at Capitol.  June 19.1996

 

 

with Sen. JohnMc Cain

 

with Congressman Bob Barr

with General John K Singlaub

CNBC .Fox .FoxAtl .. CFR. CBS .CNN .VTV.

.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank

.Fed Register .Congr Record .History .CBO

.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState

.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee

.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate

.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive

.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect

.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND

-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost

.SourceIntel .Intelnews .QZ .NewAme

.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics

.Infowar .TownHall .Commieblaster .EXAMINER

.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL

.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters

.Diplomat .NEWSLINK .Newsweek .Salon

.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .

.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite

.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale

.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider 

.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above

.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen

.Online Books .BREIBART.INTERCEIPT.PRWatch

.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS

.NPRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes

.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign

.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media  

.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty

.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState

.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity

.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua

.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị

.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen

.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại

.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài G̣n Báo

.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu  

.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc

.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn

.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn

.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng

.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu.ChúngTa .Eurasia.

 CaliToday .NVR .Phê B́nh . TriThucVN

.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism

.Tiền Phong .Xă Luận .VTV .HTV .Trí Thức

.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương

.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG

.Echo .Sài G̣n .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT

.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN

.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa

.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .B́nh Dân

.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử *.Trái Chiều

.Tác Phẩm * Khào  Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *

THÁNG 05-2024

 

US DEBT CLOCK . WORLDOMETERS . TRÍ TUỆ MỸ . SCHOLARSCIRCLE. CENSUS - SCIENTIFIC - COVERTACTION- EPOCH - ĐKN - REALVOICE -JUSTNEWS NEWSMAX - BREIBART - WARROOM - REDSTATE - PJMEDIA - EPV - REUTERS - AP - NTD - REPUBLIC - TTV - BBC - VOA - RFI - RFA - HOUSE - TỬ VI - VTV HTV - PLUS - TTRE - VTX - SONY - SOHA -TN CHINA - SINHUA - FOXNATION - FOXNEWS - NBC - ESPN - SPORT - ABC- LEARNING - IMEDIA -NEWSLINK  WHITEHOUSE- CONGRESS -FED REGISTER -OAN - DIỄN ĐÀN - UPI - IRAN - DUTCH - FRANCE 24 - MOSCOW - INDIA - NEWSNOW- NEEDTOKNOW   NEWSPUNCH - CDC - WHO - BLOOMBERG - WORLDTRIBUNE - WND - MSNBC- REALCLEAR - PBS - SCIENCE - HUMAN EVENT - TABLET - AMAC - WSWS - PROPUBICA -INVESTOPI-CONVERSATION - BALANCE - QUORA - FIREPOWER  GLOBAL- NDTV- ALJAZEER- TASS- DAWN - NATURAL- PEOPLE- BRIGHTEON - CITY JOURNAL- EUGENIC- 21CENTURY - PULLMAN- SPUTNIK- COMPACT DNYUZ- CNA- NIK- JAP-SCMP-CND-JAN-JTO-KYO-CHIA-VOE-ASIA-BRIEF-ECNS -TUFTS - DIPLOMAT-JUSTSECU -SPENDING- FAS - GWINNETT - JAKARTA

   

NHẬN ĐỊNH - QUAN ĐIỂM

 

THÁNG 01-2023

  1. National Security Archive

  2. Blog NSA -Unredact

  3. Lịch Sử Thế Kỷ 21 Cuộc Đại  Suy Thoái 21st

  4. United States Involvement In Regime Change

  5. Kissinger Cáo Phó Đưoc Giải Mật

  6. Phương Pháp12 Bước Tiến Hành Để Thay Đổi Chế Độ

     

    “Chúng ta có thể đánh bom chúng trên khắp miền Bắc Việt Nam.”

    Kho lưu trữ xuất bản Kho tàng những cuộc tṛ chuyện qua điện thoại của Kissinger

    Bộ sưu tập toàn diện "Telcons" của Kissinger Cung cấp Cái nh́n Bên trong về Việc Ra Quyết định của Chính phủ;
    Tiết lộ cuộc nói chuyện thẳng thắn với các Tổng thống, Lănh đạo nước ngoài, Nhà báo và nhà môi giới quyền lực trong Những năm Nixon-Ford

    Sách tóm tắt điện tử của Cục Lưu trữ An ninh Quốc gia số 263

    Được chỉnh sửa bởi William Burr

    Đăng - 23 tháng 12 năm 2008

    Xem thêm - "Tiến sĩ Kissinger, Ngài Tổng thống"
    Kissinger's Telcons và Nixon's Tapes

    Liên kết

    Cuộc tṛ chuyện qua điện thoại của Kissinger: Ghi chép nguyên văn về chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, 1969-1977

    Lưu trữ an ninh quốc gia kỹ thuật số (ProQuest)

     

    Bài đăng liên quan

    "Tiến sĩ Kissinger, Ngài Tổng thống"
    Telcons của Kissinger và Băng của Nixon

    Bộ Ngoại giao Kissinger Telcons
    Telcons cho thấy Kissinger phản đối chính sách ngoại giao nhân quyền;
    Ngoại trưởng đă nghe lén các cuộc gọi điện thoại của chính ḿnh

    Cơ quan lưu trữ Kissinger Telcons
    kỷ niệm việc phát hành các hồ sơ điện thoại được cô lập trước đây

    Washington, DC, ngày 23 tháng 12 năm 2008  Giữa một chiến dịch ném bom quy mô lớn xuống miền Bắc Việt Nam, Henry Kissinger và Richard Nixon đă thẳng thắn chia sẻ sự hài ḷng rơ ràng của họ trước “cách xử lư sốc” đối với những chiếc B 52 của Mỹ, theo một bản ghi được giải mật của cuộc tṛ chuyện qua điện thoại của họ được công bố cho lần đầu tiên hôm nay bởi Cục Lưu trữ An ninh Quốc gia. Kissinger báo cáo với Nixon: “Họ đă thả một triệu pound bom”. “Một triệu pound bom,” Nixon kêu lên. “Chết tiệt, đó hẳn là một đ̣n tấn công tốt.” Cuộc tṛ chuyện, được cả Kissinger và Nixon bí mật ghi âm mà người kia không hề hay biết, tiết lộ rằng Tổng thống và cố vấn an ninh quốc gia của ông có chung niềm tin vào năm 1972 rằng cuộc chiến vẫn có thể thắng. Nixon tuyên bố: “Việc xử lư sốc đó [đang] làm họ rạn nứt. “Tôi nói với bạn điều cần làm là đổ nó vào mọi nơi chúng ta có thể… chỉ cần ném bom chết chúng.” Kissinger lạc quan dự đoán rằng, nếu chính phủ miền Nam Việt Nam không sụp đổ th́ Mỹ cuối cùng sẽ thắng thế: “Ư tôi là nếu với tư cách là một quốc gia, chúng ta giữ vững tinh thần th́ chúng ta sẽ làm được”.

    Bản ghi lại cuộc tṛ chuyện qua điện thoại ngày 15 tháng 4 năm 1972 là một trong hơn 15.500 tài liệu trong một bộ các cuộc tṛ chuyện qua điện thoại (telcons) độc đáo, được lập chỉ mục toàn diện của Henry A. Kissinger—có lẽ là quan chức Hoa Kỳ nổi tiếng và gây tranh căi nhất trong nửa sau của thế kỷ 20. Phần c̣n lại của chính phủ Hoa Kỳ không hề hay biết, Kissinger đă bí mật ghi âm các cuộc điện thoại đến và đi của ḿnh và nhờ thư kư ghi lại chúng. Sau khi tiêu hủy các cuộn băng, Kissinger đă mang theo các bản ghi âm khi rời nhiệm sở vào tháng 1 năm 1977, khẳng định chúng là “giấy tờ riêng”. Năm 2001, Cơ quan Lưu trữ An ninh Quốc gia đă khởi xướng các thủ tục pháp lư để buộc chính phủ thu hồi các công ty viễn thông và sử dụng đạo luật tự do thông tin để giải mật hầu hết chúng. Sau một dự án ba năm nhằm lập danh mục và lập chỉ mục các bản ghi, tổng cộng hơn 30.000 trang, bộ sưu tập trực tuyến này đă được Cơ quan Lưu trữ An ninh Quốc gia Kỹ thuật số (ProQuest) xuất bản trong tuần này.

    Kissinger chưa bao giờ có ư định công khai những tài liệu này, theo William Burr, nhà phân tích cấp cao tại Cơ quan Lưu trữ An ninh Quốc gia, người đă biên tập bộ sưu tập, Cuộc tṛ chuyện qua điện thoại của Kissinger: Bản ghi nguyên văn về ngoại giao Hoa Kỳ, 1969-1977 . Burr nói: “Các cuộc tṛ chuyện của Kissinger với những nhân vật có ảnh hưởng nhất trên thế giới được xếp ngang hàng với các đoạn băng của Nixon là kho hồ sơ thẳng thắn, tiết lộ và có giá trị nhất về việc thực thi quyền hành pháp ở Washington”. Đối với các phóng viên, học giả và sinh viên, Burr lưu ư, “Kissinger đă tạo ra một món quà cho lịch sử và đây sẽ là nguồn thông tin chính to lớn cho các thế hệ mai sau”. Ông kêu gọi Bộ Ngoại giao giải mật hơn 800 công ty viễn thông bổ sung mà Bộ vẫn tiếp tục giữ lại với lư do đặc quyền hành pháp.

    Các tài liệu này làm sáng tỏ mọi khía cạnh của chính sách ngoại giao Nixon-Ford, bao gồm t́nh trạng ḥa hoăn Mỹ-Liên Xô, các cuộc chiến tranh ở Đông Nam Á, cuộc khủng hoảng Biafra năm 1969, cuộc khủng hoảng Nam Á năm 1971, Chiến tranh Trung Đông tháng 10 năm 1973 và cuộc khủng hoảng Síp năm 1974, trong số đó. nhiều diễn biến khác. Hàng chục người đối thoại với Kissinger bao gồm các nhân vật chính trị và chính sách, chẳng hạn như Tổng thống Nixon và Ford, Ngoại trưởng William Rogers, Thống đốc Nelson Rockefeller, Robert S. McNamara, và Đại sứ Liên Xô Anatoli Dobrynin; các nhà báo và nhà xuất bản như Ted Koppel, James Reston và Katherine Graham; và những người bạn kinh doanh nổi tiếng như Frank Sinatra. Bên cạnh các công ty viễn thông, Cuộc tṛ chuyện qua điện thoại của Kissinger: Bản ghi nguyên văn về ngoại giao Hoa Kỳ, 1969-1977 bao gồm băng ghi âm các cuộc tṛ chuyện qua điện thoại của Kissinger với Richard Nixon được hệ thống ghi âm bí mật của Nhà Trắng ghi lại tự động, một số trong đó các trợ lư của Kissinger không thể ghi lại . 

    Một loạt khoảnh khắc khó quên được ghi lại trong bản ghi âm, nhất là liên quan đến mối quan hệ phức tạp và khó khăn của Kissinger với Richard Nixon. Nhiều lần, cố vấn an ninh quốc gia đă sử dụng kỹ năng xu nịnh và thông đồng của ḿnh để giúp xây dựng h́nh ảnh của tổng thống và luôn được ông ta sủng ái. Trong cuộc khủng hoảng Jordan vào tháng 9 năm 1970, Kissinger nói với giới truyền thông rằng ông đă đánh thức Tổng thống để thông báo tóm tắt cho ông về các hành động quân sự của Vua Hussein chống lại quân du kích Palestine. Nhưng bản ghi lại cuộc gọi của ông với Tổng thống vào ngày hôm sau ghi lại rằng ông đă thông báo cho Nixon: “v́ thực tế là ông không thể làm ǵ được nên chúng tôi nghĩ tốt nhất là không nên đánh thức ông”.

    Các công ty viễn thông cũng minh họa những nỗ lực khác của Kissinger nhằm xoay chuyển giới truyền thông, giám sát và kiểm soát quá tŕnh đưa ra quyết định, chê bai các đối thủ, giữ chân các cộng sự quan trọng, chẳng hạn như người bảo trợ của ông, Nelson Rockefeller, và thu phục các nhà phê b́nh:

    • Sau khi Gerald Ford xáo trộn nội các của ḿnh vào tháng 11 năm 1975, loại bỏ Kissinger khỏi vị trí cố vấn an ninh quốc gia và chuyển Donald Rumsfeld từ vị trí chánh văn pḥng sang làm Bộ trưởng Quốc pḥng, Kissinger đă nói chuyện với Bộ trưởng Tài chính William Simon . Anh ấy lưu ư: “Kẻ đă chém tôi bên trong ṭa nhà này sẽ không chém tôi ít hơn ở Pḥng Quốc pḥng.
    • Trong cuộc tṛ chuyện với Tổng thống Nixon về vụ bê bối nghe lén bất hợp pháp vào tháng 6 năm 1973, Nixon đe dọa sẽ tiến hành chiến tranh chính trị với các đảng viên Đảng Dân chủ nếu họ nhấn mạnh vấn đề này. “Hăy thoát khỏi những điều nhảm nhí,” Nixon giận dữ tuyên bố. “Bobby Kennedy là người khai thác rượu vĩ đại nhất.” Tổng thống thậm chí c̣n nghi ngờ điện thoại của ḿnh đă bị nghe lén vào đầu những năm 1960. “[J.Edgar Hoover] nói rằng Bobby Kennedy đă ra lệnh cho [FBI] khai thác mọi người. Tôi nghĩ ngay cả tôi cũng có tên trong danh sách đó,” Tổng thống Nixon nói với Kissinger. Khi Nixon lưu ư rằng vụ bê bối nghe lén sẽ “bắt gặp một số bạn bè của ông”, Kissinger trả lời: “Chà, tôi sẽ không buồn chút nào đâu”.
    • Trong một cuộc tṛ chuyện kỳ ​​lạ với nhà hoạt động/nhà thơ phản chiến Alan Ginsburg vào ngày 23 tháng 4 năm 1971, Kissinger đă thảo luận về việc gặp gỡ những người phản đối kịch liệt chính quyền Nixon. Ginsburg gợi ư về cuộc gặp, nói đùa rằng “Sẽ hữu ích hơn nếu chúng ta có thể khỏa thân trên tivi. “Tôi hiểu rằng bạn không biết làm thế nào để thoát khỏi cuộc chiến,” Ginsburg được ghi lại. “Tôi nghĩ là chúng tôi đă làm vậy,” Kissinger trả lời, “nhưng chúng tôi luôn muốn nghe những quan điểm khác.”

    Trong cuộc tṛ chuyện về việc ném bom miền Bắc Việt Nam ngày 15 tháng 4 năm 1972 , Nixon nhớ lại rằng việc ném bom trước đây đă không thể đánh bại được lực lượng của Hồ Chí Mhin.

    Nixon : “Tất nhiên, bạn muốn nhớ rằng Johnson đă ném bom họ trong nhiều năm và điều đó chẳng mang lại lợi ích ǵ cả.”

    Kissinger : Nhưng thưa Tổng thống, Johnson chưa bao giờ có một chiến lược; anh ấy đang loại bỏ họ. Anh ta sẽ đến với 50 chiếc máy bay; 20 máy bay; Tôi cá với bạn rằng trong một ngày chúng tôi sẽ có nhiều máy bay hơn số lượng máy bay mà Johnson có trong một tháng.

    Nixon : Thật sao?

    Kissinger : Vâng.


    Bản ghi cuộc tṛ chuyện qua điện thoại của Kissinger Hôm nay, Cơ quan Lưu trữ An ninh Quốc gia thông báo xuất bản một bộ bản ghi cuộc tṛ chuyện qua điện thoại (telcon)
         
    độc đáo và toàn diện của Henry A. Kissinger , một trong những nhà ngoại giao Hoa Kỳ nổi tiếng và gây tranh căi nhất trong nửa sau của thế kỷ 20. thế kỉ 20. Bao gồm 15.502 tài liệu và hơn 30.000 trang, bộ sưu tập trực tuyến này do Cơ quan Lưu trữ An ninh Quốc gia Kỹ thuật số (ProQuest) xuất bản , là kết quả của nỗ lực kéo dài của Cơ quan Lưu trữ An ninh Quốc gia nhằm bảo mật hồ sơ cực kỳ quan trọng này về ngoại giao Hoa Kỳ trong các chính quyền. của Richard M. Nixon và Gerald R. Ford, khi Kissinger giữ chức Cố vấn An ninh Quốc gia và Bộ trưởng Ngoại giao. Nói chung, các tài liệu bao gồm các công ty viễn thông được phát hành tại Thư viện Tổng thống Nixon cũng như những tài liệu được Bộ Ngoại giao giải mật do yêu cầu của Đạo luật Tự do Thông tin của Cơ quan Lưu trữ. Bộ phim làm sáng tỏ mọi khía cạnh của chính sách ngoại giao Nixon-Ford, bao gồm t́nh trạng ḥa hoăn Mỹ-Liên Xô, các cuộc chiến ở Đông Nam Á, cuộc khủng hoảng Nam Á năm 1971 và Chiến tranh Trung Đông tháng 10 năm 1973, cùng nhiều diễn biến khác. Nhiều người đối thoại với Kissinger bao gồm các nhân vật chính trị và chính sách, chẳng hạn như Tổng thống Nixon và Ford, Ngoại trưởng William Rogers, Thống đốc Nelson Rockefeller, cựu Bộ trưởng Quốc pḥng Robert S. McNamara, và Đại sứ Liên Xô Anatoli Dobrynin; các nhà báo và nhà xuất bản như Ted Koppel, James Reston và Katherine Graham; và những người bạn kinh doanh nổi tiếng như Frank Sinatra.

    Bên cạnh các hồ sơ giấy về các công ty viễn thông của Kissinger, ấn phẩm của Cơ quan Lưu trữ c̣n bao gồm tài liệu âm thanh độc đáo từ các băng ghi âm của Nhà Trắng Nixon. Có vẻ như những cuộn băng mà nhân viên của Kissinger sử dụng để chuẩn bị cho các cuộc điện thoại đă không c̣n tồn tại. Trong khi Nixon và các nhân viên Nhà Trắng cuối cùng biết được đây là hành vi của Kissinger, không ai ngoại trừ Nixon và một số trợ lư cho đến tận mùa hè năm 1973 nhận ra rằng Nixon đă bí mật ghi âm các cuộc nói chuyện điện thoại cũng như các cuộc gặp với Kissinger và các quan chức khác. Do đó, các bản ghi âm và giấy tồn tại cho một số cuộc tṛ chuyện giống nhau. Hơn nữa, một số đoạn băng ở Nhà Trắng của Nixon là nguồn duy nhất cho một số cuộc tṛ chuyện qua điện thoại giữa Nixon và Kissinger. Là một tính năng đặc biệt trong bộ sưu tập này, Kho lưu trữ bao gồm càng nhiều âm thanh của các cuộc tṛ chuyện qua điện thoại giữa Nixon-Kissinger càng tốt.

    Việc những tài liệu này có được ngay từ đầu là kết quả của những nỗ lực lâu dài của Cơ quan Lưu trữ An ninh Quốc gia. Khi Henry Kissinger rời Bộ Ngoại giao vào đầu năm 1977, ông đă chuyển các công ty viễn thông và các tài liệu khác đến Thư viện Quốc hội dưới dạng “giấy tờ riêng”. Ngay sau đó, các nhà báo đă cố gắng buộc các công ty viễn thông phải tiết lộ thông qua một vụ kiện theo Đạo luật Tự do Thông tin, nhưng Ṭa án Tối cao đă ra phán quyết rằng họ không có tư cách khởi kiện. Vấn đề tồn tại cho đến năm 1999 khi Cơ quan Lưu trữ An ninh Quốc gia viết thư cho Bộ Ngoại giao và Cục Quản lư Hồ sơ và Lưu trữ Quốc gia (NARA) để hỏi liệu Kissinger có quyền giữ những tài liệu này hay không, vốn là hồ sơ công khai do nhân viên Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao tạo ra. Cơ quan Lưu trữ An ninh Quốc gia có quyền lựa chọn nộp đơn kiện để đảm bảo rằng các cơ quan này tuân thủ luật hồ sơ liên bang, nhưng cả Bộ Ngoại giao và NARA đều không quan tâm đến kiện tụng; thay vào đó, họ yêu cầu Kissinger trả lại hồ sơ. Ông tuân thủ bằng cách trả lại các bộ bản sao cho các cơ quan đó vào năm 2002. Hai năm sau, Dự án Tài liệu Tổng thống Nixon (nay là Thư viện và Bảo tàng Tổng thống Nixon) mở cửa cho việc nghiên cứu các công ty viễn thông trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 1969 đến ngày 8 tháng 8 năm 1974. Bộ Ngoại giao có một danh sách hơi chồng chéo nhau trong khoảng thời gian từ tháng 9 năm 1973 đến tháng 12 năm 1976, khi Kissinger c̣n là Ngoại trưởng.

    Trong khi hầu hết các công ty viễn thông từ những năm Nixon đều có mặt tại Cục Lưu trữ Quốc gia, một số lượng đáng kể vẫn được phân loại và Cục Lưu trữ An ninh Quốc gia đă bắt đầu gửi yêu cầu xem xét bắt buộc đối với chúng. Đối với các công ty viễn thông do Bộ Ngoại giao nắm giữ, phải có yêu cầu của Đạo luật Tự do Thông tin do Cục Lưu trữ An ninh Quốc gia nộp vào năm 2001 mới bắt đầu mở chúng ra. Từ năm 2002 đến năm 2008, Bộ đă giải mật hoặc công bố dưới h́nh thức tiêu chuẩn hơn 6.000 công ty viễn thông. Một số công ty viễn thông đă bị từ chối, toàn bộ hoặc một phần, v́ lư do riêng tư hoặc an ninh quốc gia; trong khi một số được phát hành theo kháng cáo, một số tài liệu vẫn không có sẵn. Hơn nữa, trong một quyết định vào tháng 6 năm 2007, Bộ Ngoại giao đă giữ lại hơn 800 công ty viễn thông, nhiều trong số đó là các cuộc tṛ chuyện với cố Tổng thống Gerald R. Ford. Những công ty viễn thông đó đang bị kháng cáo.

    Quyết định của Bộ Ngoại giao từ chối hơn 800 công ty viễn thông là một điều phi thường. Thư quyết định của Bộ viện dẫn (b) (5) sự miễn trừ của Đạo luật Tự do Thông tin mà các cơ quan liên bang giải thích là cho phép miễn trừ “thông tin liên lạc giữa các cơ quan hoặc nội bộ cơ quan bao gồm quy tŕnh thảo luận, luật sư-khách hàng, thông tin sản phẩm công việc của luật sư”. hoặc các thông tin liên lạc đặc quyền của tổng thống.” Việc Bộ sử dụng quyền miễn trừ (b) (5) và yêu cầu về “quyền liên lạc đặc quyền của tổng thống” để miễn trừ các tài liệu đă có tuổi đời ba mươi năm có thể khiến đây trở thành một trong những hành vi lạm dụng lớn nhất đối với (b) (5) và yêu cầu đặc quyền trong lịch sử của FOIA. Như các ṭa án liên bang đă ra phán quyết, những đặc quyền như vậy sẽ bị xói ṃn theo thời gian và khi thời gian trôi qua, lợi ích của công chúng đối với các hồ sơ lịch sử mở có sức nặng lớn hơn nhiều. Trong chính quyền Bush sắp rời nhiệm, những cân nhắc như vậy ít có ảnh hưởng và không có ǵ ngạc nhiên khi bàn tay của Nhà Trắng đứng đằng sau những tuyên bố về đặc quyền hành pháp. Henry Kissinger từng là cố vấn cho Tổng thống Bush và Phó Tổng thống Cheney, và theo các nguồn tin chính phủ, ông đă tác động đến quá tŕnh xem xét giải mật để đảm bảo rằng các cuộc trao đổi qua điện thoại của ông với Tổng thống Ford vẫn được giữ bí mật càng lâu càng tốt.

    A. Các Telcons chọn lọc với các phiên bản âm thanh từ Băng Nhà Trắng của Nixon

    Tài liệu 1: “Làm sao tôi biết ông không ăn trộm giấy tờ khắp nơi”
    Với Tổng thống Nixon, ngày 17 tháng 6 năm 1971, 7:40 tối ( Hội thoại 005-117 - MP3 )
    Ấn bản liên tục của The New York Times và sắp xảy ra do The Washington Post đăng tải về “Hồ sơ Lầu Năm Góc” (có tên chính thức là Quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam, 1945–1967: Một nghiên cứu do Bộ Quốc pḥng chuẩn bị ) , bị ṛ rỉ bởi các nhân viên Daniel Ellsberg và Anthony Russo của Tập đoàn RAND, đă tạo ra một cuộc khủng hoảng trong chính quyền Nixon. Như công ty viễn thông này gợi ư, Nixon muốn chuyển hướng mọi tranh căi về cuộc chiến sang những người tiền nhiệm bằng cách yêu cầu cựu Tổng thống Johnson và cố vấn an ninh quốc gia Walt Rostow của ông đưa ra tuyên bố về vụ ṛ rỉ. Đoạn điện thoại được đánh máy truyền tải nội dung chính của cuộc tṛ chuyện, nhưng một lần nghe đoạn băng ghi âm rất rơ ràng của Nhà Trắng cho thấy các trợ lư của Kissinger đă bỏ sót khá nhiều chi tiết. Giống như nhiều người, telcon này không gần đúng nguyên văn. Ví dụ, ở trang 2 của tài liệu, rơ ràng là người ghi âm đă không nghe thấy Kissinger nói rằng “Những người này đang làm suy yếu niềm tin vào chính phủ. Ông [Nixon] đang chống lại việc coi thường luật pháp và quan điểm cho rằng mục đích biện minh cho phương tiện.” Hơn nữa, Kissinger kể lại cuộc tṛ chuyện của ḿnh với phóng viên tạp chí Time Jerrold Schechter, người được cho là đă nói: “làm sao tôi biết bạn không làm điều tương tự?” đối với Việt Nam. Kissinger nói với Nixon rằng ông ấy đă trả lời: “làm sao tôi biết ông không ăn cắp tài liệu ở khắp mọi nơi.” Lo ngại về tác động của việc công bố nghiên cứu tuyệt mật về việc ra quyết định trong Chiến tranh Việt Nam, Nixon muốn có hành động pháp lư chống lại những tờ báo đó nhưng Ṭa án Tối cao đă bác bỏ yêu cầu của Bộ Tư pháp về lệnh cấm đối với tờ Times  Post 

    Tài liệu 2: “Chúng ta có thể ném bom Bejesus ra khỏi chúng”
    Với Tổng thống Nixon, 11:30 chiều ngày 15 tháng 4 năm 1972 ( Đối thoại 022-131 )
    Trong những tuần sau cuộc tấn công mùa xuân năm 1972 của Bắc Việt, Nixon và Kissinger ra lệnh ném bom mạnh hơn vào miền Bắc , mặc dù giữ lại các cuộc tấn công vào Hà Nội hoặc thả ḿn Cảng Hải Pḥng, hai hành động mà họ tổ chức để quyết định tiếp theo sẽ leo thang. Cuộc tṛ chuyện này diễn ra khi Kissinger đang ở nhà, đă được ghi lại đầy đủ trên hệ thống băng của Nhà Trắng, nhưng rơ ràng máy phát băng của Kissinger đă không bắt đầu ghi âm nó cho mục đích ghi âm cho đến khoảng 10 phút rưỡi sau cuộc tṛ chuyện. Đoạn băng của Nixon, với âm lượng nhỏ và không dễ theo dơi, bắt đầu bằng cuộc thảo luận về chiến lược ngoại giao, trong đó có cuộc nói chuyện của Kissinger với Đại sứ Liên Xô Dobrynin ngày hôm đó (được tường thuật chi tiết trong tập lịch sử của Bộ Ngoại giao, Quan hệ Xô-Mỹ. : Những năm giảm căng thẳng ). ( Lưu ư 1 ) Trước quyết định của Hà Nội hoăn các cuộc đàm phán riêng với Kissinger dự kiến ​​vào ngày 24 tháng 4), Kissinger nói với Dobrynin rằng “hành vi như vậy của Hà Nội [là] bằng chứng rơ ràng về việc không sẵn ḷng tiến hành đàm phán nghiêm túc và phản ánh mong muốn cơ bản của Bắc Việt 'để hạ bệ tổng thống Mỹ thứ hai.'” Trong khi Nhà Trắng sẵn sàng kiềm chế các cuộc tấn công vào Hà Nội hoặc Hải Pḥng, Nixon tin rằng những lời đe dọa như vậy là một “lá bài giữ” trong các cuộc đàm phán: “Hoặc phải như vậy [a] giải quyết hoặc chúng tôi sẽ phong tỏa.” Bên cạnh việc thảo luận chi tiết về chiến lược quân sự, được ghi lại chính xác trong telcon (ít nhất là cuộc thảo luận ở nửa sau của cuộc tṛ chuyện), họ c̣n thảo luận về lịch tŕnh chuyến đi bí mật sắp tới của Kissinger tới Moscow, sẽ diễn ra trong vài ngày tới.

    Tài liệu 3: “Người ấy đă mất trí sau lá thư tôi viết”
    Với Tổng thống Nixon, 18/11/1972, 12:18 PM ( Conversation 033-092 - MP3 )
    Khi cuộc đàm phán ḥa b́nh trong Chiến tranh Việt Nam kết thúc -tṛ chơi, chính quyền Nixon bối rối trước những vấn đề với đồng minh miền Nam Việt Nam, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Khi nghe âm thanh xác nhận, telcon này là bản tái hiện cuộc tṛ chuyện có độ chính xác cao. Tức giận với dự thảo hiệp định ḥa b́nh mà Kissinger đă đàm phán với nhà ngoại giao Bắc Việt Lê Đức Thọ, Thiệu và các cố vấn của ông liên tục đề xuất những thay đổi có lợi cho lập trường của Sài G̣n. Sau khi đă viết cho Thiệu thông báo rằng “cuộc thương lượng đă kết thúc”, Nixon gợi ư rằng Thiệu “phải mất trí” để tiếp tục thúc đẩy những thay đổi. Nixon khẳng định “chúng ta sẽ không bị quấy rối” và bác bỏ ư kiến ​​cử phái viên miền Nam Việt Nam đến Washington; Tuy nhiên, hóa ra, t́nh trạng quấy rối vẫn tiếp tục và các nhà ngoại giao miền Nam Việt Nam đă có mặt tại Pḥng Bầu dục trong ṿng vài tuần. Điểm khó khăn nhất, và cũng là điểm mà Nixon và Kissinger không chịu nhượng bộ, là việc Thiệu nhất quyết yêu cầu lực lượng Bắc Việt rời khỏi miền Nam giống như thời điểm lực lượng Mỹ rời khỏi miền Nam Việt Nam. Như Nixon đă nhận xét trong cuộc tṛ chuyện này, “việc rút quân phải được xử lư trên cơ sở mà chúng tôi đă đề xuất”. Việc miền Bắc sẽ giữ lực lượng của ḿnh trong các vùng miền Nam Việt Nam là điều kiện cho Hiệp định Ḥa b́nh Paris tháng 1 năm 1973, nhưng là điều kiện chỉ có thể làm dấy lên nghi ngờ về tương lai của chế độ Sài G̣n. Việc nghe âm thanh xác nhận rằng telcon này là bản tái hiện cuộc tṛ chuyện có độ chính xác cao.

    B. Những công ty viễn thông được lựa chọn
    I. Những năm ở Nhà Trắng: Là Cố vấn An ninh Quốc gia

    Tài liệu 1: “Bạn không thể viết lịch sử sau khi bạn đă thấy một thứ như vậy”
    Với Thứ trưởng Bộ Ngoại giao phụ trách Chính trị, U. Alexis Johnson, ngày 19 tháng 1 năm 1970 10:40 sáng
    Một trong những cuộc đàm phán phức tạp nhất trong thời kỳ đầu tiên năm đàm phán của Nixon liên quan đến một thỏa thuận dệt may có liên quan đến việc Hoa Kỳ trao trả Okinawa cho Nhật Bản. Dưới áp lực từ các bang miền Nam nhằm bảo vệ ngành dệt may khỏi sự cạnh tranh của Nhật Bản, Nixon và Kissinger gặp khó khăn trong việc thuyết phục Tokyo tuân theo sự hiểu biết mà họ tin rằng đă đạt được với Thủ tướng Nhật Bản Sato trong chuyến thăm tháng 11 năm 1969 của ông. Trong khi họ cho rằng Sato đă đồng ư một giải pháp “toàn diện” sẽ đạt được vào cuối tháng 12 th́ Thủ tướng lại không có cách hiểu như vậy. Cuộc điện đàm này với Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách Chính trị U. Alexis Johnson (bản thân ông là cựu đại sứ tại Nhật Bản) truyền tải một số sự nhầm lẫn gây ra bởi thực tế là các quan chức chủ chốt của Nhật Bản cũng như đại sứ Hoa Kỳ Armin Meyer không biết về bí mật Nixon-Sato sự hiểu biết (“mảnh giấy”). Vào cuối cuộc tṛ chuyện, Kissinger nhận xét rằng “bạn không thể viết lịch sử sau khi bạn đă chứng kiến ​​một điều như thế. Giấy tờ chẳng liên quan ǵ cả.”

    Tài liệu 2: “Một số câu chuyện thật khủng khiếp… Tôi không nghĩ công chúng thích nó”
    Với Tổng thống Nixon, ngày 17 tháng 3 năm 1970 8:07 chiều
    Bộ sưu tập các điện thoại viên của Kissinger tại Thư viện Nixon rất đầy đủ, nhưng chưa đầy đủ. Một số công ty viễn thông đă xuất hiện trong các bộ sưu tập khác, không chỉ ở những nơi khác trong Hồ sơ Nixon mà c̣n trong các bộ sưu tập của Bộ Ngoại giao. Đây là một ví dụ về một telcon không có trong bộ sưu tập telcon của Kissinger nhưng được t́m thấy trong một tập tin về “Viện trợ Israel” xuất hiện trong các tập tin của Hội đồng An ninh Quốc gia. Trong cuộc tṛ chuyện này, sau cuộc thảo luận ngắn gọn về viện trợ quân sự của Hoa Kỳ cho Israel (đảm bảo tới 8 máy bay Phantom và 20 máy bay phản lực Skyhawk), và trước khi chuyển sang ném bom Lào, Nixon và Kissinger thảo luận về cuộc điều tra Mỹ Lai do Tướng quân đội William Peers chỉ đạo. . Mặc dù Nixon nhấn mạnh rằng việc che đậy “là v́ lợi ích của đất nước”, Kissinger không mấy tự tin rằng điều này càng khiến người ta lo lắng hơn trước mức độ tàn bạo của vụ việc: “một số câu chuyện thật khủng khiếp”. Tuy nhiên, Nixon không nghi ngờ ǵ: “Chúng tôi biết tại sao điều đó lại được thực hiện. Những cậu bé này đă bị giết bởi những người phụ nữ mang thứ đó trong túi của họ.”

    Tài liệu 3: “Đánh Bejesus ra khỏi họ”
    Với Tổng thống Nixon, ngày 17 tháng 9 năm 1970, 9:00 sáng, Bản sao đă cắt
    Bản sao đă cắt Bản
    điện thoại này về cuộc thảo luận giữa Nixon-Kissinger trong cuộc khủng hoảng Jordan tháng 9 năm 1970 đă được giải mật do lệnh bắt buộc của Cục Lưu trữ yêu cầu xem xét. ( Lưu ư 2 ) Vào sáng ngày 17 tháng 9, Nixon đang ở Chicago để vận động bầu cử giữa nhiệm kỳ và Kissinger đă gọi điện cho ông để báo cáo rằng Hussein đă khởi xướng các hành động quân sự chống lại fedayeen  Tờ New York Times sau đó đưa tin rằng Kissinger và Haldeman đă đánh thức Nixon vào nửa đêm để báo tin cho ông ta, nhưng như Kissinger thừa nhận với Nixon, họ đă bịa ra điều đó, dường như là để kịch tính hóa vai tṛ của Nixon. ( Lưu ư 3 ) Khi Kissinger mô tả hành động của Hussein là một “cuộc khủng hoảng”, Nixon nói “một cuộc khủng hoảng là tốt,” không nghi ngờ ǵ nữa v́ ông thấy nó hữu ích về mặt chính trị. Đề cập rằng Hussein đă tham khảo ư kiến ​​của Hoa Kỳ trước khi di chuyển, Nixon đặt câu hỏi liệu “động thái này có phải là kết quả của việc chúng tôi khuyến khích ông ấy hay không”. Kissinger không đưa ra câu trả lời rơ ràng nhưng nói rằng Washington đang cố gắng “cứng lưng ông ta”. Cả hai đều quay sang vấn đề và khả năng can thiệp của Syria và Iraq (Nixon gọi nhầm là “người Iran”) để ủng hộ fedayeen . Nếu điều đó xảy ra, Nixon muốn “sử dụng không quân Mỹ và hạ gục họ”. Trong khi Kissinger đồng ư, ông nhận thấy “có những lập luận mạnh mẽ từ cả hai phía”. Hơn nữa, ông c̣n chỉ ra một vấn đề t́nh báo; T́nh báo Mỹ đang cố gắng “bắt được mục tiêu” nhưng “chúng tôi phải biết phải tấn công vào đâu”. Trong khi Nixon cho rằng có thể cần phải có một “đội đổ bộ” để sơ tán công dân Mỹ, th́ sẽ là “chuyện khác” nếu Thủy quân lục chiến bắt đầu chiến đấu v́ nguy cơ bị Liên Xô can thiệp.

    Tài liệu 4: “Nếu bạn nh́n thấy Helms, hăy hỏi anh ấy xem anh ấy đă bắt đầu thiền chưa.”
    Với Allen Ginsberg, ngày 23 tháng 4 năm 1971 lúc 7:50 tối
    Không lâu trước cuộc biểu t́nh phản chiến “Ngày tháng Năm” ở Washington, nhà thơ Allen Ginsberg đă gọi điện cho Kissinger để sắp xếp một cuộc gặp với Rennie Davis (một trong những thủ lĩnh của “Bộ lạc Ngày tháng Năm”) , David Dellinger và Ralph Abernathy. Trong khi Kissinger tỏ ra sẵn sàng đồng ư với ư tưởng về một cuộc gặp riêng, Ginsberg lại nói đùa về việc có một cuộc thảo luận “trần truồng trên truyền h́nh”. Trong bất kỳ trường hợp nào, khi rơ ràng rằng Ginsberg muốn có một cuộc họp vào đầu cuộc biểu t́nh Ngày tháng Năm, Kissinger không chắc chắn rằng ḿnh sẽ có mặt ở thành phố. Kissinger kết thúc cuộc tṛ chuyện bằng cách đồng ư gọi cho Thượng nghị sĩ Eugene McCarthy, người mà theo Ginsberg, đă đề xuất cuộc gọi.

    Tài liệu 5: “Chúng ta phải trở nên vô kỷ luật một chút”
    Với Luật sư Nhà Trắng Charles Colson, ngày 13 tháng 7 năm 1972 9:22 sáng
    Tài liệu này minh họa vai tṛ của “người đàn ông ŕu” Nixon và cố vấn Nhà Trắng Chuck Colson, sau này bị truy tố về vụ Watergate che đậy vụ trộm trong chiến dịch tranh cử năm 1972. Sau cuộc thảo luận ngắn gọn về nỗ lực của một số quan chức Teamsters nhằm xin ân xá cho cựu tổng thống Jimmy Hoffa để ông có thể đến Hà Nội và đàm phán thả tù binh ở đó, Colson thảo luận về nỗ lực của ḿnh nhằm nhận được sự hỗ trợ cho chiến dịch Nixon từ liên đoàn Teamster. và chủ tịch của nó, Frank Fitzsimmons. Để giành được sự ủng hộ từ các quan chức địa phương và công đoàn cho sự tán thành của Nixon, rơ ràng Fitzsimmons đă sử dụng các chiến thuật đe dọa, chẳng hạn như đe dọa “nghỉ hưu sớm” đối với phó tổng thống Harold Gibbons, người từng nằm trong danh sách kẻ thù của Nixon v́ vai tṛ là người sáng lập Đảng Lao động v́ Ḥa b́nh. . Khi thảo luận về các tổ chức tranh cử của McGovern, Colson và Kissinger nhận xét rằng họ “khôn ngoan” và “vô nguyên tắc”, khiến Colson kết luận rằng “Điều đó chỉ có nghĩa là bản thân chúng ta cũng phải vô kỷ luật một chút”.

    Tài liệu 6: “Không có tṛ đóng thế nào liên quan”
    Với John Kenneth Galbraith, ngày 22 tháng 8 năm 1972 12:10 chiều
    Một cuộc tṛ chuyện khác (và chưa hoàn chỉnh ở đó) không xuất hiện trong bộ sưu tập telcon chính của Kissinger, cuộc tṛ chuyện này với giáo sư kinh tế Harvard “ Ken” (“Stan” là lỗi của người viết tốc kư) Galbraith cũng diễn ra trong chiến dịch năm 1972. Sau vài cuộc tṛ chuyện thân thiện, Kissinger chuyển sang tấn công chính trị vào ông từ chiến dịch tranh cử của Đảng Dân chủ. Trong khi lưu ư rằng các cuộc tấn công thực sự đă giúp ích cho vị trí của ông trong Nhà Trắng, ông lập luận rằng các cuộc đàm phán của ông với Hà Nội để chấm dứt chiến tranh không phải là một “diễn viên đóng thế”, ngay cả khi nó “sẽ giúp ích cho tổng thống nếu thành công”, mà là một “nghiêm túc”. đàm phán.” Sau cuộc bầu cử, Kissinger muốn “làm hết sức ḿnh để mở những cây cầu mở cho cộng đồng tự do như tôi đă làm trước đây và điều đó sẽ không giúp ích ǵ nhiều cho tôi nếu tôi trở thành thủ lĩnh [nhân vật phản diện]. … Tôi [,] là người duy nhất có những trí thức và những người theo chủ nghĩa tự do ở đây.” Trong khi bản ghi của phần c̣n lại của cuộc tṛ chuyện dường như không c̣n tồn tại, có lẽ Kissinger đang gợi ư rằng những “cây cầu” có thể không c̣n mở nếu những người theo chủ nghĩa tự do tiếp tục tấn công ông ta. Trong mọi trường hợp, Kissinger bị coi là “kẻ phản diện” v́ những quyết định và hành động (ví dụ: “vụ đánh bom Giáng sinh”, Đông Timor và Chile) mà ông có thể thấy chính đáng nhưng những người khác lại thấy phản đối.

    Tài liệu 7: “Người khai thác [dây điện] lớn nhất bây giờ là Bobby Kennedy”
    Với Tổng thống Nixon, ngày 1 tháng 6 năm 1973 7 giờ tối
    Khi cuộc khủng hoảng Watergate diễn ra, vị thế của Nixon rất bấp bênh; Ủy ban Watergate của Thượng viện đang bắt đầu tổ chức các phiên điều trần, mặc dù phải mất vài tuần trước khi các đoạn băng của Nhà Trắng được phát hiện. Nhưng Watergate không phải là vụ bê bối duy nhất gây đau khổ cho Nhà Trắng; vài ngày trước đó, có thông tin cho rằng vào năm 1969, Nhà Trắng của Nixon đă ủy quyền cho FBI nghe lén một số quan chức của NSC và Bộ Quốc pḥng, những người bị nghi ngờ làm ṛ rỉ thông tin cho The New York Times . Kissinger có liên quan chặt chẽ đến quyết định này (và sau đó đă đưa ra lời xin lỗi về việc nghe lén như một điều kiện để giải quyết vụ kiện của Morton Halperin chống lại ông ta). Bị xúc phạm trước tuyên bố rơ ràng của cựu Cố vấn An ninh Quốc gia McGeorge Bundy rằng Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy không sử dụng máy nghe lén, Nixon lập luận rằng việc nghe lén trong chính quyền Kennedy đă làm giảm đi bất cứ điều ǵ được thực hiện trong chính quyền của ông (240 so với 110). Hơn nữa, để làm bối rối “những người bạn cấp tiến” của Kissinger, Nixon muốn các con số được đưa ra ngay lập tức (rơ ràng là điều này đă không được thực hiện). Trong một cuộc thảo luận ngắn gọn về việc đưa tin về cuộc gặp với tổng thống Pháp Pompidou được tổ chức ở Iceland, một ngày trước đó, Nixon giận dữ tố cáo báo chí đưa tin về chính quyền.

    II. Với tư cách là Ngoại trưởng và Cố vấn An ninh Quốc gia

    Tài liệu 8: “We Are going to… Def Con Three Alert”
    Với Đại sứ Anh Lord Cromer, ngày 25 tháng 10 năm 1973, 1:03 sáng
    Một trong những khoảnh khắc khủng hoảng trong Chiến tranh Ả Rập-Israel tháng 10 năm 1973 là sau khi lực lượng Israel vượt qua bờ Tây kênh đào Suez và bao vây Tập đoàn quân số 3 của Ai Cập. Mối lo ngại của Moscow đối với số phận của khách hàng Ai Cập đă khiến Tổng thư kư Leonid Brezhnev, vào ngày 24 tháng 10, gửi một lá thư cho Tổng thống Nixon nêu rơ khả năng Liên Xô hành động đơn phương để hỗ trợ Ai Cập. ( Lưu ư 4 )  Trước lá thư của Brezhnev và nhận thức về mối đe dọa, Kissinger và Hội đồng An ninh Quốc gia đă có một cuộc họp vào đêm khuya, nơi họ đồng ư đặt lực lượng quân sự Hoa Kỳ trên toàn thế giới trong t́nh trạng báo động cao hơn, Defcon 3, nhưng không cao đến mức gây lo ngại ở Moscow về hành động quân sự của Mỹ. Nixon không trực tiếp tham gia vào cuộc họp NSC v́ ông ấy đau buồn về những diễn biến của Watergate cũng như việc Phó Tổng thống Agnew từ chức gần đây (v́ cáo buộc tham nhũng). Ngay sau khi thực hiện cuộc gặp, Kissinger đă gọi điện cho đại sứ Anh Cromer để thông báo cho ông về cảnh báo và những cân nhắc dẫn đến việc đó. Việc các đồng minh NATO của Anh và châu Âu nghi ngờ về cảnh báo này và đặt câu hỏi về việc thiếu tham vấn trước khi Washington đưa ra quyết định đă góp phần gây căng thẳng trong quan hệ Mỹ-châu Âu trong những tháng cuối năm 1973.

    Tài liệu 9: “Vậy – bạn không thích những bức tranh đó à?”
    Với Cố vấn đặc biệt của Nhà Trắng Leonard Garment, ngày 27 tháng 12 năm 1973, 10:59 chiều
    Kissinger mới giữ chức Ngoại trưởng được một tháng th́ Chiến tranh Tháng Mười nổ ra ở Trung Đông. Kể từ đó trở đi, Kissinger tích cực tham gia vào các cuộc đàm phán nhằm giảm bớt căng thẳng trong khu vực. Vào ngày 27 tháng 12 năm 1973, Kissinger đă gặp một nhóm lănh đạo cộng đồng Do Thái để thảo luận về cuộc khủng hoảng Trung Đông và các cuộc đàm phán đang diễn ra. Một trong những người tham dự là cố vấn đặc biệt của Nhà Trắng Garment, người đóng vai tṛ liên lạc quan trọng trong Nhà Trắng của Nixon. Garment đă đưa ra những nhận xét phê b́nh về bức tranh trừu tượng mà ông đă xem trong văn pḥng của Kissinger và đề nghị ông thay thế nó bằng một số tác phẩm đẹp đẽ của Bonnards và trường phái ấn tượng. Garment lập luận rằng Kissinger là “một người đàn ông cổ điển với phong cách cổ điển” và sự trừu tượng đó là “dấu hiệu của sự suy tàn và sụp đổ của mọi thứ”. Mặc dù Kissinger được biết là người lo lắng về sự suy giảm quyền lực của Mỹ, nhưng tuyên bố của Garment về nghệ thuật này không khiến ông bận tâm; “Tôi t́nh cờ thích nó.”

    Tài liệu 10: Diego Garcia
    Với Thứ trưởng Bộ Quốc pḥng Kenneth Rush, 9:28 sáng ngày 24 tháng 1 năm 1974
    Trong những năm đầu thập niên 1970, London và Washington đă đàm phán về việc chuyển giao cho Diego Garcia, quần đảo lớn nhất của quần đảo Chagos ở Ấn Độ Dương . Động thái gây tranh căi này liên quan đến việc tước quyền sở hữu của 1.700 cư dân trên quần đảo, nhưng Hoa Kỳ đă t́m kiếm Diego Garcia để thực hiện các hoạt động quân sự trong khu vực, ban đầu là để liên lạc hải quân (ví dụ với các tàu ngầm hoạt động ở Ấn Độ Dương). Trong những năm 1990 và đầu thế kỷ này, nó cũng trở thành căn cứ không quân cho các hoạt động ở Afghanistan và Iraq. Các cáo buộc cũng được đưa ra rằng ḥn đảo này đă trở thành một phần không thể thiếu trong việc vận chuyển những người bị giam giữ ở Afghanistan và các nơi khác. Tất cả những điều này đều thuộc về tương lai, nhưng trong các cuộc đàm phán năm 1974, Washington muốn sử dụng ḥn đảo một cách “không bị cấm đoán”, trong khi người Anh muốn giữ lại một số quyền kiểm soát. Kissinger và Rush nhất trí rằng Hoa Kỳ sẽ phải đồng ư với ngôn ngữ “vô thưởng vô phạt” về tham vấn.

    Tài liệu 11: Vụ thảm sát ở Israel
    Với Ngoại trưởng Anh James Callaghan, ngày 13 tháng 4 năm 1974, 4:10 chiều, Bản sao chính xác
      Kissinger đă phát triển mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với James Callaghan, người đă trở thành Ngoại trưởng khi Đảng Lao động thành lập chính phủ một tháng trước đó. Bản phát hành hiện tại bao gồm một số công ty viễn thông với Callaghan và Đại sứ Peter Rambsbottham về Síp và Hy Lạp, cùng các vấn đề khác. Các vấn đề liên lạc cản trở cuộc tṛ chuyện này khiến Callaghan đề xuất rằng các quan chức Mỹ và Anh đang lắng nghe cuộc tṛ chuyện hăy đặt ống nghe của họ xuống để tăng cường tín hiệu xuyên Đại Tây Dương. Trước đề nghị này, Kissinger cười lớn - bởi v́ ông sẽ không làm điều đó. Một phần hay của cuộc thảo luận là về quan điểm phối hợp về những diễn biến gần đây ở Israel: quân du kích Palestine đă tấn công thường dân Israel, gần biên giới với Lebanon, và người Israel đă đáp trả bằng một cuộc đột kích vào một số ngôi làng ở Lebanon.
     
    Tài liệu 12: “Tôi luôn có thể tin rằng bạn bẩn thỉu”
    Với Ngoại trưởng Callaghan, ngày 22 tháng 7 năm 1974, 11:25 sáng
    Kissinger và Callaghan tiếp tục gặp vấn đề với các cuộc gọi xuyên Đại Tây Dương nhưng liên lạc giữa Mỹ và Anh đă tăng lên trong thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng Síp. Muốn tránh gây phản cảm với chính quyền Hy Lạp vốn đă tài trợ cho cuộc đảo chính ngày 18 tháng 7 năm 1974 chống lại Tổng Giám mục Makarios, Kissinger phản đối việc gây áp lực lên họ. Như ông đă giải thích với Bộ Ngoại giao “nhóm Síp”, “Cố gắng lật đổ Chính phủ Hy Lạp để thỏa măn tâm hồn chúng ta và đưa Makarios trở lại là một cái giá đắt phải trả.” ( Lưu ư 5 ) Thổ Nhĩ Kỳ xâm lược Síp vào ngày 20 tháng 7 và hai ngày sau, ngày chế độ độc tài quân sự Hy Lạp sụp đổ, ngày 22 tháng 7, Callaghan và Kissinger thảo luận về các diễn biến. Cả hai đều đồng ư rằng Nicos Sampson, tay súng được chính quyền Hy Lạp bổ nhiệm để cai trị ḥn đảo, phải ra đi, v́ vai tṛ của ông ta trong việc kích động cuộc xâm lược của Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng sự sụp đổ của chính quyền quân sự nhanh chóng khiến Sampson mất quyền lực. V́ vậy, lời nói đùa về việc Kissinger “bẩn thỉu” đối với Sampson là không liên quan. Rơ ràng Callaghan và Kissinger có quan điểm khác nhau về t́nh h́nh, Callaghan tuyên bố rằng Tổng giám mục Makarios, Tổng thống bị phế truất, là “Tổng thống hợp pháp”, trong khi Kissinger có lập trường “không cam kết”. Kissinger muốn tự do hành động về vấn đề Síp và không muốn ủng hộ Makarios, người mà ông cho là quá độc lập. Trong khi cuộc tṛ chuyện diễn ra vui vẻ, Kissinger sau đó tuyên bố rằng “Về cơ bản, Callaghan đă thất bại” khi không thúc ép người Hy Lạp trở nên cởi mở hơn với Thổ Nhĩ Kỳ. ( Chú ư 6 )

    Tài liệu 13: “Đau đớn vô cùng”
    Với Chủ tịch Ủy ban Dự trữ Liên bang Arthur Burns, ngày 10 tháng 8 năm 1974, 2:33 chiều
    Kissinger và Burns bày tỏ sự thương tiếc về việc Nixon từ chức và hoàn cảnh xung quanh việc đó. Theo Kissinger, gia đ́nh Nixon không giúp ích được ǵ v́ “họ muốn tiếp tục chiến đấu” nhưng ông tin rằng cuộc chiến không thể tiếp tục: “Đủ rồi”. Rơ ràng là người ủng hộ một h́nh thức ân xá nào đó, Kissinger không muốn “gặp một cựu Tổng thống… vào tù hay ra ṭa. Ông ấy không phải là một tổng thống tồi.”

    Tài liệu 14: Vận động hành lang cho chức vụ Phó Tổng thống
    Với Cựu Bộ trưởng Quốc pḥng Elliot Richardson, 13/8/1974
    Khi Gerald Ford trở thành tổng thống th́ không có Phó Tổng thống và Tổng thống mới sẽ phải đưa ra quyết định. Với kinh nghiệm phong phú của ḿnh về chính phủ - tại Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Lầu Năm Góc và Bộ Giáo dục Y tế và Phúc lợi - Elliot Richardson coi đó là điều đương nhiên rằng ông có đủ năng lực để phục vụ. Nelson Rockefeller, người bảo trợ cũ của Kissinger dẫn đầu, nhưng nếu mọi chuyện không thành công, Kissinger đảm bảo với Richardson rằng cá nhân ông sẽ thích anh ta hơn; anh ấy “sẽ không có ai khác.” Chắc chắn Kissinger tôn trọng Richardson và đă làm việc tốt với ông trong những vai tṛ trước đây. Kissinger nói rơ rằng ông không thể ủng hộ George Bush “một phần v́ ông ấy thiếu kinh nghiệm”.

    Tài liệu 15: “Tôi sợ là hơi muộn”
    Với Thủ tướng Hy Lạp Constantine Karamanlis, 15/8/1974, 7:22 chiều
    Không phải bảo vệ chính quyền Hy Lạp, Kissinger càng lo lắng hơn về áp lực lên Thổ Nhĩ Kỳ, một đồng minh lớn của NATO; do đó, ông đă “nghiêng” chính sách của Mỹ đối với Thổ Nhĩ Kỳ. Khi các cuộc đàm phán ở Geneva về Síp bắt đầu sụp đổ vào ngày 13 tháng 8, Mỹ cho rằng những tuyên bố của Thổ Nhĩ Kỳ về việc có ảnh hưởng lớn hơn đối với Síp là chính đáng, ngay cả khi việc Ankara sử dụng vũ lực để duy tŕ chúng là sai lầm. Sáng hôm sau, Thổ Nhĩ Kỳ tiến hành giai đoạn thứ hai của cuộc xâm lược, giúp họ kiểm soát 37% ḥn đảo nhưng cũng dẫn đến vấn đề tị nạn đáng kể, khi hơn 180.000 người Síp gốc Hy Lạp chạy trốn về phía nam. Ngày hôm sau, Kissinger gọi điện cho Thủ tướng Karamlanlis, người lănh đạo chính phủ dân sự mới, để thông báo với ông rằng Ankara sẽ ngừng các hoạt động quân sự vào ngày hôm sau và “chúng tôi sẽ giữ lời hứa này với họ”. Karamlanlis thiếu lực lượng quân sự để gây chiến với Thổ Nhĩ Kỳ, đó là sở thích của ông, và rơ ràng là Washington sẽ không cố gắng đảo ngược sự xâm lấn của Thổ Nhĩ Kỳ. Thủ tướng coi những lời “t́nh bạn dành cho Hy Lạp” của Kissinger là “hơi muộn”, cho rằng “bạn [Kissinger] phải làm điều ǵ đó hơn là đưa ra lời khuyên cho người Thổ Nhĩ Kỳ”. Tuy nhiên, Kissinger không mấy thiện cảm với giới lănh đạo Hy Lạp v́ ông tin rằng họ đă không đạt được những thỏa hiệp mà ông cho là cần thiết để xoa dịu người Thổ Nhĩ Kỳ.

    Tài liệu 16: Những tiết lộ của Seymour Hersh
    với Chánh văn pḥng Nhà Trắng Donald Rumsfeld, 9:35 sáng ngày 23 tháng 12 năm 1974, Đă cắt bỏ.
    Buổi sáng mà câu chuyện của Seymour Hersh về việc do thám người Mỹ xuất hiện trên tờ The New York Times , Kissinger đă nói chuyện với chánh văn pḥng Nhà Trắng Donald Rumsfeld. Kissinger cho biết ông không biết ǵ về các sự kiện được thảo luận trong câu chuyện Hersh được báo cáo nhưng muốn Colby chuẩn bị một báo cáo cho Tổng thống. “Rơ ràng CIA phải hoạt động theo pháp luật.” Việc cắt bỏ nặng nề trong công ty viễn thông này là một ví dụ điển h́nh về việc lạm dụng quyền miễn trừ (b) (5) “tiền quyết định” trong trường hợp FOIA này. 
     
    Tài liệu 17: “Thiệt hại mà những tên khốn này đă gây ra”
    Với nhân viên NSC William Hyland, ngày 22 tháng 2 năm 1975, 3:30 chiều
    Hành động do Quốc hội thực hiện, với Thượng nghị sĩ Henry Jackson (D-Wa) đứng đầu, trừng phạt Liên Xô v́ các chính sách của họ đối với những người Do Thái di cư từ Liên Xô đă có tác động nghiêm trọng đến t́nh trạng ḥa hoăn mà Kissinger đă giúp tạo dựng. Kissinger và Hyland, cựu chuyên gia CIA về chính sách Liên Xô, đồng ư rằng “đám đông Jackson” đă gây ra thiệt hại “không thể tin được”, thậm chí “không thể khắc phục được” đối với quan hệ Mỹ với Moscow.

    Tài liệu 18: “Sẽ là một thảm họa… nếu họ tấn công Tổng thống”
    Với Max Fisher, ngày 24 tháng 3 năm 1975, 7:10 [chiều] 
    Sự đổ vỡ trong các cuộc đàm phán về giai đoạn thứ hai của việc Israel rút quân khỏi Sinai—Thủ tướng Rabin đă có từ chối lời đề nghị của Tổng thống Sadat - khiến Ford và Kissinger đe dọa đánh giá lại chính sách của Hoa Kỳ. Cuộc tṛ chuyện qua điện thoại giữa Kissinger và Max Fisher, một người ủng hộ Đảng Cộng ḥa hoạt động v́ chính nghĩa Do Thái, đă nắm bắt được t́nh trạng căng thẳng khi tranh căi về Sinai II nổ ra. Ngày hôm sau, nói chuyện với Tổng thống Ford, Kissinger nói rằng “Fisher đă gọi cho tôi trong tâm trạng kích động.” Tin rằng người Israel đang bất hợp tác và lo lắng cộng đồng người Do Thái ở Mỹ sẽ tấn công chính sách ngoại giao từng bước của chính quyền, Kissinger khuyên Ford rằng “Chúng ta phải cho Israel thấy rằng chúng ta là một cường quốc và họ không điều hành chính sách đối ngoại của chúng ta”. .”

    Tài liệu 19: “Nạn nhân của Watergate”
    Với nhà báo James Reston của tờ New York Times , 4:30 chiều ngày 16 tháng 4 năm 1975
    Với việc quân Bắc Việt đe dọa lật đổ chế độ Sài G̣n do Mỹ hậu thuẫn, Kissinger liên tục nói chuyện điện thoại để thảo luận về t́nh h́nh . Trao đổi với nhà báo James Reston của tờ New York Times , Kissinger lập luận rằng Washington sẽ ở vị thế tốt hơn để hỗ trợ Sài G̣n và thực thi thỏa thuận ḥa b́nh với Hà Nội, nếu Watergate không lật đổ Nixon: “Tôi nghĩ thỏa thuận có thể được giữ vững nếu không có Watergate [ mà] đă làm suy yếu quyền hành pháp.” Lịch sử phản thực tế luôn có vấn đề, nhưng ngay cả khi không có Watergate, có thể lập luận rằng Quốc hội đă quyết tâm loại bỏ Hoa Kỳ khỏi bất kỳ vai tṛ chiến đấu nào ở Đông Nam Á, đến mức khó có khả năng họ sẽ cho phép bất kỳ hoạt động ném bom nào vào Nhà Trắng. để thực thi hiệp ước ḥa b́nh.

    Tài liệu 20: Liên hệ với Iraq, Triều Tiên và Liên Xô
    Với Chủ tịch Ngân hàng Chase Manhattan David Rockefeller, ngày 19 tháng 4 năm 1975, 6:12 chiều
    Trong suốt chính quyền Nixon và Ford, Chủ tịch Ngân hàng Chase Manhattan David Rockefeller thường xuyên liên lạc với Kissinger; Rockefeller từng là người ủng hộ quan trọng của Nixon. Chase Manhattan là một ngân hàng có ảnh hưởng và anh trai của Rockefeller, Nelson, là người bảo trợ của Kissinger từ cuối những năm 1950. Với việc thế giới tràn ngập đồng đô la dầu lửa, các ngân hàng lớn của Mỹ đang mở rộng quan hệ với các nước ở Trung Đông và Iraq là một trong số đó. Mặc dù Baghdad đă cắt đứt quan hệ với Washington trong Chiến tranh Sáu ngày năm 1967, Kissinger vẫn quan tâm đến việc phát triển mối quan hệ, đặc biệt v́ Iran và Iraq đă giải quyết được một số căng thẳng giữa họ. V́ vậy, nếu một trong những đặc phái viên của Chase gặp Saddam Hussein, ông ta muốn họ cho ông ta biết rằng Washington “sẽ sẵn sàng tiếp xúc chính trị với họ”. Ngoài Iraq, Rockefeller và Kissinger c̣n thảo luận về cách tiếp cận của Chase với Triều Tiên, hội nghị các nhà sản xuất-người tiêu dùng dầu, mối liên hệ của Bộ Ngoại giao về các vấn đề hội nghị Bilderberg, chuyến thăm sắp tới của Rockefeller tới Thổ Nhĩ Kỳ, những diễn biến trong các cuộc đàm phán ở Trung Đông và cuộc nói chuyện gần đây của Rockefeller với nhà kinh tế học Liên Xô. Stanislav Men'shikov (cha của ông từng là đại sứ tại Hoa Kỳ trong những năm 1950) về các chính sách ḥa dịu của Liên Xô.
     
    Tài liệu 21: “Chúng tôi sẽ không đứng yên trước hành động cực đoan hóa thế giới Ả Rập của các bạn”
    Với Đại sứ Israel Simcha Dinitz, ngày 22 tháng 7 năm 1975, 10:50 sáng
    Việc đe dọa đánh giá lại chính sách Trung Đông của Hoa Kỳ chỉ tạo ra sự quay trở lại từng bước -bước đi ngoại giao sau khi có bằng chứng rơ ràng rằng Quốc hội sẽ không cho phép bất kỳ áp lực nào đối với người Israel; hơn nữa, Tổng thống Ford và Sadat đă có những cuộc họp hiệu quả cho thấy rằng các cuộc đàm phán về Sinai có thể trở lại đúng hướng. Tuy nhiên, căng thẳng giữa Israel và Hoa Kỳ vẫn tồn tại, thể hiện rơ trong cuộc tṛ chuyện của Kissinger với Đại sứ Dinitz. Đầu tiên, Kissinger đă xúc phạm cách Israel xử lư đề xuất thiết lập các trạm cảnh báo có nhân viên của Mỹ ở Sinai. Thứ hai, ông nhận thấy áp lực “hoàn toàn không thể chấp nhận được” của Israel đối với viện trợ quân sự của Mỹ cho Jordan. Khó khăn như việc đàm phán Sinai II, đến cuối tháng 8, ba bên đă kư được thỏa thuận.

    Tài liệu 22: “Tôi không muốn một người Ireland rũ xuống quanh đây”
    Với Đại sứ tại Liên hợp quốc Daniel Pat Moynihan, ngày 6 tháng 8 năm 1975
    Cuộc tṛ chuyện dài này với Đại sứ Liên hợp quốc Daniel P. Moynihan (cựu nhân viên Nhà Trắng của Nixon và Đại sứ Hoa Kỳ) tới Ấn Độ, Thượng nghị sĩ tương lai từ New York) tập trung vào vấn đề gia nhập Liên hợp quốc của Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam, những khó khăn trong việc đưa ra một thông điệp rơ ràng về quan điểm của Kissinger và những hướng dẫn hành động của Hoa Kỳ tại Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an. Nhận thấy rằng không thể từ chối tư cách thành viên LHQ của hai nước Việt Nam trong bất kỳ thời gian nào, Kissinger muốn tŕ hoăn việc kết nạp như một con bài thương lượng. Trong ngắn hạn, việc kết nạp miền Nam Việt Nam vào Liên Hợp Quốc vào cùng năm mà “chúng ta đă hết Đông Dương” là không “đúng đắn” và sẽ là một “thảm họa đối với [Tổng thống Ford] nếu có quyền”. Bốn ngày sau, tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Moynihan đă ngăn chặn việc kết nạp hai người Việt Nam vào Liên hợp quốc, lập luận rằng nếu Hội đồng xem xét đề xuất tiếp nhận Hàn Quốc th́ ông ấy sẽ hành động khác.

    Tài liệu 23: “Thật là một thảm họa”
    Với Phó Cố vấn An ninh Quốc gia, Tướng Brent Scowcroft, 16/10/1975, Bản trích lục
    Trong một bữa ăn tối ở Ottawa, Kissinger đă thẳng thắn nói về các cựu tổng thống, trong đó có Kennedy và Nixon, nhưng ông không nhận ra rằng chiếc micro đó là on và báo chí đă nghe toàn bộ cuộc tṛ chuyện. Chẳng bao lâu sau, những nhận xét của Kissinger, chẳng hạn như, rằng Nixon là một “người khó tính và khó chịu”, đă trở thành câu chuyện nổi tiếng trên các phương tiện truyền thông. Trong cuộc tṛ chuyện với cấp phó Brent Scowcroft, người vừa thông cảm vừa kinh hoàng, Kissinger nói rằng ông không chắc phải làm ǵ, nhưng cuối cùng quyết định rằng ông nên “gọi cho [Nixon] và nói với ông ấy.” Scowcroft đồng ư và lưu ư rằng mọi chuyện sẽ “tệ hơn” nếu Kissinger không làm như vậy. Họ cũng thảo luận về một câu chuyện trên New York Times của Leslie Gelb về các cuộc đàm phán SALT II bế tắc; cả hai đều đồng ư rằng nó dựa trên những thông tin ṛ rỉ từ các quan chức Lầu Năm Góc, những người muốn làm suy yếu khẳng định của Kissinger rằng các cuộc đàm phán đă hoàn tất “95%”. Quả thực, thỏa thuận SALT II chưa hoàn thiện cho đến tận năm 1979, khi Moscow và Washington kư kết nó.

    III. Sau “Thảm sát Halloween”: Chỉ có Bộ trưởng Ngoại giao

    Tài liệu 24A và B: “Kẻ cắt cổ tôi bên trong ṭa nhà này sẽ không cắt cổ tôi ít hơn để bào chữa”
    A. Với nhà báo James Reston của tờ New York Times
    , ngày 3 tháng 11 năm 1975 B. Với Bộ trưởng Tài chính William Simon, 3 Tháng 11 năm 1975
    Vài ngày trước đó, Kissinger được biết Tổng thống Ford đă xáo trộn nội các của ḿnh: Kissinger bị sa thải khỏi vị trí cố vấn an ninh quốc gia, người thay thế là cấp phó Brent Scowcroft; James Schlesinger bị sa thải khỏi chức vụ Bộ trưởng Quốc pḥng, được thay thế bởi Chánh văn pḥng Nhà Trắng Donald Rumsfeld, và William Colby sẽ rời CIA và George HW Bush đảm nhận công việc của ông. Được thiết kế bởi Donald Rumsfeld và trợ lư tổng thống Cheney (người sau này trở thành Chánh văn pḥng Nhà Trắng), mục đích của “Vụ thảm sát Halloween” là củng cố vị thế chính trị của Ford khi chiến dịch năm 1976 đến gần. Nói chuyện với Reston, Kissinger không chắc điều ǵ đă gây ra doanh thu, nhưng Kissinger nghĩ rằng trong trường hợp của Schlesinger, Tổng thống đă “có đủ” những ǵ ông coi là hành động đâm sau lưng của Schlesinger trên các phương tiện truyền thông. Cuộc tṛ chuyện với William Simon thậm chí c̣n thẳng thắn hơn. Simon đă trấn an các phóng viên rằng Kissinger bằng cách nào đó đă sắp đặt sự thay đổi nội các; thực sự, ông tin rằng mọi thứ sẽ “tồi tệ hơn” đối với Kissinger với Rumsfeld tại Lầu Năm Góc. Kissinger đồng ư: “Kẻ đă chém tôi bên trong ṭa nhà này sẽ không chém tôi ít hơn ở Pḥng Quốc pḥng.”

    Tài liệu 25: “Chúng tôi đang cố gắng giữ im lặng”
    Với Đại sứ Anatoli Dobyrnin, ngày 23 tháng 12 năm 1975
    Việc t́nh báo Liên Xô nhắm tín hiệu vi sóng lên các tầng trên của Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Moscow, có lẽ là một phần của hoạt động t́nh báo, đă trở thành một điểm được đưa ra vào cuối năm 1975. Nó có thể đă có tác động vật lư đến Đại sứ Walter Stoessel, người từng là cư dân của một trong những tầng trên; anh ta mắc một căn bệnh về máu hiếm gặp và phải được chuyển về Washington. Đại sứ Dobyrnin có thể đă không nắm được vấn đề này như được gợi ư bởi phản ứng ngạc nhiên của ông trước tin tức của Kissinger rằng số giờ truyền vi sóng đă tăng gấp đôi. Trong khi Kissinger che đậy t́nh h́nh để ngăn chặn sự bất b́nh trong công chúng, báo chí đưa tin liên kết ḷ vi sóng với vấn đề sức khỏe của Đại sứ Walter Stoessel nổi lên vài tháng sau đó. Vào cuối cuộc thảo luận, Dobrynin đề cập ngắn gọn đến các quyết định gần đây của Nhà Trắng cấm sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc nội chiến ở Angola và hạn chế vai tṛ của Hoa Kỳ trong viện trợ quân sự cho Zaire và Zambia.

    Tài liệu 26: “Tôi không thể hiểu làm thế nào mà Cơ quan Kiểm soát Vũ khí có thể đặt ḿnh vào quyền của Bộ trưởng Quốc pḥng”
    Với Giám đốc Cơ quan Kiểm soát Vũ khí và Giải trừ Quân bị [ACDA] Fred Ikle, ngày 6 tháng 2 năm 1976, Bản chính thức
    Kissinger mất quyền trong các quyết định kiểm soát vũ khí chiến lược được thể hiện rơ ràng trong cuộc thảo luận này với Fred Ikle, giám đốc Cơ quan Kiểm soát và Giải trừ Vũ khí. Do kết quả của cuộc thanh lọc những người kiểm soát vũ khí của ACDA/Bộ Ngoại giao, do Thượng nghị sĩ Henry Jackson yêu cầu vào cuối nhiệm kỳ đầu tiên của Nixon, một nhóm bảo thủ hơn, do Ikle đứng đầu, đă tiếp quản cơ quan. Dù Kissinger có đóng vai tṛ ǵ trong cuộc thanh trừng, ông ấy có thể cảm thấy tiếc v́ nó quá toàn diện v́ nó đă củng cố đáng kể các quan chức tại ACDA và Lầu Năm Góc, những người nghi ngờ và chỉ trích nhiều hơn về t́nh trạng ḥa hoăn và các cuộc đàm phán SALT.

    Tài liệu 27: Đặc quyền của Tổng thống
    với Bộ trưởng Tư pháp Edward Levi, ngày 8 tháng 3 năm 1976
    Đạo luật Giám sát T́nh báo Nước ngoài năm 1978 tạo ra Ṭa án FISA có nguồn gốc từ chính quyền Ford, nơi Nhà Trắng ủng hộ luật quản lư việc nghe lén trong nước. Levi muốn thông báo ngắn gọn cho Kissinger về dự luật được đề xuất và hiểu rằng ông phản đối nó. Kissinger, không giống như Nhà Trắng của Ford, coi đó là điều đương nhiên rằng luật pháp đă xâm phạm quyền hành pháp; ông đă nói với một luật sư của Bộ Ngoại giao rằng “bạn bảo vệ những ǵ đúng nếu đó là đặc quyền của Tổng thống ngay cả khi bạn đứng một ḿnh.”

    Tài liệu 28: “Mọi người nói rằng gd [sic] Kissinger … phải ra đi”
    Với Thượng nghị sĩ Barry Goldwater, ngày 3 tháng 8 năm 1976, 6:49 chiều
    Sau cuộc thảo luận ngắn gọn về lập trường của Kissinger về vấn đề Pakistan quan tâm đến nhà máy tái chế hạt nhân, Kissinger Goldwater hỏi làm thế nào anh ta có thể giúp chiến dịch của Ford sau đại hội đảng Cộng ḥa vào tuần sau. Goldwater đề xuất “các phiên họp tăng giá” và thâm nhập vào “các nhóm chủ nghĩa bảo thủ mạnh mẽ” để Kissinger có thể xây dựng sự ủng hộ cho Ford. Rơ ràng là Goldwater nghiêng về phe Rockefeller của Đảng Cộng ḥa, ít nhất là trong lĩnh vực chính sách đối ngoại: “Mọi người nói rằng gd [sic] Kissinger… phải ra đi và tôi nói tại sao… họ không thể làm được.”

    Tài liệu 29: “Chiến dịch này đă thất bại”
    Với Cố vấn An ninh Quốc gia, Tướng Brent Scowcroft, ngày 25 tháng 10 năm 1976, 10:10 sáng
    Chưa đầy 10 ngày trước cuộc bầu cử, Kissinger và Scowcroft đă cân nhắc về tương lai chính trị của Tổng thống Ford. Mặc dù đánh giá của Kissinger về cơ hội của Ford sẽ thay đổi từng ngày, nhưng trong cuộc tṛ chuyện này, ông đánh giá rằng chiến dịch đă “thất bại”. Đối với ông, lời khuyên của Tham mưu trưởng Richard Cheney rằng Ford không nên “nói quá” là không liên quan. Trong khi cả hai đều đồng ư rằng cuộc tranh luận thứ hai với Jimmy Carter gây tổn hại v́ Ford đă lập luận rằng Ba Lan không nằm dưới sự kiểm soát của Liên Xô, Scowcroft tin rằng chiến dịch đă lấy lại được “động lực”.


    Ghi chú

    1. Về trao đổi Dobrynin-Kissinger ngày 15 tháng 4 năm 1972, xem David Geyer và Douglas Selvage, biên tập viên, Quan hệ Xô-Mỹ: Những năm giảm căng thẳng, 1969-1972 ( Washington, DC: Văn pḥng In ấn Chính phủ Hoa Kỳ, 2008), 662- 668.

    2. Để có cái nh́n tổng quan hữu ích về cuộc khủng hoảng, xem Nigel J. Ashton, “Pulling the Strings: King Hussein's Role in the Crisis of 1970 in Jordan,” The International History Review XXVIII (2006): 94-118.

    3 . Seymour Hersh, Cái giá của quyền lực: Kissinger trong Nhà Trắng Nixon (New York: Summit Books, 1983, 239.

    4 . Để biết thông tin cơ bản về những diễn biến này, hăy xem “Chiến tranh Tháng Mười và Chính sách của Hoa Kỳ,” https://nsarchive.gwu.edu/NSAEBB/NSAEBB98/press.htm

    5. Để “cứu lấy linh hồn chúng tôi”, xem bản ghi nhớ cuộc tṛ chuyện, “Khủng hoảng Síp,” ngày 18 tháng 7 năm 1974.

    6. Về từ “sai lầm”, xem bản ghi nhớ cuộc tṛ chuyện, “Cyprus,” ngày 14 tháng 8 năm 1974.

     

     

     

     

     

  7. https://www.cfr.org/timeline/how-911-reshaped-foreign-policy

  8. https://www.history.navy.mil/content/history/nhhc/browse-by-topic/wars-conflicts-and-operations/sept-11-attack.html

  9. https://irp.fas.org/threat/terror_chron.html

  10. https://www.rand.org/pubs/papers/P6906.html

  11.  

  12.  

  13.  

  14.  

  15.  

  16. https://since911.com/gallery/terrorism-timeline/

  17. https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_terrorist_incidents

  18. https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_United_States_presidential_assassination_attempts_and_p

  19. https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_assassinated_and_executed_heads_of_state_and_government

  20. https://www.statista.com/chart/27753/assassinated-leaders-of-the-world/

  21. https://www.archives.gov/research/jfk/warren-commission-report/appendix7.html 

 

Vô Tổ Quốc Mất Danh Dự Vô Trách Nhiệm

 

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative

 

THÁNG 11

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative

 

THÁNG 10

 

THÁNG 9/2020

 

VĂN HÓA - LỊCH SỬ

 

TỔNG HỢP BÀI VỞ CÁC DIỄN ĐÀN

 

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative

 

VẤN ĐỀ TÔN GIÁO

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


VIETNAMESE COMMANDOS

  1. Một Trang Lịch Sử

  2. Viết Lại Lịch Sử  Video

  3. Secret Army Secret War Video

  4. Đứng Đầu Ngọn Gió Video

  5. Con Người Bất Khuất Video

  6. Dấu Chân Biệt Kích Video

  7. Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

  8. Huyền thoại về:"Những người lính một thời bị lăng quên" Kim Âu

  9. Phản Bội Kim Âu

  10. Tiếng Nói Công Lư Kim Âu

  11. Vietnam’s ‘Lost Commandos’ Gain Recognition in Senate

  12. President Unit Citation at Fort Bragg

  13. Vietnamese Commando never knew U.S. declared him dead

  14. Back from the dead

  15. Bill of Compensation

  16. Miami! Gian Hùng Lộ Mặt  Kim Âu 

  17. Honoring Vietnamese Commandos

  18. Honoring South Vietnamese Army

  19. Vietnamese Commandos Win Last Battle

  20. Uncommon Betrayal

  21. Go to congress

  22. Trong Gịng Lịch Sử Kim Âu

  23. Oplan 21 Kim Âu

  24. Biệt Kích Gỉa, Biệt Kích Thật Kim Âu

  25. Xuyên Tạc Lịch Sử Kim Âu

  26. Cảm Nghĩ Đầu Xuân (2011)

  27. Những Tên Miệng Hùm Gan Sứa Kim Âu

  28. Loretta Sanchez Không Hề Gian Dối Kim Âu

  29. Ăn Qủa Nhớ Kẻ Trồng Cây Kim Âu

  30. The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.

  31. Lá Thư Tự Thú

  32. Người Tù Kiệt Xuất

  33. Hồi Chuông Báo Tử I

  34. Hồi Chuông Báo Tử II

  35. Hồi Chuông Báo Tử III

  36. Hồi Chuông Báo Tử IV

  37. Thư Trả Lời Mai Nhuệ Anh

  38. Thánh Nhân Vô Phí Vật

  39. Đặc Biệt Cho Nhóm 10%

  40. Phân Định Chính Tà

  41. Phân Định Chính Tà 1

  42. Phân Định Chính Tà 2

  43. Phân Định Chính Tà 3

  44. Hư Danh - Hư Cấu

  45. Kim Âu Trả Lời Phỏng Vấn Hồng Phúc

  46. Hồng Phúc Phỏng Vấn Tourison. Lê Ngung

  47. Sư Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  48. Tri Nhân Tri Diện Bất Tri Tâm

  49. Nguyên Uỷ Một Vụ Kiện

  50. Trả Lời Câu Hỏi Của Một Vi Hữu


 

 

Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn * Một Trang Lịch Sử

Vietnamese Commandos' History * Vietnamese Commandos vs US Government * Lost Army Commandos

Bill of Compensation * Never forget * Viết Lại Lịch Sử  Video * Secret Army Secret War Video

Đứng Đầu Ngọn Gió Video * Con Người Bất Khuất Video * Dấu Chân Biệt Kích Video * Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.* Gulf of Tonkin Incident * Pentagon Bạch Hóa * The heart of a boy

U.S Debt Clock * Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton * None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) * Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

The World Order Eustace Mullin * Trăm Việt trên vùng định mệnh * Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis * Lyndon Baines Johnson Library Musuem

Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn * Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

Nghi Thức Ngoại Giao * Lễ Nghi Quân Cách * Sắc lệnh Cờ Vàng * Quốc Tế Cộng Sản

How Does a Bill Become Law? * New World Order * Diplomacy Protocol. PDF

The World Order Eustace Mullin * Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

Vietnam War Document * American Policy in Vietnam

Foreign Relations Vietnam Volum-1 * The Pentagon Papers * Pentagon Papers Archives

Vietnam and Southeast Asia Doc * Vietnam War Bibliogaphy * Công Ước LHQ về Luật Biển

CIA and NGOs * CIA And The Generals * CIA And The House Of Ngo * Global Slavery

Politics of Southeast Asia * Bên Gịng Lịch Sử

Dấu Binh Lửa * Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

Bách Việt  * Lược Sử Thích Ca  * Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

Douglas Mac Arthur 1962 * Douglas Mac Arthur 1951 * John Hanson, President of the Continental Congress

Phương Pháp Biện Luận * Build your knowledge

To be good writer * Ca Dao -Tục Ngữ * Chùa Bái Đính * Hán Việt

Top 10 Crime Rates  * Lever Act * Espionage Act 1917 * Indochina War * Postdam * Selective Service Act

War Labor Board * War of Industries * War Production Board * WWII Weapon * Supply Enemy * Wold War II * OSS

Richest of The World * Truman Committee   * World Population * World Debt * US Debt Clock *

An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email * Public Holiday * Funny National Days

Oil Clock * GlobalResearch * Realworldorder * Thirdworldtraveler * Thrivemovement *Prisonplanet.com *Infowars

Rally protest *Sơ Lược VềThuyền Nhân  *The Vietnamese Population in USA *Lam vs Ngo

VietUni * Funny National Days  * 1DayNotes   

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 


 

 

MINH THỊ

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG. KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI, XĂ HỘI VÀ ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM CƯỜNG THỊNH PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu