầu thủ vào hội tuyển. Văn nghệ duy nhất một đội cho liên khu gồm nhạc sĩ, ca sĩ, kịch sĩ tân cổ. Ông cựu giám đốc Viện âm nhạc và kịch nghệ Huế làm chánh chủ khảo chấm điểm nghệ thuật… tù. Một bạn tù Long Thành kể rằng kiến trúc sư Ngô Viết Thụ 3, giải nguyên khôi La Mă, người vẽ họa đồ tái thiết dinh Độc Lập, đă từng được giao nhiệm vụ vẽ họa đồ xây cất cái điểm canh ở trại Long Thành. Th́ ông giám đốc Viện âm nhạc và kịch nghệ quốc gia có sắm vai chánh chủ khảo thi đánh đàn, thi hát ở trại tù là chuyện thường. Chấp kinh phải tùng quyền. Một số tù nhân sĩ quan từ Phước Long về đă lao động làm lược, làm mâm bằng nhôm cho quản giáo đề tránh mưa nắng, cũng là chuyện thường. Nhưng với nhiều anh khó tính – thường là chẳng có chút tài mọn nào – hay bầy tỏ “chí khí” và ḷng bất khuất” lăng nhách. Các anh này công kích nhạc sĩ, ca sĩ, cầu thủ và thợ kim hoàn nhà tù. Thanh Tâm Tuyền, hồi mới ở Vĩnh Phú về cuối năm 1981 , thuật chuyện “ca sĩ” Phan Lạc Phúc khiến tôi ngậm ngùi, thương Kư giả Lô Răng vô cùng. Có ai mời nổi Phan Lạc Phúc hát những buổi thân hữu gặp gỡ ăn nhậu, văn nghệ? Anh ta hát hay lắm. Hôm khai trương Đêm Mầu hồng, Sài g̣n, Thanh Tâm Tuyền lên hát, Phan Lạc Phúc nhất định “em chả, em chả”. Thế mà v́ đổi đời, anh ta đă đứng giữa sân trại lao cải Vĩnh Phú hát vài bài ca cách mạng lấy khí thế cho tù nhân lên đường khổ sai lao động. Mỗi sáng ca vài bài, cả ngày nằm nhà. Đề tồn tại. Đổi 5000 tù nhân vớ vẩn chết lấy một Thanh Tâm Tuyền sống, một Doăn Quốc Sĩ sống, một Lê văn Tiền sống, một Phan Nhật Nam sống, một Nguyễn Hải Chí sống…tôi cũng chịu. Cái sống của những tài năng là cái để lại khi họ chết. Họ cần thiết sống để làm thăng hoa sự để lại. Mà có bao nhiêu tài năng văn nghệ đúng nghĩa, ở miền Nam? Tôi đă bị nguyền rủa thê thảm v́ cái ư nghĩ này. Bọn tướng lănh, nghị sĩ, bộ trưởng nằm tù nên chết hết, nhưng đừng bao giờ chết Phan Nhật Nam. Tôi không phê b́nh những người nhờ tài mọn mà tránh lao động vất vả, kể cả vẽ chân dung Hồ Chí Minh. Song, những người này đừng giả vờ sắm vai “uy vũ bất năng khuất” khi thoát nạn và đừng gang họng, lột lưỡi công kích thiên hạ để “sáng danh” cái đức bẩn và hèn của ḿnh. Nếu tôi biết hát, tôi sẽ “thi” vào đội văn nghệ; nếu tôi biết đá bóng, tôi sẽ xin vào đội thể thao. Tù đánh đàn, tù hát cho tù nghe. Tù đá bóng, tù đánh bóng cho tù coi. Văn nghệ, thể thao béo bở ǵ, miễn lao động th́ tập dượt tối ngày. Tŕnh diễn xong được bồi dưỡng cơm cháy! Đá bóng chân đất trên sân rừng, vấp gốc cây là đi chơi cái móng. Giao hữu với cai tù, nó đi giầy vải, nó “cộp” sưng vù gị. Mỗi cái vinh đều có cái nhục. Máu văn nghệ tài tử và máu thể thao tài tử nó kỳ lắm, cứ t́m cái nhục mà lao vào. Để được đàn ca, chạy nhẩy. Dân chuyên nghiệp th́ lại chán phèo. Bởi thế, những tay đàn cự phách của Sa Ác B không thi vào đội văn nghệ.

 

 

Những ca sĩ, nhạc sĩ tù trúng tuyển được chuyển sang khu A. Khu A dễ chịu hơn khu B nhưng lại có cái hầm đá nhốt tù nhân bị kỷ luật. Nghe nói khu A đă một nửa chức sắc tù là h́nh sự, nửa là chính trị. Khu B và khu C h́nh sự là cánh tay, là con mắt của cai tù.

° ° °

 

Ngày 30 tháng Chạp, tù nhân nghỉ lao động. Ban giám thị sợ cuối năm, tù nhân nhớ nhà, nhớ vợ, nhớ con sẽ có thể gây ra những bất lợi cho trại nên bầy tṛ tổng vệ sinh ăn Tết. Nghĩa là tù nhân phải mang toàn bộ hành lư của ḿnh ra triển lăm từng món trên manh chiếu, trên tấm ni lông lớn để vệ binh và quản giáo kiểm tra. Tháo tung hành lư rồi thu dọn hành lư mất nửa buổi. Trực trại loan báo Ban giám thị cho phép hát nhạc vàng ba ngày Tết. Những bài ca chỉnh huấn vẫn bị nghiêm cấm. Trại băi bỏ giới nghiêm đêm giao thừa. Tù nhân tự do liên hoan văn nghệ trong pḥng khóa cửa!

 

 

Người bạn tù Phước Long về Sa Ác B kể tôi nghe một kỷ niệm Tết tù của anh ở một trại lao cải Tây Ninh những năm bộ đội c̣n quản lư. 29 tháng Chạp, cuốc trúng ḿn. Vài người chết. Nhiều người bị thương nặng. 30 tháng Chạp khám xét hành lư. Mồng 1 Tết, Ban Giám thị bắt tù nhân tập họp ở sân trại để nghe họ chúc Tết, họ gửi lời chúc Tết gia đ́nh tù nhân và tổng kết thành quả lao động năm cũ, đề ra kế hoạch lao động năm mới. Họ yêu cầu tù nhân hồ hởi phấn khởi chào mừng năm mới, không nhớ gia đ́nh, phải cười vui bầy tỏ thiện chí lao động. Tù nhân cả trại không thể cười nổi. V́ các bạn tù, người chết, người chờ chết, người rên rỉ vết thương ở bệnh xá. Vệ binh dí súng vào ót các tù nhân cưỡng bức họ cười, vỗ tay và hát bài “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Tù nhân bèn cười đủ kiểu, đủ lối. Nhiều người phát khùng v́ cười có người vừa cười vừa chửi Hồ Chí Minh. Bị bắn chết. Tôi vội vàng viết bài thơ:

 

Chào mừng năm mới

 

Tù nhân tập trung giữa sân trại

nghe giám thị chúc tết mừng thêm một tuổi tù

Hôm qua một đội cuốc đụng ḿn

người chết chưa kịp chôn

người mang thương tích c̣n đang rên xiết

Tù nhân thương bạn

nỗi đớn đau khó nói ra

Giám thị ban lệnh không được nhớ nhà

nhớ vợ nhớ con nhớ cha nhớ mẹ

Chào mừng năm mới

lao động thi đua là đáng kể

Những khẩu AK dí sát gáy mọi người

Cười

Cười

Cười

Cười

không cười chưa tiến bộ

Tù nhân ̣a lên cười khốn khổ

cười rơi nước mắt cười lệch cả đời

cười lạc giọng cười hụt hơi

 

Nhưng thế giới chẳng ai biết

ít ngày sau có tù nhân cười hóa điên bị bắn chết

 

Thế giới chẳng ai biết đă đành, đồng bào của tôi định cư khắp nơi trên trái đất cũng chẳng ai biết. Và cai thầu nỗi khổ đại diện tù nhân càng chẳng biết. Như năm ngoái, ở đây, ngay chiều 30, tù nhân đă được ăn cơm trắng với thịt kho và canh bắp cải nấu xương heo. Tiêu chuẩn thịt khiêm tốn: Mỗi bữa một cục nhỏ hơn nửa nắm tay. Tù nhân hưởng 6 bữa cơm trắng với thịt. Ba ngày Tết thả sức nấu nướng. Từ chập tối, không khí giao thừa đă sôi nổi. Đây là dịp may của mấy ông ái quốc biểu diễn miệng. Nổi đ́nh đám nhất ở Nhà tôi vẫn là ông Phạm Thái Ất. Ông Thái Ất nhất định không cho ai ngủ. Ông ta đơn ca bài “Dậy mà đi”! ông vỗ tay rất nổ. Một tù nhân khó chịu.

 

- Tôi chưa ngủ. Tôi thức trắng đêm nay. Nhưng cửa khóa chặt. Dậy đi đâu, anh Ất?

 

Tù nhân khác lên tiếng:

 

- Vào cầu tiêu đi đái, đi ỉa! Đi cái mồm. Những thằng to mồm không được tích sự ǵ cả.

 

Ông Phạm Thái Ất im lặng. V́ người lên tiếng là sĩ quan Vơ Bị quốc gia Đà-lạt. Khi ông Ất hết nổ, văn nghệ thuần túy bắt đầu. Càng về khuya càng buồn. Một tù nhân tay đàn guitare miệng hát “Xuân này con không về chắc mẹ buồn lắm…” khiến cả Nhà sụt sùi. Vệ binh gác Nhà ngồi nghe. Chú nhỏ gọi tôi:

 

- Anh Nong, anh Nong…

 

Qua chấn song gỗ của tường vách khoang dưới, chú vệ binh và tôi tṛ chuyện đón giao thừa.

 

- Bài anh ǵ vừa hát nà bài ǵ đấy?

 

- Tôi không biết tên.

 

- Anh thuộc không?

 

- Không.

 

- Anh nhờ chép hộ tôi bài ấy nhé?

 

- Cán bộ thích nhạc vàng à?

 

-Vàng, xanh, đen, đỏ mẹ ǵ đâu, bài ấy nàm tôi nhớ mẹ tôi, tôi chẩy nước mắt.

 

- Cán bộ cũng nhớ nhà, nhớ mẹ?

 

- Ai không nhớ mẹ.

 

- Tôi tưởng chỉ tù mới nhớ nhà thôi.

 

- Các anh tù trong, chúng tôi tù ngoài.

 

- Cán bộ nói sao?

 

- Các anh tù trong, chúng tôi tù ngoài. Bảo chúng tôi vào Sài g̣n, chúng tôi ham quá. Ai ngờ ném vào rừng già canh gác tù. Anh tính xem, tiền cơm, áo, xà pḥng, ninh tinh trừ hết, mỗi tháng c̣n mấy đồng. Để dành bao nhiêu năm mới mua nổi vé tầu về Bắc. Thế nên hai năm một nần phép, vẫn hủy phép. Chắc nâu nắm mới về thăm mẹ được

 

- Tôi bốn năm tù rồi.

 

- Tôi hơn anh hai năm. Anh tù trong c̣n được gặp mặt vợ con, c̣n được tiếp tế đủ thứ. Tôi tù ngoài ai thăm, ai cho cái ǵ?

 

Chú vệ binh móc gói thuốc thơm mời tôi:

 

- Hút một điếu Sông Cầu, anh Nong. Tôi mời anh. Tiêu chuẩn thuốc Tết đấy.

 

Tôi rút điếu Sông Cầu. Chú vệ binh quẹt diêm cho tôi mồi thuốc.

 

- Anh đáng tuổi cha chú tôi. Ở trong này, anh thông cảm nhé!

 

Tôi nói:

 

- Nhằm nḥ ǵ.

 

-Các anh thù chúng tôi nắm hả?

 

- Thù hận chi, cán bộ.

 

-Này, nói thật, cũng có thằng náo nếu, hống hách nhưng nệnh cả. Nệnh bắt chúng nó náo nếu rồi chúng nó quen thói. Tôi mong các anh về sum họp gia đ́nh hết. Cứ hết trại cải tạo nà tôi có cơ hội về Bắc.

 

Chú vệ binh hỏi:

 

- Thuốc thơm ra phết hả?

 

Tôi đáp:

 

- Thơm lắm.

 

Chú vệ binh dặn tôi:

 

- Nhớ nhờ chép hộ tôi bài ấy nhé!

 

Rồi bỏ đi. Tôi có nhiều kỷ niệm với vệ binh, toàn kỷ niệm buồn cười. Có chú cứ đến phiên gác đội tôi là ngày vài lần mời thuốc lá.

 

- Anh Nong.

 

- Ǵ, cán bộ?

 

- Nại bảo.

 

-Chi?

 

- Có thuốc ná cho xin một điếu.

 

Rút điếu thuốc cống thầy, thầy sai:

 

- Nại bếp nấy giùm tí nửa.

 

Có chú xin thuốc nhưng sợ bị “đồng chí” biết, bảo tôi vất một chỗ rồi ra lượm. Có chú bắt tôi cầm con rắn giơ cao, đứng giữa nắng thật lâu v́ tôi “đang nao động mà đánh rắn nại c̣n căi cán bộ”. Hôm đó, tôi đập chết con rắn ḅ gần chỗ tôi, chủ ư tặng anh em nướng chia nhau mỗi người một miếng. V́ hết thuốc cống thầy, bị thầy xử ức. Tôi chưa bao giờ gây thù hận mấy chú nhăi chăn trâu cắt cỏ cả. Nói tôi thương hại mấy chú ẩy th́ có vẻ giả đạo đức. Nhưng đêm giao thừa 1980, nghe tâm sự chú vệ binh, tôi thương hại thật sự. Chú vệ binh không hiểu câu trả lời thuốc lá “thơm lắm” của tôi. Ở bất cứ không gian và thời gian nào, ở bất cứ hoàn cảnh nào, t́nh người vẫn thơm lắm . Anh sẽ tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản, lănh tụ cộng sản hay tiêu diệt luôn những con người sống trong chế độ cộng sản như chú vệ binh “ai không nhớ mẹ”?

 

Chú vệ binh cỏn nguyên vẹn cảm xúc “tôi nhớ mẹ tôi, tôi chẩy nước mắt” đi tuần một lúc th́ trở lại.

 

- Anh nào vừa hát bài “Xuân này con không về chắc mẹ buồn nắm ” đấy?

 

- Tôi.

 

- Nàm ơn hát nại nần nữa cho tôi nghe. Hay nắm, buồn nắm…

 

Người tù trong cảm động hát lại. Người tù ngoài cảm động nghe. Giao thừa 1980, với tôi, đầy ư nghĩa. Ư nghĩa ấy soi sáng đường hướng sáng tác và chiến đấu của tôi, dẫu tôi có v́ cái ư nghĩa ấy mà bị chụp bủa bằng những ngộ nhận, những hệ lụy chập chùng. Không cần. Điều cần thiết là nhà văn phải sống thật với ḷng ḿnh.

 

…Ô dẫu sao tối vẫn thấy họ rất người

Vẫn thấy họ níu tay đời tha thiết

Một nỗi ǵ xa xôi cách biệt

Có phải con người hay tại chủ nghĩa phi nhân

Con người sinh ra đă muôn thuở cô đơn

nhưng khao khát gần nhau và thèm gần nhận thêm nữa

Ở chín tầng oan khiên nhục nhă

bỗng tự nhiên tôi yêu quư con người

thiếu con người sẽ thiếu hẳn đất trời

Tôi sống với ai

thơ tôi c̣n chi để viết

° ° °

 

Mồng một Tết, như năm ngoái, Ban giám thị bày bàn hương án và bắt tù nhân tập họp đề nghe chúc Tết và động viên tinh thần lao động tích cực. Trước khi Ban giám thị xuất hiện, thầy giáo dục Mạo yêu cầu tù nhân văn nghệ lấy khí thế mừng xuân. Tù nhân nhao nhao “Hùng nhí, Hùng nhí”! Tên tù nhóc anh dũng đứng dậy, tiến lên bàn hương án. Nó nhe “hàm răng chiếc rụng chiếc lung lay” cười kh́. Tù nhân vỗ tay hoan hô. Hùng nhí cầm mi-cô của cái máy phát thanh chạy pin, hắng giọng hát không đàn đệm:

 

 

… Ta thắp lửa bên con cua đồng

Ta thắp lửa bên lũy tre xanh

Quê hương ta từ ngày làm tương lai

bằng AK bằng lựu đạn 4

 

Thầy giáo dục Mạo vội vàng chụp mi-cô và đuổi Hùng nhí về chỗ. Văn nghệ lấy khí thế chấm dứt ngay. Tù nhân bầu Hùng nhí là: “người của năm 1980″. Ban Giám thị chúc Tết xong đến lượt các thầy quản giáo xông nhà thăm các đội của ḿnh. Các thầy mang theo mứt Hà nội và thuốc lá Hoa Mai. Lại văn nghệ trong Nhà. Cái đinh văn nghệ của Nhà tôi là Tạ Dung thuộc đội của Đằng Giao. Tự nhiên, anh tù nhân Vovinam đầy ḿnh “đờ mi tốc đờ mi phu” này xuất chúng một màn tự biên tự diễn. Tạ Dung, cháu chín đời Kim Mao sư vương Tạ Tốn, mào đầu:

 

- Thưa quư cán bộ, thưa các bác, các chú, các anh. Nhân dịp xuân về, Tạ Dung xin cống hiến quư cán bộ và cả Nhà ta màn văn nghệ đặc biệt. Tạ Dung đóng vai người đi từ Bắc vô Nam. Trước hết, anh ta ở Hà nội.

 

Tạ Dung hát c̣ lả, trống quân. Đến Huế, anh ta chơi ḥ mái đẩy. Vô Sài g̣n, anh ta ḥ lơ.

 

- Bây giờ, người này trở về Bắc.

 

Tạ Dung đă đi đến cửa cầu tiêu, anh ta trở lại, hát nhạc Phạm Duy. Tạ Dung nhắm mắt giả vờ mù và bước khập khiễng giả vờ què.

 

- Ngày trở về, anh bước lê, trên quăng đường quê đến bên lũy tre….

 

Quư cán bộ chán quá, vất mứt Hà-nội và thuốc lá Hoa Mai cáo từ vội vă. Tù nhân vỗ tay sôi nổi. Tạ Dung số một. Tạ Dung đâu có khùng. Anh ta tiên tri ngày tháo lui của cộng sản. Trong ba ngày Tết, đội múa lân khu A vào biểu diễn. Rồi bóng chuyền khu A và C vô đấu ṿng loại với khu B. Vân vân. Những tiết mục giải trí nghèo nàn này không hấp dẫn tôi. Nó chỉ làm tăng cái vẻ thê lương của đời tù lao cải. Đằng Giao và tôi có dịp bách bộ quanh trại, gần hàng rào kẽm gai, tâm sự vẩn vơ . Tôi chú ư hàng rào. Hồi tôi mới đến Sa Ác B, hàng rào thấp và thưa, cột bằng cây rừng. Bây giờ, hàng rào cao, dầy, cột sắt và bốn góc là bốn cḥi canh bố trí súng trung liên.

 

- Ông thầy, ở bên Mỹ người ta đang làm ǵ?

 

- Chuẩn bị ra báo số Tân Niên.

 

-Tôi muốn, sau này, ông thầy viết một tiểu thuyết mộng và thực lồng vào nhau như Tiêu Sơn tráng sĩ. Nhân vật của ông thầy là một thôi, không phải hai Phạm Thái và Quang Ngọc, Quỳnh Như và Nhị Nương. Nhân vật ấy đang ở nhà tù, ở trại lao cải th́ thoát ra nhập vào đời sống Mỹ. Nghĩa là, vừa mới vục phân dưới hầm, anh ta đă đi nhẩy đầm tíu tít. Rồi một chút suy nghĩ dưới hầm phân và trong pḥng trà.

 

- Ư kiến hay.

 

- Một định nghĩa về đau khổ và hạnh phúc.

 

- Ông đă nghĩ chuyện sang Mỹ chưa?

 

- Không bao giờ..

 

- Tại sao?

 

- Tử vi vẽ sẵn con đường xuất ngoại của tôi: Mă lộ cùng đồ, ông thầy đi chứ?

 

- Phải đi thôi.

 

- Rồi ông thầy cũng sẽ cô đơn.

 

- Con người sinh ra đă cô đơn, lầm lỗi trên sinh đạo. Bếp lửa của Thanh Tâm Tuyền đă thét nỗi thét cô đơn đó.

 

Đằng Giao chỉ lên cây cổ thụ ngoài cổng trại:

 

- Ông thầy, lạ quá.

 

Tôi hỏi:

 

- Ǵ?

 

- Cây cổ thụ cũng trổ hoa. Ngắm đi, ông thầy. Đóa hoa tuyệt đẹp. Chỉ tiếc ḿnh không hít được hương vị của nó.

 

Tôi ngước mắc nh́n đóa hoa duy nhất trên cây cổ thụ của nhà tù Sa Ác. Tôi chưa hề thấy cổ thụ trổ hoa. Mà cổ thụ đă trổ hoa. Lại trổ hoa ở nơi chốn buồn thảm của đời sống.

 

-Tôi sẽ viết một bài thơ ngắn.

 

- Nhan đề?

 

- Đóa hoa.

 

Và bài thơ ấy như sau:

 

Cây cổ thụ bỗng trổ một đóa hoa

Anh nghe giây kẽm gai thổn thức

Tự nhiên kẻng tù hết gầm gừ

âm thanh thoảng gió đàn rạo rực

 

Và đó là mùa xuân

anh vừa thấy sau nhục nhằn phát văng

Gă cai tù xem chừng lăng mạn

Cây cổ thụ đă trổ hoa

Ḷng suối độc xôn xao t́nh đá

Những thứ c̣ng ở biệt giam

râm ran cảm giác lạ

thèm đôi tay ôm gọn cuộc đời

 

Họng súng sát nhân mệt mỏi rồi

Thù hận cúi đầu xấu hổ

Bản t́nh ca

dấy lên tự đất khổ

Cây cổ thụ cũng trổ hoa

t́nh yêu và hạnh phúc không già

 

Anh bẻ gai viết nhanh trên lá

những vần thơ ái ân

bồng bế

Rồi con người sẽ yêu nhau

ở khắp nơi trên mặt địa cầu

 

Tôi đă manh nha một cuộc chiến đấu của con người chế ngự thù hận và h́nh phạt của thù hận. Trước hết, con người cần phải là nạn nhân khốn khổ của thù hận và h́nh phạt của thù hận.

--------------------------------

1

Thứ thuốc trị bách bệnh của nước Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam.

2

Khi tôi rời Sa Ác B, pḥng Hạnh Phúc mới mở cửa. Và một số tù nhân được ngủ với vợ.

3

Đă cộng tác với cộng sản. Được cho ra Bắc du ngoại. Được cho sang Liên Xô tham quan, về gáy cộng sản điếc tai cả nước.

4

Tôi không biết tên bài hát này và nhớ mấy câu trên có thể sai vài chữ.

CHƯƠNG 11

 

Ba ngày Tết trôi qua rất nhanh. Cái không khí “ḥa giải dân tộc” lại bị ngột ngạt bởi màn tự kiểm tập thể, tự kiểm công khai giữa sân tập họp lao động trước khi tiến công hai mặt trận Lao động tích cực, Tư tưởng tiến bộ. Hùng nhí và Tạ Dung bị làm tự kiểm cá nhân, bị hạch hỏi cả tuần lễ. Tù nhân Sa Ác B th́ chỉ bị phê b́nh. . . quá đà nhạc vàng. Nhân vật Phạm Thái Ất nổi bật.

 

 

- Anh Ất đâu?

 

- Anh ḥ hét to lắm hả?

 

- Thưa cán bộ, tôi chỉ…vỗ tay!

 

- Anh thành khẩn chứ?

 

- Dạ.

 

- Tốt. Nhưng đừng quên chúng tôi đă không bám sát sinh hoạt của các anh đêm giao thừa.

 

Tôi vốn không ưa những kẻ anh dũng trong bóng tối và hèn mọn ngoài ánh sáng. Phạm Thái Ất là biểu tượng của hạng người kể trên, nhan nhản trong nhà tù ngoài cuộc đời. Ngạo nghễ phải ra mặt ngạo nghễ. Muốn chứng tỏ ḿnh phủ nhận chính sách cải tạo và pháp lư nhà tù th́ hiên ngang khước từ lao động, hiên ngang chối bỏ nội quy, hiên ngang chống đối cai tù. Bằng không dám, nên nhẫn nhục. Biết nhẫn nhục những việc b́nh thường, biết nhịn nhục những kẻ tầm thường mới gọi là biết sống. Và c̣n gọi là can đảm. Khi vẫn cam đành ra băi cầm cuốc, vẫn cam đành tôn trọng Nội quy, vẫn đứng nghiêm trước mặt cai tù th́ không nên chửi bới sau lưng chế độ và cai ngục. Sự chửi bới sau lưng không giải quyết được ǵ. Nó chỉ chứng tỏ sự hèn nhát khi bị cật vấn và bắt buộc gian dối chạy tội. Lúc ấy lôi anh em ra khỏa lấp nỗi bẽ bàng của ḿnh cái tội “ăng ten”. Chống chính sách cải tạo cần khước từ thăm gặp vợ con, gánh nặng quà cáp về trại. Nghe tên ḿnh đọc thăm nuôi, nhẩy cỡn mắt sáng rực, miệng cười toe mà cứ thích chửi cộng sản thầm th́ tôi thấy nó kỳ lắm. Nó gian dối lộ liễu. Và xứng đáng bị cộng sản khinh bỉ. Cũng như một ông nhà văn tôi đă gặp ở Paris. Ông này chửi bới Nguyễn văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Hoàng Cơ Minh hết cả ngôn ngữ chửi bới. Tội ác của Hoàng Cơ Minh, ông ta nêu ra cả một đống. Nhưng ông ta không dám lên tiếng trên sách báo ông ta viện dẫn lư do rất hợp lư. Ông nhà văn này thuộc thành phần anh dũng trong bóng tối và hèn mọn ngoài ánh sáng. Cái dũng biểu lộ với cai tù chăn trâu cắt cỏ là cái dũng của kẻ thất phu, bất trí. Đám này chỉ bị hành hạ và chết sảng. Cái dũng biểu lộ sau lưng cai tù chăn câu cắt cỏ và co rúm trực mặt chúng là cái dũng của kẻ vô lại, đê tiện. Người ta đă có một định nghĩa cho sự im lặng, cho tất cả những con người chịu đựng nghịch cảnh một cách nhẫn nhục và can đảm.

 

Thủ đoạn cộng sản là bung ra rồi thu lại, là nới lỏng rồi xiết chặt, là cho phép rồi kết tội. Sau Tết 1980, sự kiên tŕ của Sa Ác B biến thành trấn áp. Không c̣n cảnh Đậu Phi Lục vung cuốc cao rồi buông lưỡi cuốc từ từ nhẹ nhàng rơi xuống, chẳng cần ngập đất. Không c̣n cảnh Bùi Hoàng Thư chém cả ngày không đứt một cái rễ cây. Không c̣n cảnh vừa ra hiện trường lao động là báo cáo đi ỉa. Quản giáo đă kiểm tra chỗ tù nhân ngồi ỉa. Chấm dứt màn giải lao… tụt quần trốn lao động. Lệnh của Ban giám thị: Giới hạn sự đi ỉa ngoài băi đến mức tối đa. Cái thú thứ hai của người Việt Nam không c̣n, cái thú được ví với tước vị quận công, ngang cơ Ủy viên bộ chính trị trung ương Đảng: “Thứ nhất Quận công, thứ nh́ ỉa đồng”. Số tù nhân khai bệnh nằm nhà giảm gần hết. Bi cảnh lao động diễn ra: Người khỏe cơng người ốm đi lao động; người trẻ d́u người già đi lao động, người què chống gậy đi lao động… V́ lao động là vinh quang, lao động là thước đo giá trị con người. Chủ nghĩa cộng sản tôn trọng con người, đánh giá cao con người, với sức người sỏi đá cũng thành cơm. Con người biến sỏi đá thành cơm nhưng con người khiêm tốn, chỉ ăn bo-bo, cạp bắp đá, nuốt khoai sùng!

 

Đội 28 nông nghiệp của tôi đă phát quang xong diện tích canh tác. V́ ông già Hoán bị trật khớp xương không thể gánh nước và nấu nước cho đội ngoài băi, tôi được chỉ định thay thế nhờ “tuổi tù” cao hơn mọi tù nhân trong đội. Công tác nấu nước quá nhàn. Tôi gánh nước ở cái giếng đào cách bếp lộ thiên 200 thước. Máng khúc cây lên móc hai cái xô, chất củi nấu nước. Nước sôi, đi lượm ca cóng của anh em múc đổ đầy để giải lao anh em có nước uống. Đó là phần anh em. C̣n phần của thầy quản giáo và hai thầy vệ binh th́ nấu ấm riêng, có rễ tranh. Rút kinh nghiệm Đội rau xanh Long Thành, tôi bỏ hai tán đường vào ấm nước rễ tranh, khi đội vô lao, tôi xách ấm nước cầm theo ba cái ly “chế” bằng vỏ chai xá xị và ba điếu thuốc thơm Capstan rỏm cho các thầy thưởng thức. Các thầy ngồi uống nước, đấu láo. Đội muốn làm, muốn nghỉ tại chỗ tùy ư. Đội trưởng Trần Ngọc Lân rỉ tai quyên đường, quyên thuốc lá anh em. Anh em chỉ thích lao động đơn sơ chứ không thích đóng góp. Khi đường và thuốc của cá nhân tôi vừa hết, buổi sáng tập họp xuất trại đầu tháng 3-1980, cán bộ hồ sơ xuất hiện tại điếm canh. Trực trại nói lớn:

 

- Anh Hồ Hữu Tường, anh Vũ Mộng Long ở nhà.

 

Tất cả tù nhân đều tưởng ông Hồ Hữu Tường và tôi được tha. Bởi v́ hễ anh cán bộ hồ sơ bảo ai ở nhà, người ấy sẽ về sum họp gia đ́nh. Tôi giao xô và đ̣n gánh cho bạn tù khác, trở lại Nhà. Đào Minh Lượng đang quét sân (ông thẩm phán gầy ốm, lao phổi của tôi được làm vệ sinh Nhà từ lâu) chạy tới chia mừng với tôi. Ngô Đ́nh Hoa chúc tôi về Sài g̣n vui vẻ. Đợi các đội xuất trại hết, trực trại Nguyễn Tấn Độ t́m tôi:

 

- Anh Long đâu.

 

- Có

 

- Anh được tha rồi đấy.

 

Thầy Độ nói nhỏ:

 

- Những ǵ quư, anh để lại cho tôi.

 

Tôi cười:

 

- Yên chí, cán bộ.

 

Tôi vất lại tất cả đồ đạc cho Đằng Giao, Dương Đức Dũng, chỉ dồn mấy món “quư” như hộp thuốc, b́nh thủy, chăn, màn, quần áo,…vào cái túi phân bón tặng thầy Nguyễn Tấn Độ. Tôi mặc bộ quần áo bà ba đen đi đôi guốc do du đăng già Mậu, hỗn danh Già Móng đẽo tặng, theo thầy Độ, cùng ông Hồ Hữu Tường ra văn pḥng trực trại. Ở đây, ông Tường và tôi, mỗi người được yêu cầu viết một trang nhận xét về Sa Ác B. Dĩ nhiên, nhận xét của tôi là tốt từ A tới Z. Trực trại Hưng nói:

 

- Được về sớm, sướng nhé!

 

Nhưng trực trại đă tưởng lầm. Cán bộ hồ sơ đến. Hắn đeo súng ngắn, ôm hồ sơ của ông Tường và tôi:

 

- Các anh chuyển trại. Cơ hội thuận lợi của các anh ở trại mới. Các anh sẽ được tha ở đó.

 

Người buồn nhất là trực trại Nguyễn Tấn Độ. Tôi đành xách túi đồ định cho hắn lên chiếc Van nhăn hiệu Ford. Ông Tường và tôi ngồi băng dưới cùng. Người ta khóa tay phải của tôi vào tay trái ông Tường, chân cũng thế, bằng hai chiếc c̣ng số 8 made in USA. Xe rời trại. Nó chạy qua chiếc cầu do đội của Dương Đức Dũng bắc ngang sông Ray. Nó chạy trên con đường tù nhân Sa Ác đă mở những ngày lao động xă hội chủ nghĩa.

 

Giă từ Sa Ác. Giă từ một nơi chốn đă làm vàng ửng nỗi ngậm ngùi của tôi. Giă từ con dốc dài thoai thoải gánh nước leo lên thót bụng, oằn vai. Giă từ hầm phân nhung nhúc hàng tỉ con ṛi. Giă từ gốc cây. Giă từ g̣ mối. Giă từ tất cả những tị hiềm nhỏ mọn, những gian dối đê tiện, những phán xét ngu xuẩn của xă hội vây quanh hàng rào kẽm gai. Giă từ, giă từ. Giă từ và cám ơn con gọng vó suốt đời phấn đấu ngược ḍng nghịch lũ, suốt đời khước từ thân phận bèo rác, cây mục cuốn xuôi ḍng. Giă từ và cám ơn đóa hoa đă nở trên cây cổ thụ. Tôi lại ra đi. Và chưa biết đi về đâu?

 

Duyên Anh

25-7-1987

 

 

  1. TRẠI TẬP TRUNG

  2. TRẠI TẬP TRUNG

  3. TRẠI TẬP TRUNG

  4. TRẠI TẬP TRUNG

  5. TRẠI TẬP TRUNG

  6. TRẠI TẬP TRUNG

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Politics of Southeast Asia ֎ Bên Gịng Lịch Sử

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA ֎ Lam vs Ngo

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 


 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


MINH THỊ

Dân tộc Việt Nam không cần thắp đuốc đi t́m tự do, dân chủ, nhân quyền ở Washington, Moscow, Paris, London, Péking, Tokyo. Đó là con đường của bọn nô lệ vọng ngoại, làm nhục dân tộc, phản bội tổ quốc, đă đưa đến kết thúc đau thương vào ngày 30 – 4- 1975 và để lại một xă hội thảm hại, đói nghèo lạc hậu ở Việt Nam gần nửa thế kỷ nay..Đă đến lúc quốc dân Việt Nam phải dũng cảm, kiên quyết đứng lên dành lại quyền quyết định vận mạng của đất nước. Kim Âu

 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

 

vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFactvIDEAL

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite   

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAmerican ProgressvFaivCity

vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvVeteranvGateway

vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHua

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại

vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền

vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn

vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng

vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nhvTrái Chiều

vViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười DânvViệt Học

vTiền PhongvXă LuậnvVTVvHTVvTrí Thức

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG

vEchovSài G̣nvLuật KhoavVăn Chương

vĐCSvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa SàmvCafeVN

vVăn HọcvĐiện ẢnhvVTCvCục Lưu TrữvSoHa

vST/HTVvvThống KêvĐiều NgựvVNMvB́nh Dân