at Capitol. June 19.1996
with Sen. JohnMc Cain
with Congressman Bob Barr
with General John K Singlaub
CNBC .Fox .FoxAtl .. CFR. CBS .CNN .VTV.
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .EXAMINER
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .NEWSLINK .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .BREIBART.INTERCEIPT.PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.NPRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài G̣n Báo
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu.ChúngTa .Eurasia.
CaliToday .NVR .Phê B́nh . TriThucVN
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xă Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài G̣n .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .B́nh Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử *.Trái Chiều
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *
KIM ÂU -CHÍNHNGHĨA -TINH HOA - STKIM ÂU
CHÍNHNGHĨA MEDIA-VIETNAMESE COMMANDOS
BIÊTKÍCH -STATENATION - LƯUTRỮ -VIDEO/TV
DICTIONAIRIES -TÁCGỈA-TÁCPHẨM - BÁOCHÍ . WORLD - KHẢO CỨU - DỊCHTHUẬT -TỰĐIỂN -THAM KHẢO - VĂNHỌC - MỤCLỤC-POPULATION - WBANK - BNG ARCHIVES - POPMEC- POPSCIENCE - CONSTITUTION
VẤN ĐỀ - LÀMSAO - USFACT- POP - FDA EXPRESS. LAWFARE .WATCHDOG- THỜI THẾ - EIR.
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
ADVERTISEMENT
Le Monde -France24. Liberation- Center for Strategic
https://www.intelligencesquaredus.org/
Space - NASA - Space News - Nasa Flight - Children Defense
Pokemon.Game Info. Bách Việt Lĩnh Nam.US History
with Ross Perot, Billionaire
with General Micheal Ryan
US DEBT CLOCK . WORLDOMETERS .TRÍ TUỆ MỸ . SCHOLARSCIRCLE. CENSUS - SCIENTIFIC- COVERTACTION
EPOCH - ĐKN - REALVOICE - JUSTNEWS - NEWSMAX - BREIBART - WARROOM - REDSTATE - PJMEDIA - EPV - REUTERS - AP - NTD - REPUBLIC - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - HOUSE - TỬ VI - VTV - HTV - PLUTO - BLAZE - INTERNET - SONY - CHINA - SINHUA - FOXNATION - FOXNEWS - NBC - ESPN - SPORT - ABC- LEARNING - IMEDIA - NEWSLINK - WHITEHOUSE- CONGRESS - FED REGISTER - OAN - DIỄN ĐÀN - UPI - IRAN - DUTCH - FRANCE 24 - MOSCOW - INDIA - NEWSNOW NEEDTOKNOW - REDVOICE - NEWSPUNCH - CDC - WHO - BLOOMBERG - WORLDTRIBUNE - WND - MSNBC- REALCLEAR
POPULIST PRESS - PBS - SCIENCE - HUMAN EVENT - REPUBLIC BRIEF - AWAKENER - TABLET - AMAC - LAW - WSWS - PROPUBICA -INVESTO -CONVERSATION - BALANCE - QUORA - FIREPOWER - GLOBAL- NDTV- ALJAZEE- TASS- DAWN
NHẬN ĐỊNH - QUAN ĐIỂM
ĐẤT NƯỚC CỦA IIHAN
Đi du lịch qua
Đông Phi và Minnesota tiết lộ một câu chuyện tinh túy của Mỹ hơn là
nữ dân biểu hoặc những người gièm pha của cô ấy muốn thừa nhận
ARMIN
ROSEN
NGÀY 20 THÁNG 7
NĂM 2022
Christian
Couceiro
.
Vào ngày 2 tháng
7 năm 2022, Ilhan Omar xuất hiện một thời gian ngắn trên sân khấu
cùng với Suldaan Seeraar, một ngôi sao nhạc pop Somali ra mắt tại
Mỹ. Đây là lần đầu tiên cộng đồng người Mỹ gốc Somalia khá lớn ở
Minneapolis tổ chức một sự kiện tại Trung tâm Mục tiêu, nhà thi đấu
là sân nhà của đội NBA của Twin Cities. Giống như sự nghiệp chính
trị của Omar, buổi ḥa nhạc đánh dấu sức mạnh và sự trường tồn của
một cộng đồng người Mỹ tương đối mới, một cộng đồng hầu như không
tồn tại chỉ 30 năm trước đó. Tŕnh bày trước hàng ngàn thanh niên
Somalia, nhiều người trong số họ đến từ Columbus, San Diego và các
trung tâm khác của đời sống người Mỹ gốc Somalia, Omar, người gốc
Somalia nổi tiếng nhất thế giới và là một trong những thành viên duy
nhất của Hạ viện Hoa Kỳ là một nhân vật trung thực của quốc gia,
phải đối mặt với một loạt la ó. Sự chế giễu tăng lên khi cô ấy bắt
đầu phát biểu trước đám đông. “Chúng ta không có cả đêm,
Việc Omar không
được ḷng một số người Somalia hiện nay không có ǵ đáng ngạc nhiên.
Chiến dịch tranh cử sơ bộ của cô cho cơ quan lập pháp bang Minnesota
vào năm 2016 đă đọ sức với cô với một cựu đồng minh chính trị người
Mỹ gốc Somali, Mohamud Noor, cũng như chống lại Phyllis Khan, một
người đương nhiệm được Nghị viên thành phố Minneapolis, Hassan
Warsame, khi đó là chính trị gia được bầu hàng đầu của cộng đồng
Somali, ủng hộ. Omar đă đánh bại cả hai. Sự phản đối được cho là anh
hùng của cô ấy đối với những người bảo thủ tôn giáo và xă hội trong
chính cộng đồng của cô ấy là chủ đề chính của This Is What America
Look Like: My Journey from Refugee to Congresswoman, hồi kư tháng 5
năm 2020 của Omar. Ngay từ khi bắt đầu sự nghiệp chính trị, quan
điểm của cô ấy về phá thai, đồng tính luyến ái và một loạt chủ đề
khác không phải là quan điểm của một người theo chủ nghĩa truyền
thống Hồi giáo trung thành, và thậm chí c̣n trái ngược với những ǵ
mà một người dân Minnesotan thường tin tưởng về các vấn đề tiêu
chuẩn. Tại Trung tâm Mục tiêu, cô đưa chồng ḿnh là Tim Mynett lên
sân khấu, một nhà tư vấn chính trị không phải là người Somali và chỉ
cải sang đạo Hồi vào khoảng thời gian anh kết thúc cuộc hôn nhân
trước và kết hôn với Omar. Ahmed Hirsi, vợ trước của Omar, là một
nhân vật nổi tiếng và từng tương đối nổi tiếng trong các vấn đề của
Twin Cities Somali.
Có lẽ, một nguồn
tin trong cộng đồng Somali ở Minneapolis gợi ư cho tôi, tiếng la ó
thể hiện sự cáu kỉnh ngày càng tăng của một thế hệ trẻ cởi mở hơn
trong việc thực hiện quan điểm cứng rắn về các vấn đề tôn giáo và
đạo đức hơn cả cha mẹ của họ. Cộng đồng người Mỹ gốc Somali đă sản
sinh ra rất nhiều thanh niên cam kết mạnh mẽ với nền chính trị cấp
tiến—xét cho cùng th́ những kẻ la ó dường như không đại diện cho đa
số đám đông của Trung tâm Mục tiêu—mà c̣n có nhiều người khác đă đi
theo hướng khác, hướng tới một chủ nghĩa cơ bản tôn giáo mà bản thân
nó là một phản ứng đối với thực tế rơ ràng của Mỹ. Tất cả có thể rất
hoang mang, kể cả đối với chính người Mỹ gốc Somalia. “Con cái của
chúng tôi, chúng trông giống chúng tôi,” người đàn ông, một chiến
lược gia chính trị và nhà hoạt động ở nam Minneapolis, nói, “nhưng
chúng không phải là người Somali. Họ là người Mỹ."
Omar đă không đạt
được vị trí của ḿnh bằng cách ḥa giải bất kỳ mâu thuẫn nào trong
số này mà bằng cách làm cho chúng có lợi cho cô ấy. Đối với hầu hết
các chính trị gia, sẽ là một lời quở trách nhục nhă nếu bị hàng
ngh́n thành viên thuộc cộng đồng sắc tộc và tôn giáo của họ la ó tại
một sự kiện công cộng lớn được tổ chức trên sân nhà của họ. Những nụ
cười và tiếng cười mà cô ấy chào đón sự ngang ngược của những người
Somalia trẻ tuổi không xuất phát từ sự lo lắng hay ngạc nhiên. Đây
là kiểu đối đầu đă giúp biến cô thành một ngôi sao chính trị.
Bản năng của Omar
hiếm khi sai, tuy nhiên họ đă tạo ra cô ấy một cách phân cực. Vào
năm 2020, cô ấy kém Joe Biden 16 điểm, kém tổng thống đắc cử hơn bất
kỳ ai trong số hơn 200 thành viên Đảng Dân chủ khác của Hạ viện sẽ
tái tranh cử. Nhưng cô ấy vẫn giành được 64% phiếu bầu nhờ sức mạnh
của một cơ sở hỗ trợ vững chắc bao gồm các nhà hoạt động cực tả,
sinh viên đại học, con cái cánh tả của những người nhập cư Somalia
bảo thủ về văn hóa và nhà tư sản có đầu óc công bằng xă hội, mới
được kích hoạt bởi các cuộc biểu t́nh và bạo loạn nổ ra sau cái chết
của George Floyd, xảy ra tại khu vực bầu cử của Omar. Sự cố Target
Center có thể giống như một cảnh xấu xí đối với những người biết ít
về cuộc đời và sự nghiệp của cô ấy, hoặc như một cơ hội cho các đối
thủ chính trị tin sai rằng cô ấy có thể bị đánh bại trong năm nay.
Omar đối đầu với cựu thành viên hội đồng thành phố Don Samuels trong
cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ vào tháng 8, một sự thay thế
không thú vị so với thời kỳ chính trị trước đó, người có khả năng
dẫn đến thất bại hai con số giống như một đối thủ sớm hơn và thậm
chí c̣n hứa hẹn hơn đă phải chịu vào năm 2020. cuộc tấn công vào
Omar đă từng hạ cánh đặc biệt khó khăn.
Việc trở thành
cột thu lôi sẽ gây hại cho Omar nếu cô ấy không chứng tỏ ḿnh là
người quản lư khéo léo câu chuyện và h́nh ảnh của chính ḿnh. Điều
đó đặc biệt đúng khi nói đến những khía cạnh nhạy cảm hơn trong cuộc
sống phức tạp đến chóng mặt của cô ấy, mà cô ấy đă vô hiệu hóa một
cách tàn nhẫn, khéo léo xoay chuyển hoặc cẩn thận che khuất tầm
nh́n.
Vào ngày 15 tháng
6 năm 2020, Omar thông báo rằng cha cô đă qua đời v́ biến chứng của
coronavirus. Khi Somalia ch́m vào cuộc nội chiến vẫn c̣n âm vang vào
đầu những năm 1990, Nur Said, khi đó ở độ tuổi 30, đă bất chấp t́nh
trạng vô chính phủ đang lan rộng để đảm bảo cho các con và đại gia
đ́nh của ḿnh vượt qua được cuộc sống từ Mogadishu đến Kenya, rồi từ
một trại tị nạn đến trận chung kết. an toàn tại Hoa Kỳ. V́ anh ấy là
người đă giải cứu những người thân yêu của ḿnh khỏi vùng chiến sự
và nuôi dạy một nhân vật chính trị đương thời có tính đột phá, nên
việc Nur Said dường như không bao giờ ghi lại câu chuyện cuộc đời
ḿnh dưới bất kỳ h́nh thức công khai nào hoặc trả lời phỏng vấn trên
phương tiện truyền thông là một cơ hội vĩnh viễn bị mất đi. độ sâu
thực sự nào. Đóng góp của ông cho sự trỗi dậy chính trị đáng kinh
ngạc của con gái ông vẫn c̣n mơ hồ cho đến phút cuối cùng. Trong
thời gian cho Ilhan, một bộ phim tài liệu năm 2018 về chiến dịch
giành thắng lợi năm 2016 của Omar cho cơ quan lập pháp bang
Minnesota, Nur Said được chiếu ăn trưa và nói chuyện bằng tiếng
Somali với Omar, quanh các cuộc mít tinh và địa điểm bỏ phiếu với
những người đàn ông Somali lớn tuổi khác, đồng thời cùng cô ấy tham
dự bữa tiệc mừng chiến thắng trong đêm bầu cử . Khi anh ấy nói bằng
tiếng Somali, lời nói của anh ấy hiếm khi được dịch ra. Anh ấy được
giới thiệu trong Time for Ilhan với cái tên "Nur Said", mặc dù Omar
đă gọi anh ấy là Nur Omar Muhammed Omar trong ḍng tweet của cô ấy
thông báo về cái chết của anh ấy.
Cha của Hạ
nghị sĩ Ilhan Omar, Nur Said, ở giữa, tại lễ tuyên thệ nhậm chức khi
bắt đầu Đại hội lần thứ 116, Ṭa nhà Quốc hội Hoa Kỳ, Washington,
DC, ngày 3 tháng 1 năm 2019 SAUL LOEB/AFP QUA GETTY IMAGES
Cha của Omar là
một trong những anh hùng trong cuốn hồi kư của cô. Tuy nhiên, cô ấy
cung cấp rất ít thông tin chi tiết về cuộc sống của anh ấy ở cố
hương, trái ngược với các thành viên khác trong gia đ́nh. Chẳng hạn,
chúng ta biết rằng ông ngoại của Omar đă giữ “một công việc của
chính phủ, giúp điều hành mạng lưới các ngọn hải đăng của đất nước.”
Ông cũng là một người Ư sành ăn, Ư từng là thuộc địa cai trị của
Somalia. Vào năm 2016, Omar nói với tờ báo thay thế City Pages của
thành phố Minneapolis rằng ông của cô từng là "giám đốc vận tải biển
quốc gia" của Somalia và đă học đại học ở Ư, mặc dù không có chi
tiết nào xuất hiện trong cuốn sách của cô.
Hồi kư của Omar
có đề cập đến “những đặc quyền bất thường” mà mẹ của nữ nghị sĩ
tương lai, người đă chết khi Omar c̣n nhỏ, đă được “cha cô ấy”, ông
nội của Omar, có quan hệ chính trị, chu cấp. Khu nhà của gia đ́nh ở
thủ đô Somali, thuộc về phía mẹ của Omar, nằm sau bức tường bảo vệ
và chứa đầy sách, âm nhạc và nghệ thuật. Gia đ́nh sở hữu một chiếc ô
tô riêng, một chiếc Toyota Corolla, một điều cũng không b́nh thường
đối với các thần dân của một chế độ độc tài cộng sản nghèo khó.
Người đọc không t́m hiểu về cuộc sống hoặc địa vị xă hội trước chiến
tranh của Nur Said ở cùng mức độ cụ thể, ngoài việc phát hiện ra
rằng anh ta lớn lên ở một trong những thị trấn lớn của vùng
Puntland, phía đông bắc Mogadishu, và thuộc về một tiểu tộc mà chế
độ của Siad Barre đă từng bị đàn áp. Anh ta hai lần được gọi là "nhà
giáo dục", không có thêm thông tin chi tiết nào được đưa ra.
Vùng màu xám kéo
dài này sẽ không được lấp đầy cho đến sau cái chết của Nur Said.
Trong một ḍng tweet chia buồn bằng tiếng Somali , Omar Sharmarke,
người từng là thủ tướng Somalia từ năm 2009 đến năm 2010 và sau đó
một lần nữa từ năm 2014 đến năm 2017, đă mô tả Nur Said là “Col
Nur”—nghĩa là với tư cách là một đại tá—và ghi nhận sự phục vụ của
anh ấy trong Lực lượng vũ trang Somalia. Sharmarke là cựu đại sứ
Somalia tại Hoa Kỳ nói thông thạo tiếng Anh; cha của ông, một tổng
thống của Somalia, bị ám sát ngay trước cuộc đảo chính của Siad
Barre vào năm 1969. Trong hệ thống thị tộc Somalia, ông thuộc cùng
một tiểu thị tộc với Nur Said và Omar.
Trong sáu tháng
trước khi Nur Said qua đời, hơn nửa tá người Mỹ gốc Somali ở Twin
Cities và Virginia—trong số đó có một cựu quan chức chính phủ Somali
thời hậu nội chiến, con trai của một vị tướng đă phục vụ ngay trước
cuộc nội chiến, và nhiều người thân cận với gia đ́nh của Omar hoặc
chồng cũ của cô ấy, Ahmed Hirsi, nói với tôi rằng Nur Said không
phải là một “nhà giáo dục” mà là một sĩ quan chuyên nghiệp cấp trung
trong quân đội Somalia dưới chế độ của Barre. Tin nhắn công khai từ
Sharmarke, cũng như từ các thành viên cộng đồng Somaliở Minnesota,
đưa ra bằng chứng bổ sung rằng Nur Said từng giữ cấp bậc trong quân
đội nổi tiếng với việc tra tấn các tù nhân chính trị, bắn phá các
thành phố của chính đất nước và đàn áp các gia tộc bị coi là không
trung thành với bè lũ cầm quyền của Siad Barre. Trang web trực thuộc
Đài phát thanh công cộng Minnesota Tạp chí Sahan cuối cùng đă mô tả
Nur Said là “một sĩ quan quân đội nổi tiếng của Somali.”
Đối với Omar và
những người tị nạn Somali khác, cuộc sống ở Hoa Kỳ mang đến khả năng
đoạn tuyệt hoàn toàn với chiến tranh, và với hàng thập kỷ gia tăng
sự đổ vỡ quốc gia đă khiến xung đột có thể xảy ra. Ở Mỹ, người
Somali được tự do tái tạo một số điều họ đă có ở Đông Phi, ở một đất
nước mà việc tự thiêu trong toàn xă hội vào thời điểm đó là điều
không tưởng. Đời sống tôn giáo và xă hội, bao gồm các khía cạnh của
hệ thống thị tộc Somali, nhanh chóng khẳng định lại bản thân ở những
nơi như Minneapolis. Sự hồi sinh của cộng đồng người di cư này chỉ
có thể thực hiện được nhờ sự thôi thúc chung hướng tới việc rời khỏi
nơi tồi tệ nhất của cuộc nội chiến ở đất nước mà họ đă trốn thoát.
Hầu như chưa bao giờ người Mỹ gốc Somali ở Minnesota buộc tội nhau
về những tội ác kéo dài hàng thập kỷ ở Đông Phi. “Có một loại thái
độ xă hội tập thể: Dù chuyện quái ǵ xảy ra,Người Somalia ở
Minnesota .
Là một người nhập
cư, thiểu số về chủng tộc và tôn giáo, đồng thời là người sống sót
sau chiến tranh, Omar có con đường đến với Quốc hội khó khăn hơn so
với thành viên “đội” đồng nghiệp Alexandria Ocasio-Cortez, hoặc gần
như bất kỳ ai khác về vấn đề đó. Nhưng việc điều hướng nền chính trị
Somali ở cả Thành phố song sinh và vùng Sừng châu Phi đă giúp Omar
có một khởi đầu thuận lợi trong việc hiểu cần phải làm ǵ để có thể
tồn tại ở một nước Mỹ trong tương lai gần đang rạn nứt. Cộng đồng
Somali ở Minneapolis, lịch sử Somali gần đây và lịch sử cá nhân của
Omar hóa ra lại là sự chuẩn bị hoàn hảo cho một sự nghiệp chính trị
quan trọng ở một nước Mỹ ngày càng chia rẽ.
Thuận tiện cho
Omar, những người duy nhất đă điều tra nghiêm túc về quá khứ của cô
trong suốt sự nghiệp 6 năm của cô trong lĩnh vực chính trị bầu cử là
những người viết cho các trang web cánh hữu. Truyền thông Fringier
đă cáo buộc Nur Said là tội phạm chiến tranh hoặc chỉ huy của một
trại tù, những câu chuyện không được chứng minh một cách thuyết phục
và phản ánh sự pha trộn giữa phỏng đoán và tin đồn lan truyền trong
cộng đồng Twin Cities Somali. Những lời bóng gió này cho phép những
người chỉ trích Omar cho rằng cô ấy đă được hưởng lợi cá nhân từ
những hành động tàn bạo về nhân quyền, chỉ sau đó tự phong ḿnh là
người tố cáo không khoan nhượng về những bất công của đất nước nhận
nuôi cô ấy sau khi cô ấy tham gia chính trị.
Các phương pháp
điều trị toàn diện về cuộc đời và sự nghiệp của cô ấy hầu như không
có ở các cửa hàng chính thống hoặc phi tư tưởng. Một số ít đă được
viết được xây dựng xung quanh các câu hỏi tiểu sử hẹp hoặc dường như
gần như hoàn toàn dựa trên các tuyên bố của chính Omar, điều mà hầu
hết các ấn phẩm đă không bận tâm kiểm tra hoặc thách thức.
Vào năm 2019, năm
mà nữ dân biểu mới được bầu đă trở thành một cái tên quen thuộc, lần
gần nhất một ấn phẩm lớn của quốc gia đưa ra hồ sơ đầy đủ về Omar là
một bài báo tháng 7 trên The Washington Post . Bài báo ghi nhận một
số sai sót thực tế mà cô ấy đă đưa ra — cô ấy nói với một nhóm cựu
chiến binh rằng 45% gia đ́nh quân nhân đang nhận tem phiếu thực
phẩm, con số này cao gấp 9 lần so với con số thực tế. Cô ấy nói với
một nhóm học sinh trung học rằng cô ấy đă từng chứng kiến một
“bà già người Mỹ gốc Phi ngọt ngào” bị kết án tù vào cuối tuần và
một khoản tiền phạt không thể trả được v́ ăn cắp một ổ bánh ḿ trị
giá 2 đô la.
Post đưa ra khả
năng rằng vụ việc , không có bằng chứng nào ngoài hồi ức của Omar,
đă được tạo ra ngay tại chỗ. “Nếu đúng, nó cũng có thể được thêu
dệt,” tờ báo xác định, đồng thời cho biết thêm Omar “nói rằng cô ấy
có thể đă ngụy tạo một số sự thật.” Không có vấn đề: Không thể phủ
nhận câu chuyện có sức mạnh. Omar có lẽ đă hiểu rằng sự thật của nó
là phi vật chất, và rủi ro bị bắt quả tang là điều đáng phải trả.
Phần lớn bài báo được dành riêng cho các tài khoản tập trung nhẹ vào
công việc bận rộn của quốc hội và các cuộc phỏng vấn với
Minnesotans, những người không có ǵ quan trọng để nói về cô ấy.
Việc Omar có thể
đảm bảo sự đối xử nhẹ nhàng như vậy từ một cơ quan quyền lực như
Post càng khẳng định khả năng làm chủ của cô ấy đối với hệ sinh thái
truyền thông chính trị thời hiện đại. Nhưng sự xem xét kỹ lưỡng như
vậy cũng gây bất lợi cho Omar, người thường bị giảm bớt thành một
loạt câu nói sáo rỗng - cho dù đó là sự minh oan cho chính sách nhập
cư tự do, hay bằng chứng về cuộc hành quân cánh tả không thể tránh
khỏi của đất nước, hay sự khẳng định của chính nước Mỹ, với khả năng
làm cho những người chiến thắng từ những người ở những khu vực tàn
ác hơn trên thế giới đă trở thành nạn nhân. Sự thiếu ṭ ṃ rơ ràng
của báo chí về Omar cũng thể hiện sự tự tôn: Mổ xẻ câu chuyện cuộc
đời của Omar được coi là tṛ tiêu khiển của cánh hữu. Việc không
quan tâm đến tiểu sử của cô ấy, và ngay cả trong sự nghiệp chính trị
trước quốc hội của cô ấy, là bằng chứng cho thấy cô ấy đủ sáng suốt
để không thuộc nhầm câu lạc bộ.
Được hỗ trợ bởi
sự rút lui chiến thuật của giới truyền thông, Omar đă trở thành
nguồn đầu tiên và cuối cùng của công chúng để hiểu làm thế nào một
trong những nhân vật chính trị lớn của đất nước đạt được vị trí của
cô ấy. Cô đă đảm bảo rằng một số khía cạnh trong cuộc sống của
ḿnh—như sự phục vụ của cha cô cho chế độ Siad Barre, cùng với mọi
thứ gợi ư về cách thức và lư do Omar có thể thoát khỏi t́nh trạng
suy sụp và sau đó thành công ở một đất nước cách xa nơi sinh ra đầy
khó khăn của cô hàng ngh́n dặm. —chỉ được đề cập bởi các đối thủ của
cô ấy. Với sự giúp đỡ của những người ủng hộ tận tụy, một phương
tiện truyền thông ṭ ṃ và sự đối kháng về chủng tộc và tôn giáo của
Donald Trump, Omar đă thành công trong việc hợp lư hóa lịch sử mê
cung của ḿnh thành một câu chuyện gây xúc động về một tinh thần bất
khuất đạt được vận mệnh của ḿnh, phá bỏ sự lạc hậu của nước Mỹ
trong quá tŕnh này.
Omar hiện đă ở
trong Quốc hội được hơn ba năm rưỡi. Nền chính trị Hoa Kỳ đă mất đi
phần lớn tính chất địa phương và thậm chí là khu vực, một phần nhờ
vào những nhân vật như bà. Đời sống chính trị của đất nước giờ đây
gần như hoàn toàn ở quy mô quốc gia và do cá nhân điều khiển, một
cuộc xung đột giữa những người t́m kiếm tranh căi, những người thực
chất là những người nổi tiếng, và những người không ngừng tranh
giành sự chú ư và ngưỡng mộ trước một phần ba tỷ công dân. Omar đă
nhận ra sự thay đổi này sang thế giới của Ocasio-Cortezes và
Marjorie Taylor Greenes sớm hơn hầu hết mọi người. Cô ấy hiểu rằng
cô ấy đang chơi trên một lĩnh vực lớn hơn một quốc hội tiểu bang
hoặc khu vực quốc hội, hoặc thậm chí là bất kỳ quốc gia nào. Cô ấy
nhận ra rằng chính trị đang trở thành một đấu trường ít được xác
định bởi chính sách và hành động hơn là bởi sự đầu tư vào cảm xúc cá
nhân và tường thuật. Tiếp tục từ cái nh́n sâu sắc này,
Nền chính trị Hoa
Kỳ đă trỗi dậy – hoặc có lẽ đă sa sút – để đáp ứng mức độ nghiêm
khắc của Omar. Những biến động của thời điểm hậu George Floyd, đại
dịch coronavirus và hậu quả hỗn loạn của cuộc bầu cử tổng thống năm
2020 đă thúc đẩy một quá tŕnh hiện có: Việc tái tổ chức đất nước
thành những khu vực lâu bền và thường không thể xuyên thủng của các
câu chuyện cạnh tranh, mỗi người đều tin rằng dự án của Mỹ là dưới
mối đe dọa hiện hữu từ gần như tất cả mọi người bên ngoài trại của
họ, cho dù những kẻ thù đó là những người theo chủ nghĩa Trump,
QAnoners, những người theo chủ nghĩa da trắng thượng đẳng, cảnh sát,
những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái, những người theo chủ
nghĩa trung thực về COVID, những nhà tư bản tân tự do, những người
chống vắc-xin, phong trào chuyển giới, Black Lives Matter, những
người theo thuyết chỉ trích chủng tộc, những người theo chủ nghĩa
băi nô cảnh sát, những người theo chủ nghĩa xă hội dân chủ, hoặc
tầng lớp quản lư chuyên nghiệp.
Chính trị Mỹ giờ đây giống như một cuộc đấu tranh giữa các bộ lạc,
một cuộc cạnh tranh giữa một tập hợp các nhóm trong các nhóm để
tranh giành các nguồn tài nguyên khan hiếm và thậm chí là các kênh
quyền lực thực tế c̣n khan hiếm hơn. Bảo vệ và thăng tiến bộ lạc
chính trị của một người bằng cách sử dụng đầy đủ các công cụ sẵn có,
bao gồm thao túng truyền thông, tính không trung thực có tính toán
và biểu t́nh quần chúng, thường là một mục tiêu thay thế cho bất kỳ
ḷng trung thành nào đối với một đảng chính trị hoặc hệ thống ư thức
hệ, cũng như bất kỳ lư tưởng nào cao hơn, chẳng hạn như sự thật.
Một ví dụ về
quyền chỉ huy của Omar đối với chế độ chính trị đi lên này là ḍng
tweet bom tấn của cô ấyvào ngày 16 tháng 4 năm 2022, trong đó cô ấy
đă chia sẻ video về một nhóm Cơ đốc nhân đang hát một bài hát tôn
giáo giữa chuyến bay chật cứng người. Nữ nghị sĩ đội khăn trùm đầu
duy nhất trong lịch sử Hoa Kỳ đă lên tiếng để bêu xấu sự thể hiện
tôn giáo nơi công cộng này, điều mà bà coi là bằng chứng về sự cố
chấp của đất nước nơi bà phục vụ trong cơ quan lập pháp quốc gia.
“Tôi nghĩ tôi và gia đ́nh nên có một buổi cầu nguyện vào lần tới khi
tôi đi máy bay,” cô châm biếm. “Bạn nghĩ nó sẽ kết thúc như thế
nào?” Những người trong video hoàn toàn ẩn danh, không có lư lịch và
quyền lực của Omar. Họ không có mối liên hệ nào với quận của Omar ở
Minneapolis, hoặc với bất kỳ câu hỏi nào về chính sách, chính hay
phụ. Nhưng Omar nhận ra rằng video này là cơ hội để dạy một số người
Mỹ về mức độ kinh khủng của họ, và để khuếch đại sự bất b́nh một
cách mạnh mẽ đến mức bất kỳ cuộc tranh luận nào sau này sẽ kém gay
gắt hơn, ít thú vị hơn và ít gây chia rẽ ngay lập tức hơn cảnh quay
ban đầu của Omar. Tên của cô ấy có xu hướng trên Twitter trong hai
ngày. Ḍng tweet đă tạo ra các phân đoạn op-ed và tin tức và hiện có
hơn 200.000 lượt thích.
Câu chuyện của
Ilhan Omar là hành tŕnh của người Somalia và những nhóm dân số dễ
bị tổn thương khác t́m thấy sự an toàn ở nước Mỹ đương đại, một phần
nhờ có được quyền tự do lựa chọn những ǵ họ nên mang theo và những
ǵ trong cuộc sống cũ của họ để lại phía sau.
https://www.tabletmag.com/sections/news/articles/ilhans-country
Sân khấu chính
trị gây chia rẽ và thu hút sự chú ư của Omar phục vụ mục đích của cô
ấy ngay cả khi nó sắp trở nên phi lư. Vào ngày 19 tháng 7, cảnh sát
đă hộ tống nữ nghị sĩ ra khỏi khuôn viên của Ṭa án Tối cao trong
một cuộc biểu t́nh ủng hộ quyền phá thai. Cùng với Ocasio-Cortez,
Omar giữ hai tay sau lưng, tạo ra ấn tượng sai lầm rằng cô ấy đă bị
c̣ng tay. Mưu mẹo đă thành công: ABC News , trong số những người
khác, đă tweet để thông báo về việc bắt giữ hai ngôi sao lập pháp.
Dù đang trong quá tŕnh chỉnh sửa hay không, h́nh ảnh Omar cười nửa
miệng sau cặp kính râm dày, đeo một chiếc ṿng cổ có hạt màu hổ
phách sẫm màu phù hợp với áo sơ mi và khăn trùm đầu của cô, với một
cảnh sát xuất hiện để khống chế cô và mặt tiền kiểu Corinth của ṭa
án tối cao hiện ra lờ mờ ở phía sau , có một sức mạnh vượt xa bất kể
sự thật trần trụi nào.
Sự nổi lên của
Ilhan Omar với tư cách là một trong những nhân vật chính trị tiêu
biểu của thời đại và khả năng kéo dài tuổi thọ trong sự nghiệp quốc
hội của cô ấy, khiến việc hiểu cách thức và lư do cô ấy tiến xa đến
mức này càng trở nên quan trọng hơn. Câu chuyện của cô ấy, và sự
giao thoa định mệnh của nó với cả lịch sử hiện đại của Somalia và
Hoa Kỳ, là bằng chứng trấn an rằng Hoa Kỳ vẫn là vùng đất của sự tái
tạo. Đối với người tị nạn Somali, cũng như đối với người Do Thái một
thế kỷ trước, Mỹ là lối thoát khỏi lịch sử, là nơi duy nhất trên
Trái đất mà quá khứ đau thương gần đây có thể được ḥa giải một cách
ḥa b́nh. Câu chuyện của Ilhan Omar là hành tŕnh của người Somalia
và những nhóm dân số dễ bị tổn thương khác t́m thấy sự an toàn ở
nước Mỹ đương đại, một phần nhờ có được quyền tự do lựa chọn những
ǵ họ nên mang theo và những ǵ trong cuộc sống cũ của họ để lại
phía sau. Omar, giống như hàng thế kỷ những người mới đến Mỹ đầy
tham vọng,
lhan Omar sinh ra
ở Mogadishu vào năm 1982. Mẹ cô đến từ một gia tộc Somali có nguồn
gốc từ Yemen; bà qua đời khi nữ nghị sĩ tương lai vẫn c̣n là một đứa
trẻ. Trong một cảnh sâu sắc trong Time for Ilhan, ứng cử viên cơ
quan lập pháp tiểu bang suy nghĩ về sự vắng mặt của mẹ cô khi cô tết
tóc cho cô con gái út. “Khi tôi c̣n nhỏ như bạn, các chị gái của tôi
đă cắt tóc của tôi và khiến tôi luôn bị hói. Bạn biết tại sao mà?
Bởi v́ tôi không có mẹ, và không ai đủ kiên nhẫn để làm công việc
kinh doanh điên rồ này.” Cha cô đến từ phân tộc Osman Mahmoud của
chi nhánh Majeerteen của Darod. Gia tộc theo chế độ phụ hệ ở
Somalia, v́ vậy Omar và các anh chị em của cô cũng được coi là một
phần của Osman Mahmoud, một nhóm có nguồn gốc từ ḍng dơi các vị vua
thời trung cổ. “Giống như tôi, cô ấy xuất thân từ một gia đ́nh hoàng
gia,” Haji Mohamed Yasin, một nhà phân tích và nhà hoạt động chính
trị ở Nairobi, giải thích khi tôi gặp anh ấy ở Kenya vào mùa thu năm
2019.
Cô bé Omar sống
trong một sự an toàn và thoải mái mà hầu hết mọi người không thể
tưởng tượng được ở một đất nước phần lớn là rất nghèo. Theo hồi kư
của Omar, mẹ cô từng là “thư kư cho một bộ trưởng chính phủ”, trong
khi ông nội của cô là quản lư hàng hải của chính phủ với tài năng
nấu ăn kiểu Ư. Omar viết rằng “gia đ́nh công chức và giáo viên của
cô ấy đủ khá giả để có một khu nhà được bảo vệ và tài xế. Nhưng tôi
không thích sự chú ư mà tôi nhận được từ những đứa trẻ khác v́ đặc
quyền được đối mặt với chiếc Toyota Corolla màu trắng của chúng tôi
và tài xế Farah của chúng tôi—cũng như những ràng buộc.”
Bản thân việc có
được sự giàu có và an toàn ở Somalia thời Barre không gây tổn hại về
mặt đạo đức như gia đ́nh của Omar. “Trong trường hợp của Ilhan Omar
và gia đ́nh cô ấy, họ đă được đặc ân ngay từ đầu, trước khi nhà nước
Somali được thành lập,” Adam Matan của Phong trào Chống Chủ nghĩa Bộ
lạc có trụ sở tại London cho biết vào cuối năm 2019, khi nói chuyện
với một nhận thức chung của cộng đồng người Somalia lưu vong về
nguồn gốc của Omar. “Cô ấy ở Mogadishu, thuộc thành phần khá giả ở
Somalia. Sau đó, theo đúng nghĩa đen, bạn phải chạy trốn cho cuộc
sống của ḿnh.
Gần như mọi con
đường dẫn đến tiện nghi tư sản và kiểu hợp chất gia đ́nh nhiều thế
hệ, nhiều ṭa nhà mà Omar mô tả trong hồi ức về cuộc sống ban đầu
của cô ở Mogadishu đều trải qua chế độ của Siad Barre. Bắt đầu từ
những năm 1970, nhà độc tài độc đoán đă đưa đất nước vào con đường
dẫn đến thảm họa.
Barre giành được
quyền lực trong một cuộc đảo chính quân sự năm 1969, chấm dứt cuộc
thử nghiệm dân chủ kéo dài 9 năm sau khi Somali độc lập khỏi Ư. Anh
ta được biết đến với cái tên “Ông già”, một nhân vật khắc kỷ và xa
cách, xung quanh anh ta là những sĩ quan quân đội trẻ hơn mà anh ta
có thể kiểm soát. Nhiều nhà độc tài lười biếng hoặc ngu ngốc, và cai
trị không có ǵ phức tạp hơn là sợ hăi, nhưng Barre nổi tiếng là một
người nghiện công việc, người sẽ ở lại văn pḥng cho đến sáng sớm.
“Barre là một nhà độc tài cực kỳ khôn ngoan,” Ali Abdullahi, một học
giả ở Nairobi, cho biết khi tôi gặp ông ấy vào năm 2019. “Ông ấy
biết rất rơ về bạn bè và kẻ thù của ḿnh. Anh ấy nắm vững nghệ thuật
động lực của bang hội.
Họ Barre vào năm
1976
Họ Barre vào năm
1976 KEYSTONE/HULTON ARCHIVE/GETTY IMAGES
Cai trị với tư
cách là một nhà cách mạng cộng sản, Barre t́m cách áp đặt một hệ tư
tưởng xa lạ lên một xă hội gồm những người chăn gia súc, nông dân,
nhà thơ truyền miệng và thương nhân gắn bó với nhau bởi gia đ́nh,
tôn giáo và nhiều nguồn ư nghĩa và sự gắn kết khác mà chủ nghĩa cộng
sản t́m cách giải phẫu. Mặc dù anh ấy tính đến việc thúc đẩy biết
chữ được ca ngợi rộng răi trong số những thành công của ḿnh, nhưng
quy tắc của Barre không bao giờ được đảm bảo. Việc cai trị một quốc
gia chư hầu của Liên Xô khiến ông trở thành một kẻ thù nhỏ của Hoa
Kỳ. Trong nội bộ, ông chống lại các thế lực lâu đời hơn và được kính
trọng hơn bất kỳ nhà độc tài hay hệ tư tưởng chính trị nào, trong đó
có Hồi giáo. Một trong những tội ác lớn đầu tiên của Barre là vụ
hành quyết 11 nhà lănh đạo tôn giáo bị buộc tội rao giảng chống lại
chiến dịch “giải phóng phụ nữ” của chế độ vào năm 1975.
Đến năm 1977, nỗ
lực áp đặt chủ nghĩa xă hội của Barre đă phá hủy nền sản xuất công
nghiệp và nông nghiệp của đất nước. Nhà độc tài đă thực hiện một
nước cờ liều lĩnh nhất trong thời kỳ nắm quyền của ḿnh và xâm chiếm
các khu vực có đa số người Somali ở phía đông Ethiopia, nơi mà ông
ta hy vọng sẽ thôn tính. Chiến dịch thất bại khi Liên Xô đổi phe
trong cuộc xung đột và bắt đầu ủng hộ chế độ cộng sản tàn bạo của
nhà lănh đạo chính quyền người Ethiopia, Mengistu Haile Mariam, đă
đẩy lùi cuộc thám hiểm của Barre vào vùng Ogaden với sự giúp đỡ của
các cố vấn quân sự và vũ khí của Liên Xô, cũng như 12.000 người
Cuba. biệt kích. Thất bại nhục nhă đă để lại cho Barre một con đường
khả thi để tồn tại: Việc khai thác hệ thống thị tộc của Somalia,
giống như Hồi giáo, là đối thủ của chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn hữu
cơ đối với xă hội Somalia.
Thị tộc hoạt động
như một khuôn khổ cho hệ thống chính trị Somalia hiện tại. Tại hội
nghị ḥa b́nh Djibouti năm 2001, các nhà đàm phán đă đưa ra một ư
tưởng được gọi là “4.5”, trong đó một thành viên từ mỗi nhóm trong
số bốn nhóm lớn nhất phải đảm nhận chính xác một trong những chức vụ
cao nhất trong chính phủ, với “điểm năm” đề cập đến một đại diện của
một trong những thị tộc được gọi là "thiểu số". Ngày nay, các chính
trị gia Somali thường xuyên tới Minnesota để gây quỹ giữa các thành
viên trong gia tộc.
Việc tổ chức hệ
thống chính trị Somali theo ḍng phả hệ—hoặc việc thiếu bất kỳ sự
thay thế rơ ràng, bất bạo động nào đối với phương pháp tổ chức như
vậy—ít vô lư hơn xét theo mọi thứ mà thị tộc bao gồm ngoài chính trị
bầu cử. Ở nơi đồng nhất nhất về mặt dân tộc, ngôn ngữ và tôn giáo ở
Châu Phi, thị tộc vẫn là bản sắc của cả phương sách đầu tiên và cuối
cùng. “Đối với một số người, thị tộc luôn là một loại bảo hiểm,”
Abdirahman Abtidon, một tác giả viết tiếng Somali và là cộng tác
viên nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Somali của Đại học Rome,
giải thích. “Nếu một số nhóm tấn công, ai bảo vệ bạn? Gia đ́nh bạn."
Trong thời kỳ có quyền lực tập trung rơ ràng, như quy tắc của Barre,
các thị tộc cung cấp các kênh trung thành sẵn có. Trong thời kỳ
không có chính quyền, thị tộc là một trong những thể chế xă hội cuối
cùng tồn tại.
Một trong những
hành động tàn bạo đầu tiên của Barre trong việc tái thiết hệ thống
thị tộc cho phù hợp với mục đích chính trị của ông ta là việc đàn áp
tiểu tộc Majeerteen của Darod, những người mà ông coi là vật tế thần
cho thảm họa Ogaden. Barre thuộc về Marehan, một nhánh khác của
Darod. Năm 1978, chế độ của ông xử tử 17 sĩ quan Majeerteen bị buộc
tội âm mưu đảo chính, sau đó phát động một chiến dịch đàn áp rộng
lớn hơn. Nhà sử học Lidwien Kapteijns viết trong cuốn sách năm 2012
Thanh lọc bang hội ở Somalia : “Hàng trăm sĩ quan quân đội bị vây
bắt, cơ quan dân sự bị thanh trừng, và các nhà lănh đạo chính trị,
người lớn tuổi, trí thức, doanh nhân, nhà lănh đạo tôn giáo, thậm
chí cả phụ nữ đều bị đưa đến các nhà tù tồi tệ nhất của Barre”.. Bên
ngoài giới tinh hoa xă hội và chính trị này, chế độ đă đốt cháy 18
ngôi làng Majeerteen, tàn sát khoảng 2.000 người, tịch thu gia súc
và đặt ḿn dưới đất nông nghiệp. Cuộc thanh trừng đă phá vỡ giới
thượng lưu Majeerteen. Một số rời Somalia để tham gia các phong trào
đối lập khác nhau khi sống lưu vong. Majeerteen khác bị mắc kẹt xung
quanh, bao gồm cả cha của Omar.
Phục vụ chế độ
Barre với tư cách là một Majeerteen không khiến Nur Said trở thành
mục tiêu nghi ngờ của những người Somalia ở Minneapolis. Ông được
nhiều người kính trọng và vẫn tích cực tham gia các công việc của
người Somali trong thành phố. Omar đă cố gắng kết hợp cha ḿnh vào
các chiến dịch chính trị của ḿnh; trong một bài đăng trên Facebook,
Sahra Noor, chị gái của Omar, mô tả anh ta là “một nhà chiến lược
chính trị và gây quỹ vĩ đại.” Trong hồi kư của Omar, cô nhớ lại việc
cha ḿnh can thiệp với những người lớn tuổi trong cộng đồng người
Somali ở Minnesota, người đă thề sẽ đè bẹp chiến dịch lập pháp cấp
bang của những người mới nổi tiến bộ vào năm 2016. Người Mỹ gốc
Somali ở Twin Cities nói rằng ông thường xuyên có mặt tại Starbucks
ở Cedar-Riverside, một nơi tụ tập của đàn ông Majeerteen. Một Nur
Said Mohamed Elmi xuất hiện với tư cách là người kư tên trên một bức
thư ngỏ từ “Các cộng đồng Jubaland có liên quan” ủng hộ việc thành
lập một quốc gia Jubaland tự trị trong hệ thống liên bang mong manh
của Somalia. (Mặc dù Nur Said đến từ Puntland, nhưng cả hai khu vực
đều có số lượng lớn người Darod; cả hai đều thường xuyên căng thẳng
với chính quyền trung ương yếu kém ở Mogadishu.)
Nur Said là một
thành viên của “thế hệ lớn tuổi hơn”, như một nguồn tin cộng đồng
người Somali ở Minneapolis đă nói—một người ḥa đồng với những người
cùng tuổi với ḿnh và thường chỉ nói bằng tiếng Somali. Một người
Minnesotan khác thân thiện với gia đ́nh đă mô tả anh ta là “một
chàng trai rất ḥa nhă, hầu như dễ bị khuất phục. Nhưng rất thông
minh. Anh ấy có sự khôn ngoan thầm lặng về anh ấy. Ông ấy cũng có
một cái ǵ đó hoàn toàn khác với bất kỳ người cha Somalia nào mà tôi
biết. Anh ấy có sự tôn trọng như vậy với các con gái của ḿnh ...
anh ấy muốn sự chú ư dành cho cô ấy chứ không phải cho bản thân anh
ấy. Bạn có thể cảm nhận được nó.
Trên thực tế, tất
cả mọi người trong bộ máy nhà nước Somalia đều có cái nh́n sâu sắc
về sự sụp đổ từ từ của đất nước. Abdirashid Buule, người đă trở
thành nhân viên thực địa cho Bộ Chăn nuôi sau khi tốt nghiệp trung
học, kể lại rằng vào giữa những năm 1980, các đội của ông không thể
tiếp cận một số khu vực nhất định trừ khi họ có sự cho phép rơ ràng
của dân quân địa phương. Chính phủ có các nhóm chiến binh ưa thích
của riêng ḿnh, điều đó có nghĩa là các cuộc tranh giành quyền lực ở
cấp địa phương đă diễn ra gay gắt ngay cả trước khi nội chiến nổ ra.
“Những ǵ chúng tôi có tốt hơn là không có chính phủ,” Buule nói với
tôi ở Nairobi vào năm 2019. “Nhưng hệ thống chỉ dành cho chính nó.
Barre chỉ nghĩ đến ngày đó, khi ông ấy có quyền lực.”
Sự đào tẩu của
các quan chức cấp cao của chế độ, bao gồm cả đại sứ của Barre tại
Hoa Kỳ, bắt đầu vào đầu những năm 80. Nội chiến nổ ra vào năm 1987
khi lực lượng không quân của Barre san phẳng Hargeisa, thành phố lớn
nhất trong khu vực mà tộc Ishaq chiếm ưu thế. Nhà độc tài đă dựa vào
hệ thống thị tộc khi quyền cai trị của ông ta suy giảm, ủng hộ các
tiểu thị tộc Marahan, Ogaden và Dulbahante của Darod và giết hàng
ngh́n Ishaq để khủng bố miền bắc bất ổn của đất nước phải khuất
phục.
Từ Nairobi đến
Melbourne đến Minneapolis, phần lớn cộng đồng người Somali lưu vong
theo dơi sự h́nh thành của nó cho đến những tuần cuối cùng của năm
1990, khi quân nổi dậy đến Mogadishu và đất nước rơi vào hỗn loạn mà
nó vẫn chưa xuất hiện hoàn toàn. Đại hội Somali Thống nhất của
Mohamed Farah Aidid tiến vào thành phố, bắt đầu nhiều tháng giết
người trả thù nhắm vào bất kỳ thành viên nào thuộc bất kỳ nhánh nào
của gia tộc Barre's Darod, bất kể họ có ủng hộ chế độ hay không.
“Tất cả những người có liên hệ với 'the' Darod - một cấu trúc phả hệ
bao gồm một số thị tộc và một tỷ lệ lớn cư dân của Mogadishu và toàn
bộ đất nước - giờ đây, bất kể lịch sử cá nhân của họ, đều bị coi là
kẻ thù của Kapteijns viết. Trong năm đầu tiên, cuộc xung đột được
cho là đă giết chết 14.000 người và khiến 400 người khác phải rời bỏ
nhà cửa. 000 chỉ riêng ở Mogadishu. Nhiều người đầu tiên đến Hoa Kỳ
tị nạn là Darod, giống như Omar.
Người Somalia
thường cống hiến gần như tất cả những ǵ họ có để giải cứu gia đ́nh.
Yaxia Osman, một cựu chủ cửa hàng ở Mogadishu mà tôi gặp ở Mombasa
vào năm 2019, đă chứng kiến những người xung quanh ḿnh bị giết và
sau đó tiêu toàn bộ số tiền tiết kiệm được, tổng cộng khoảng 30.000
USD, thuê xe tải để đưa đại gia đ́nh của ḿnh đến biên giới. Hầu hết
những người Somalia phải di dời, những người nghèo hơn Osman rất
nhiều, chỉ đơn giản là bắt đầu đi bộ đến những nơi mà chiến tranh
chưa đến được. Abdullahi Ali Aden, một người tị nạn mà tôi gặp tại
khu phức hợp trại Dadaab ở sa mạc Kenya vào cuối năm 2019, đă đi bộ
bằng chân trần đến biên giới Somali-Kenyan sau khi chiến tranh bùng
nổ. Gia đ́nh năm người của anh ngủ bên vệ đường; họ sống sót v́ mang
theo đàn dê gồm 28 con, gần một nửa trong số đó họ đă giết thịt
trong chuyến hành tŕnh kéo dài hàng tuần đến nơi tương đối an toàn.
Bên ngoài nhà của
Tổng thống Ali Mahdi ở Mogadishu, 1991
Bên
ngoài nhà của Tổng thống Ali Mahdi ở Mogadishu, 1991 ALEXANDER
JOE/AFP QUA GETTY IMAGES
Câu chuyện về
người tị nạn nổi tiếng nhất trong cuộc xung đột cũng là một trong
những người lạ mặt trong cuộc chiến trốn thoát đến nơi an toàn. Gia
đ́nh Omar ở lại Mogadishu nhiều tháng sau khi Barre bị lật đổ. Vào
một đêm, theo hồi kư của Omar và nhiều lời kể khác mà cô ấy được
cung cấp, những kẻ tấn công từ một nhóm dân quân không xác định đă
cố gắng mở rộng cổng và tường của khu nhà khi gia đ́nh tập trung ở
sân sau bữa tối. Như Omar nhớ lại trong cuốn sách của ḿnh, gia đ́nh
đă nhốt ḿnh trong ṭa nhà chính của khu nhà; cậu bé Omar trốn dưới
gầm giường. Một loạt tiếng súng vang lên trước cổng. Một người cô và
một người chị gái đă nhận ra hai trong số những chiến binh mà họ đă
biết từ thời thơ ấu và mạnh dạn bắt đầu thương lượng để giành lấy
mạng sống của gia đ́nh. Những kẻ tấn công rút lui khi hai người phụ
nữ khiến họ xấu hổ bỏ đi.
Cha và ông của
Omar bắt đầu thực hiện kế hoạch trốn thoát của họ vào sáng sớm hôm
sau. Omar và một người họ hàng là nữ đă đi đến thành phố ven biển
Kismayo trên một chiếc xe tải và cuối cùng ra khỏi Somalia bằng
đường hàng không: “Chúng tôi bị đưa lậu ra khỏi đất nước với cái giá
rất đắt trên một chiếc máy bay nhỏ dùng để chở tôm lậu,” cô ấy viết.
“D́ tôi và tôi đi trên một chiếc máy bay, c̣n ông tôi trên một chiếc
khác.” Theo hồi kư của Omar, cha cô không đi cùng cô - cô không giải
thích được ông đă đến Kenya bằng con đường nào.
Sân bay Mogadishu
đóng cửa vào ngày 31 tháng 12 năm 1990 khi giao tranh gia tăng; việc
thuê các chuyến bay quốc tế ở một Somalia đang nhanh chóng rơi vào
t́nh trạng hỗn loạn là điều chưa từng xảy ra. Tuy nhiên, theo hồi ức
của Omar, đại gia đ́nh gồm khoảng 20 người của cô đă sơ tán thành
công một đất nước có các trạm kiểm soát của phiến quân, các cuộc đọ
súng và bạo lực giữa các bộ tộc bằng xe tải và nhiều máy bay. Một
cuộc trốn thoát như vậy đ̣i hỏi sự kết hợp của các nguồn lực, may
mắn và kế hoạch tiên tiến mà hầu như không có cuộc trốn thoát nào
khác có được. Bản thân Barre đến Kenya sau đó vào năm 1991 bằng
đường bộ.
Huyền thoại nguồn
gốc của cộng đồng người Mỹ gốc Somali ở Minneapolis liên quan đến
một nhà máy sản xuất gà tây cách đó ba giờ về phía tây, tại một thị
trấn tên là Marshall, Minnesota, nơi có dân số hiện tại là 13.000
người. Trong mùa đông băng giá năm 1992, một nhóm khoảng 20 thanh
niên t́m đường đến Marshall, nơi một người đàn ông Somali làm giám
sát ca của nhà máy. Những người mới đến hầu như không nói được tiếng
Anh và có ít kỹ năng thị trường. Họ đang sống qua một bi kịch vừa xa
lạ vừa vô h́nh đối với những người hàng xóm mới của họ, hầu hết tất
cả đều là người da trắng theo đạo Thiên chúa và không có kinh nghiệm
trực tiếp về nội chiến.
Những người
Somalia đến Mỹ với tư cách là những người tị nạn sau một cuộc xung
đột đă giết chết bạn bè và người thân của họ, xóa sạch mọi thứ họ đă
tiết kiệm hoặc xây dựng, và khiến các thành viên gia đ́nh mắc kẹt
trong các khu ổ chuột và trại tị nạn trên khắp Đông Phi và Trung
Đông. Những người đàn ông chủ yếu sống ở San Diego khi đến Mỹ, và
t́m kiếm việc làm ở bất cứ nơi nào họ có thể t́m thấy. Họ ngủ lại
bến xe buưt ở Sioux Falls vào đêm trước chặng cuối của chuyến đi tới
Marshall, một nơi mà họ không cảm thấy được chào đón đặc biệt. Không
ai thuê nhà ở cho họ - những người công nhân sống trong những chiếc
xe kéo mà chủ nhà máy cung cấp. Vào những giờ lạnh giá trước b́nh
minh, họ sẽ xếp hàng trước một chiếc điện thoại công cộng ở trung
tâm thị trấn để gọi cho người thân ở Nairobi hoặc Sanaa hoặc London
để biết ai đă và chưa rời khỏi Somalia. Một chiếc xe cảnh sát đôi
khi sẽ dừng lại,
Măi cho đến sự
kiện Black Hawk Down khét tiếng vào tháng 10 năm 1993, trong đó các
chiến binh đă giết chết 19 lính Mỹ ở Chợ Bakaara của Mogadishu,
người dân Marshall mới hiểu rằng những người hàng xóm mới bí ẩn này
là những người sống sót trong địa ngục trần gian, bị tước đoạt bởi
một cuộc chiến đă tàn phá. mọi thứ của kiếp trước của họ. Người dân
thị trấn ngày càng sẵn sàng cho người Somalia thuê, những người bắt
đầu học tiếng Anh và hiểu rơ hơn về cuộc sống ở vùng nông thôn
Minnesota. Người Somalia thấy rất thích Marshall. Có rất nhiều công
việc đ̣i hỏi kỹ năng thấp, cùng với đặc tính dè dặt nghiêm khắc của
người Minnesota có xu hướng để mọi người ở một ḿnh bất kể họ có thể
xuất hiện bên ngoài ḍng chính như thế nào. “Trong văn hóa Somali có
một khái niệm gọi là sahan— do thám,” Yusuf giải thích. Người
Somalia phát hiện ra rằng họ có thể sống tương đối thoải mái ở
Minnesota và vẫn c̣n đủ tiền để hỗ trợ người thân ở nước ngoài. “Một
khi họ phát hiện ra rằng họ có thể nuôi sống gia đ́nh ḿnh ở
Ethiopia hoặc ở Kenya hoặc ở Yemen, th́ tin tức đó đă bị loại bỏ.”
Những người tị
nạn Somali mà chính phủ Hoa Kỳ đă cho tái định cư ở những vùng có
khí hậu ấm áp hơn và có vẻ hiếu khách hơn ở San Diego và bắc
Virginia dần dần t́m đường đến miền bắc lạnh giá của đất nước mới
của họ, một nơi có khí hậu ảm đạm, địa lư không giáp biển, bầu trời
như kim loại và một màu trắng đồng nhất. và dân số Cơ đốc giáo gần
như đối lập với nơi họ đă chạy trốn.
Từ Marshall và
các thị trấn nhỏ khác, người Somalia bắt đầu hướng tới đô thị lớn
nhất của bang, một thành phố mới nổi cần tài xế taxi, công nhân nhà
máy và nhân viên khách sạn. Điều đó giúp Minneapolis là một nơi hoàn
toàn yên tĩnh và an toàn hơn so với các trung tâm dân số lớn khác
của Mỹ.
Giống như bất kỳ
huyền thoại sáng tạo nào, câu chuyện về cách người Somalia đến
Minneapolis rất thú vị v́ những ǵ nó bỏ qua. Một số lượng đáng kể
người Somalia đă đến được Minnesota nhờ chương tŕnh tái định cư
người tị nạn của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, chương tŕnh này đă xác định
bang miền trung tây lạnh giá, khi đó có khoảng 97% là người da
trắng, là nơi cần nguồn cung cấp mới những người nước ngoài nghèo
khó. Quan trọng hơn, Hoa Kỳ quan tâm đến người Somalia so với các
nhóm dân số đang gặp nguy hiểm khác v́ nhận thức được lợi ích quốc
gia trong việc giúp đỡ những người đă chịu đau khổ thay cho Hoa Kỳ.
Chế độ của Barre đă trở thành đồng minh của Hoa Kỳ trong giai đoạn
cuối của Chiến tranh Lạnh, và vào tháng 12 năm 1992, Hoa Kỳ đă gửi
25.000 binh sĩ đến Somalia để bổ sung cho lực lượng Liên Hợp Quốc
trong nỗ lực cuối cùng nhằm ổn định đất nước. Chính sách của Mỹ ở
Somalia đă thất bại,
Đến tháng 3 năm
1995, tất cả quân đội nước ngoài đă rút khỏi Somalia, khi cuộc xung
đột trở thành một t́nh trạng xă hội kinh niên kéo dài cho đến ngày
nay. Cuộc di cư của khoảng 18.000 người Somalia đến Hoa Kỳ vào cuối
năm 1996 và gần 110.000 người vào cuối những năm 2010, bao gồm các
đối tác an ninh của Mỹ và các quan chức cấp cao của chế độ Barre có
dính máu, cũng như những người Somalia b́nh thường cùng gia đ́nh ở
Hoa Kỳ. Hoa Kỳ từ trước khi chiến tranh bùng nổ, cùng với những
người khác đă vô cùng may mắn.
Trong khi thiểu
số người tị nạn Somali may mắn nhất đến được Mỹ, th́ một số lớn hơn
nhiều đă bị bỏ rơi ở Dadaab, cách Nairobi một giờ bay ở miền đông
Kenya. Mặc dù gần với thành phố quan trọng nhất của Đông Phi, Dadaab
là một khu vực tranh tối tranh sáng trên sa mạc, người không phải
người Kenya gần như không thể đến thăm: Vào cuối năm 2019, một
chuyến đi đến đó cần có giấy phép của Bộ các vấn đề về người tị nạn
của đất nước, sau đó là nhiều lớp giấy phép từ nhiều văn pḥng khác
nhau của Liên Hợp Quốc, sau đó là một cuộc thẩm vấn ngắn của cảnh
sát khi cuối cùng tôi đến bằng chuyến bay của Cơ quan Hàng không
Nhân đạo Liên Hợp Quốc, sau đó là ánh mắt ngạc nhiên của các nhân
viên Liên Hợp Quốc rằng tôi thậm chí đă đến được đó. Từ khu phức hợp
rộng lớn và có tường bao quanh của Liên Hợp Quốc ở trung tâm của một
thị trấn lều bùn đầy lo lắng—al-Shabab, chi nhánh tàn bạo của
al-Qaida người Somali,
Rất ít nơi trên
trái đất cho thấy sự mong manh của sự tồn tại của con người giống
như Dadaab, một thảm họa nhân tạo cũng báo trước một tương lai có
thể không xa, trong đó hầu hết mọi nơi khác trên Trái đất đều khô
cằn, không có ǵ đặc biệt và tuyệt vọng. Đất khô và bằng phẳng,
giống như cát hơn là đất—sau một trận mưa ngắn, những người tị nạn
bắt đầu đào đất đă được nén chặt trên đường để sử dụng làm vật liệu
xây dựng. Bên trong các trại, mê cung của những lối đi bộ quanh co
được lót bằng những bức tường tranh tạm bợ xếp lớp trong những hộp
dầu ăn bỏ đi của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ, những hàng cờ Mỹ
bằng kim loại lấp lánh trong ánh nắng sa mạc buồn tẻ.
Dadaab thời hiện
đại là h́nh ảnh ngược lại đen tối của trải nghiệm của người Mỹ gốc
Somali—đó là số phận mà từ đó những người Somali đến Hoa Kỳ như Omar
đă được cứu thoát. Nhiều người tị nạn của các trại đă bị mắc kẹt
trong sa mạc trong nhiều thập kỷ v́ họ không an toàn khi quay trở
lại Somalia và v́ Kenya đă đặt ra các quy định nghiêm ngặt về nơi
người tị nạn Somalia có thể sống và làm việc. Hầu hết cư dân Dadaab
bị cấm sống bên ngoài các trại, nơi không có công viên, không có thư
viện thực sự, ít trung tâm giải trí và ít ṭa nhà kiên cố. Dadaab
không phải là một khu vực chiến tranh theo nghĩa chặt chẽ nhất.
Nhưng nó gây ra một sự bế tắc tàn khốc: Rất ít người có thể rời đi,
và cuộc sống của cư dân không thể tiến triển cho đến khi họ rời đi.
Nhiều người trong
số những người tị nạn đă xuất hiện ở biên giới Kenya-Somali vào đầu
những năm 90 chỉ để dành phần đời c̣n lại của họ chờ đợi chiến tranh
kết thúc, hoặc chờ đợi những cơ hội tái định cư không bao giờ đến.
Fardowso Abdullahi, người sinh ra ở trại Hagadera của khu vực và có
cha mẹ từng là những người chăn gia súc ở Somalia, cho biết: “Chúng
tôi đang ở trong một nơi giam cầm. “Chúng tôi không thể đi đâu cả.”
Khi tôi đến đó vào năm 2019, các nước phương Tây chỉ cung cấp tổng
cộng 975 suất tái định cư hàng năm cho những người tị nạn của
Dadaab. “Có vẻ như thế giới đă mệt mỏi với các trại Dadaab,”
Abdullah Ali Aden, chủ tịch được bầu của trại Dushale nói với tôi.
“Rất nhiều người có được rất nhiều kiến thức ở đây,” anh ấy nói
thêm. “Kiến thức bạn có được là cách tồn tại trong cuộc sống khắc
nghiệt. Thật không thể chịu nổi.”
'Dadaab không
phải là một khu vực chiến tranh theo nghĩa chặt chẽ nhất.
Nhưng nó gây ra một sự bế tắc tàn khốc: Rất ít người có thể
rời đi, và cuộc sống của cư dân không thể tiến triển cho đến khi họ
rời đi.' Trại tị nạn
Dadaab ở Kenya, trại tị nạn lớn nhất thế giới, 2011.
'Dadaab không
phải là một khu vực chiến tranh theo nghĩa chặt chẽ nhất. Nhưng nó
gây ra một sự bế tắc tàn khốc: Rất ít người có thể rời đi, và cuộc
sống của cư dân không thể tiến triển cho đến khi họ rời đi.' Trại tị
nạn Dadaab ở Kenya, trại tị nạn lớn nhất thế giới, 2011. TONY
KARUMBA/AFP QUA GETTY IMAGES
Anab Gedi
Mohammed, con của một chủ cửa hàng nghèo thuộc gia tộc Darod, người
đă bị các chiến binh của gia tộc đối thủ Hawiya phá hủy trong cuộc
nội chiến, nói với tôi rằng tôi là nhà báo nước ngoài thứ năm mà cô
ấy đă nói chuyện trong đời, kể cả một Al Jazeera, và rằng cô ấy đă
có những cuộc tṛ chuyện gần như giống hệt nhau với tất cả chúng tôi
khi nhớ lại 27 năm của cô ấy ở Dadaab. “Bạn không biết nó như thế
nào trong trại đâu,” cô ấy nói bằng tiếng Anh khi tôi đứng cạnh cửa
khu nhà nhỏ của cô ấy, chỉ một lúc nữa là rời đi. "Không có ǵ thay
đổi."
Trong một thời
gian ngắn, mọi người quan tâm đến Dadaab. Vào ngày 11 tháng 8 năm
2018, Omar đă giành chiến thắng trong cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Dân
chủ cho Khu vực Quốc hội số 5 của Minnesota, đưa cô trở thành thành
viên Quốc hội người Mỹ gốc Somali đầu tiên và là nữ nghị sĩ đội khăn
trùm đầu đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ. Reuters , The Guardian và
The Washington Post đều đưa tin rằng Omar và gia đ́nh cô đă sống ở
Dadaab được bốn năm.
Kư ức về Ilhan
Omar đọng lại ở đó. “Có những người nói với tôi rằng họ là hàng xóm
của nhau vào năm 1994… họ có thể thấy cô ấy là một phụ nữ rất thông
minh,” Ali Aden, một người tị nạn mà tôi gặp ở Ifo, một trong ba
trại của Dadaab, kể lại. Người sửa chữa của tôi, một nhà báo của một
trong những đài phát thanh của trại, nói rằng anh ta chắc chắn về
địa chỉ cũ của gia đ́nh: khu A-7 của trại Ifo bụi bặm. “Ilhan đă ở
đây,” Shardid Abdikadir, một người tị nạn và thương nhân tại khu chợ
rộng lớn của Ifo, nói. Anh nhớ lại đă nh́n thấy cha của Omar ở đó.
“Theo cách tôi nhớ, anh ấy là một người đàn ông rất cao. Tôi chưa
gặp anh ấy, nhưng chúng tôi đă từng gặp nhau.”
Trên thực tế,
Omar chưa bao giờ sống trong bất kỳ trại nào của Dadaab—cô ấy chỉ
đến thăm trong một nhiệm vụ nhân đạo vào năm 2011—và bất kỳ kư ức
nào về cô ấy ở đó đều không dựa trên các sự kiện có thật. Không rơ
quan điểm cho rằng cô ấy đă dành thời gian ở Dadaab bắt đầu như thế
nào, hoặc liệu bản thân Omar có từng cố gắng sửa chữa nhận thức sai
lầm này hay thậm chí biết về nó hay không. Thay vào đó, gia đ́nh cô
đăng kư tị nạn tại Utange, bên ngoài Mombasa, như cô kể lại trong
hồi kư của ḿnh. Vào đầu những năm 90, bất kỳ trại tị nạn nào của
Kenya đều là một nơi nghiệt ngă, và câu chuyện của Omar cho thấy
những người quyết tâm có thể tiến xa như thế nào ngay cả khi dường
như họ đă bị tước đoạt mọi cơ hội có thể có trong đời. Do đó, người
Somali coi Omar như “một người anh em họ đă làm nên điều đó,”
Mohammed Ibrahim, người sáng lập Phong trào Chống Chủ nghĩa Bộ lạc,
cho biết. “Nó nói lên rất nhiều điều về chúng tôi. Chúng tôi là
những người rất kiên cường.”
Cho đến khi cuốn
hồi kư của cô được xuất bản, Omar chưa bao giờ công khai nói về
những năm cô ở trại tị nạn Utange với bất kỳ chi tiết thực nào, đó
có lẽ là một lư do khiến người ta có ấn tượng rằng cô đă sống ở
Dadaab. Ngày nay, không có dấu hiệu bên ngoài nào cho thấy đă từng
có một trại tị nạn ở Utange, nơi trông giống như bất kỳ khu ổ chuột
nào khác ở ngoại ô Mombasa có nhiều bóng cọ. Việc Utange ở gần một
trong những trung tâm thương mại và dân cư lớn của Kenya, nơi tự hào
có một dải các khu nghỉ mát băi biển đẹp mắt và một khu phố cổ dày
đặc các ṭa nhà do những người chinh phục Anh, Bồ Đào Nha và Ả Rập
bỏ lại, khiến việc đóng cửa trại năm 1997 là điều không thể tránh
khỏi. “Luôn có rào cản ngôn ngữ—không ai hiểu nhau,” Abdulla Ahmed,
một người bán rong sống cạnh khu trại trước, trong và sau khi những
người tị nạn ở đó, nhớ lại. “Nó đă dẫn đến những trận đánh nhau ở
đây—nhà cửa của người dân ở cả hai bên đều bị tổn hại. Đó là lư do
tại sao họ quyết định phải thanh lư trại.”
Đối với công chức
và các cựu thành viên khác của giai cấp thống trị Somali, thông
thường đăng kư ở Utange và sống ở một nơi khác. “Hầu hết những người
sống ở Utange, họ nói với tôi rằng họ sống ở Mombasa. Mohamed
Ingiriis, giáo sư thỉnh giảng tại Trung tâm Lănh đạo Châu Phi tại
Đại học King's College ở London, người lớn lên ở Somalia và sống ở
đó cho đến năm 2002, cho biết giới tinh hoa - những người nghèo sống
trong các trại.
Willis Okech, một
nhà báo của tờ The Standard , người đă đưa tin về ḍng người tị nạn
đổ vào Mombasa vào những năm 1990, cũng có một hồi ức tương tự.
“Những người tị nạn Utange là những người nghèo. Hầu hết trong số họ
đă được chuyển đến Dadaab. Những người giàu có không bao giờ được
chuyển nhượng. Họ có thể nhận được một ID tị nạn cho phép họ ở lại
bất cứ nơi nào họ muốn.” Yaxia Osman, cựu chủ cửa hàng ở Mogadishu,
nhớ lại rằng “mọi người sống ở cả hai phía—bạn sống trong trại,
nhưng bạn cũng sống ở thành phố.”
Omar viết trong
hồi kư của ḿnh rằng cô đă đoàn tụ với cha ḿnh ở Utange vào năm
1992, sau chuyến bay đưa cô từ bờ biển phía nam Somalia đến Kenya.
Trại là một nơi cực kỳ đau khổ: Omar bất lực nh́n người d́ yêu quư
của ḿnh qua đời v́ bệnh sốt rét. Cha cô đă gửi gia đ́nh đến cơ quan
tị nạn của Liên Hợp Quốc với tư cách là ứng cử viên tái định cư. Sau
cuộc phỏng vấn với nhân viên Liên Hợp Quốc, Omar và gia đ́nh ruột
thịt của cô ấy “đă kiếm được một trong những tấm vé vàng đến Mỹ,” cô
ấy viết, không giải thích ǵ thêm—cô ấy không nói thành viên nào
trong gia đ́nh đă giành được “chiếc vé vàng” hay điều ǵ đă làm. gia
đ́nh cô ấy là một trường hợp tái định cư lư tưởng theo quan điểm của
chính phủ Hoa Kỳ, hoặc quá tŕnh này mất bao lâu kể từ khi nộp đơn
ban đầu cho đến khi cấp thị thực tị nạn cho gia đ́nh cô ấy.
Omar đă đến thăm
Dadaab trong nhiệm vụ cứu trợ đó vào năm 2011, nhưng cô ấy không có
mặt ở Utange. Vào cuối năm 2019, một trong những công tŕnh duy nhất
c̣n sót lại sau sáu năm làm trại tị nạn của khu vực là một ṭa nhà
một tầng, có mái che, nửa dưới vẫn được sơn màu xanh lam của Liên
hợp quốc. Bây giờ nó là một trại trẻ mồ côi, nơi trẻ em chơi trên
chiếc xích đu rỉ sét và chiếc Volkswagen Beetle hỏng hóc.
Francis Kinyua,
giám đốc trại trẻ mồ côi, kéo một chiếc ghế nhựa và đề nghị kể cho
tôi nghe “lịch sử của nơi này” khi chúng tôi ngồi dưới những tán cọ
cao đung đưa. “Trước những người tị nạn, cuộc sống gần như ch́m
trong giấc ngủ. Chỉ có cây cối, không có tiếng động.” Anh ta vui vẻ
cáo buộc những người tị nạn buôn lậu vũ khí vào trại nhưng cũng nói
rằng anh ta ngưỡng mộ những người hàng xóm cũ của ḿnh. “Thế giới
đang trở thành một ngôi làng và nền kinh tế toàn cầu, và người
Somalia đă biết điều đó từ lâu trong khi những người khác không
biết.” Anh ta tuyên bố rằng những người tị nạn vẫn duy tŕ các mối
quan hệ kinh doanh ở nước ngoài sẽ vận chuyển đồ điện tử tiêu dùng
đến Mombasa. Ông tuyên bố: “Với sự gia nhập của người Somalia, hầu
hết mọi hộ gia đ́nh đều sở hữu một chiếc TV hoặc đài. Người đàn ông
chưa bao giờ nghe nói về Ilhan Omar.
Dadaab thời hiện
đại là h́nh ảnh ngược lại đen tối của trải nghiệm người Mỹ gốc
Somali—đó là số phận mà từ đó những người Somali đến Mỹ như Omar đă
được cứu.
https://www.tabletmag.com/sections/news/articles/ilhans-country
Dù họ đến từ đâu,
th́ việc đến được Hoa Kỳ vào giữa những năm 90 là một trong những
kết quả khả thi nhất đối với một người tị nạn Somali—Mỹ đă tiếp nhận
2.506 người tị nạn Somali vào năm 1995, năm Omar viết rằng gia đ́nh
cô chuyển đến Virginia.
Thông thường,
Liên Hợp Quốc cung cấp cho các quốc gia cung cấp tái định cư tên của
các ứng cử viên tiềm năng, một quy tŕnh tốn nhiều công sức và quan
liêu đôi khi có thể kéo dài hơn một thập kỷ. Nhưng vào giữa những
năm 90, Hoa Kỳ thường cung cấp các vị trí có sẵn để tiếp nhận các
đối tác chính trị hoặc an ninh cũ hoặc để đoàn tụ gia đ́nh của những
người đă đến Hoa Kỳ.
Việc Mỹ chấp nhận
những người Somalia tản cư không hoàn toàn là một hoạt động nhân
đạo. Các siêu cường hoạt động ở quy mô rộng lớn đến mức những thất
bại của chúng thường ẩn chứa mầm mống của một số cơ hội trong tương
lai. Các nhà hoạch định chính sách Mỹ nhận ra rằng những người tị
nạn Somali có thể là một kênh liên lạc và bảo trợ có thể khai thác
để di chuyển từ tây sang đông, với những người Somali ở Hoa Kỳ đóng
vai tṛ như một con đường làm sẵn vào khoảng trống vô chính phủ bao
gồm bờ biển dài nhất châu Phi, gần một trong những bờ biển dài nhất
thế giới. các nút thắt hàng hải quan trọng. Một cộng đồng người
Somali hải ngoại an toàn, thịnh vượng và thân Mỹ có thể trở thành
tài sản cho các nhà hoạch định quốc pḥng và t́nh báo của Hoa Kỳ,
một phương tiện để theo đuổi các lợi ích an ninh của Mỹ trong một
khoảng trống không quốc gia, nơi có nửa tá quốc gia tranh giành ảnh
hưởng.
Omar đă được bảo
vệ một cách đáng chú ư trong việc giải thích hoàn cảnh gia đ́nh cô
đến Hoa Kỳ. Vào tháng 10 năm 2018, vài tháng sau khi giành chiến
thắng trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ, cô ấy đă cho phóng
viên Stephen Montemayor của Minneapolis Star-Tribune xem “những bức
ảnh chụp bằng điện thoại di động về các tài liệu gia đ́nh cô ấy nhập
cảnh vào Hoa Kỳ vào năm 1995 sau khi chạy trốn khỏi cuộc nội chiến ở
Somalia,” liệt kê cha cô ấy và sáu anh chị em khác là họ hàng. .
Montemayor đă viết rằng những tài liệu này là “các biểu mẫu phê
duyệt tái định cư cho người tị nạn và thẻ căn cước”, nhưng cũng lưu
ư rằng ông không có cơ hội xác thực hoặc t́m hiểu sâu về chúng.
Trong một email trao đổivới luật sư Minneapolis và nhà văn bảo thủ
Scott Johnson, Montemayor đă viết rằng “Omar không cho phép tôi ghi
lại tên hoặc cung cấp bản sao của các h́nh ảnh.”
Omar viết trong
cuốn hồi kư của ḿnh rằng cô đến New York cùng cha ḿnh, nơi cô có
ấn tượng ban đầu rất tiêu cực về Hoa Kỳ là bẩn thỉu, đầy h́nh vẽ bậy
và nhẫn tâm. Cô ấy nhớ lại sự ghê tởm của ḿnh trong một thời gian
dài: “Được hứa hẹn một điều không tưởng chỉ để được đưa đến một
thành phố hoặc thị trấn có thể có ít rác và tội phạm hơn một chút và
có nhiều ṭa nhà hơn nơi bạn đến là điều khiến bạn mất phương hướng
và thất vọng.” Ở một khía cạnh nào đó, nước Mỹ thậm chí c̣n tồi tệ
hơn nơi cô ấy đến: “Khi chúng tôi sống ở Somalia, ở thành phố lớn,
thậm chí ngay cạnh khu chợ ngoài trời lớn, tôi chưa bao giờ thấy một
người ngủ trên đường trong khi những người khác chỉ đi loanh quanh.
ngày của họ. Khái niệm đó không tồn tại trong xă hội công xă của đất
nước tôi.”
Trong hồi kư của
ḿnh, Omar không xem xét khả năng việc cô không nh́n thấy hoặc nhận
thấy t́nh trạng nghèo đói cùng cực, điều chắc chắn đă tồn tại ở
Mogadishu ngay cả trước khi nó rơi vào t́nh trạng hỗn loạn, là một
chức năng của tuổi trẻ hoặc sự giáo dục đặc quyền, kín đáo của cô,
hơn là bằng chứng. của sự đoàn kết xă hội vượt trội, so với Hoa Kỳ,
của một Somalia bên bờ vực của ba thập kỷ nội chiến. Cô tiếp tục: “Ở
Kenya, chúng tôi thấy những nhóm thanh niên lang thang trên phố
trong bộ quần áo bẩn thỉu. “Những người lớn nói về việc họ nghiện ma
túy như thế nào, nhưng họ không có vẻ hoàn toàn chán nản như bà lăo
mà tôi nh́n thấy đang nằm trên băng ghế công viên ở thành phố New
York với chiếc xe hàng duy nhất làm vật bảo vệ. Những đứa trẻ đường
phố Kenya không bị đối xử như những đồ vật để đi loanh quanh và phớt
lờ.
Bắc Virginia, nơi
đầu tiên gia đ́nh Omar định cư, đă có một cộng đồng nhỏ người
Somalia từ đầu những năm 1980. Trong thời của Barre, giới thượng lưu
Somali có cơ hội được học tập ở Hoa Kỳ thường chọn đến Washington,
DC, nơi có đại sứ quán của nước này. Một số tay sai hàng đầu của
Barre cuối cùng đă sống ở khu vực DC rộng lớn hơn sau chiến tranh,
bao gồm Hussein Kulmia và Ali Samatar, hai trong số các cựu phó tổng
thống của Barre, người sau này được coi là một trong những cấp phó
tàn bạo nhất của nhà độc tài. Yusuf Ali Abi, một đại tá quân đội
từng tham gia phá hủy Hargeisa, đă lặng lẽ sống ở khu vực này trong
17 năm cho đến khi bị kiện v́ cáo buộc vi phạm nhân quyền trong quá
khứ vào năm 2019.
Hầu hết người
Somalia ở khu vực DC không quá nổi bật. “Vào thời điểm đó, 90% trong
số họ là tài xế taxi,” một thành viên của cộng đồng phía bắc
Virginia có cha từng là quan chức an ninh cấp cao thời Barre giải
thích. “Các đại sứ đă kết thúc ở đây. Nhưng ai là người đă đến
Canada, Châu Âu. Washington rất cứng rắn, anh bạn. Ở Washington bạn
phải làm việc.” Tuy nhiên, một lợi ích của nước Mỹ vào giữa những
năm 90 là một người tị nạn duy nhất có thể tài trợ cho việc tái định
cư của nhiều thành viên trong gia đ́nh. Hàng trăm người sẽ đến thị
trấn và sau đó rời đi Minneapolis trong ṿng vài tháng. Nguồn tin
cho biết Omar có gia đ́nh ở khu vực DC, trong đó có một người họ
hàng là nữ lớn tuổi từng làm việc cho Ngân hàng Trung ương Somali
dưới thời Barre; một cựu chính trị gia cấp cao ở Nairobi trong chính
phủ Somali thời hậu nội chiến nhớ lại cuộc gặp gỡ người họ hàng Omar
này ở miền bắc Virginia vào những năm 2000. Mặc dù Nur Said đă t́m
được việc làm tại một sân bay địa phương, nhưng thời gian lưu trú
của gia đ́nh ở phía bắc Virginia tương đối ngắn. Theo hồi kư của cô,
ông ngoại của Omar đă định cư ở Minneapolis, mặc dù con đường của
ông từ Kenya đến thành phố miền Trung Tây hầu như không giải thích
được.
Đối với những
người tị nạn Somali ở cả hai bờ biển, Minnesota là vùng đất thực sự
của cơ hội trong những năm 1990. Mohamed Amin Ahmed, người sáng lập
Average Mohamed, một tổ chức phi lợi nhuận chống chủ nghĩa cực đoan
ở Twin Cities, cũng thực hiện hành tŕnh từ Virginia đến Minneapolis
không lâu sau khi đến Hoa Kỳ. Anh ấy nói rằng một người không nói
tiếng Anh đến Twin Cities vào buổi sáng có thể có một công việc 16
đô la mỗi giờ với tư cách là công nhân xưởng đúc khi màn đêm buông
xuống. Đối với người Somalia, trận ḥa vượt xa việc làm dễ dàng. Như
Ahmed đă nói: “Khi tôi từ Virginia đến và xuống máy bay, một anh
chàng Somali đă giúp mang hành lư cho tôi. Người lái xe taxi là
người Somali. Nhân viên lễ tân khách sạn là người Somali. Nhà thờ
Hồi giáo là người Somali. Tôi đă đến một nhà hàng Somali. Đó là cách
tôi biết đó là nhà.”
Ngày nay, Thành
phố đôi là ngôi sao lớn nhất trên bản đồ toàn cầu của cộng đồng
người Somali hải ngoại—có ảnh hưởng chính trị hơn London, giàu có
hơn Toronto, được cho là quan trọng hơn cả Nairobi, mặc dù diện tích
của nó chỉ bằng một phần nhỏ. Trong một thế giới bị thu nhỏ bởi du
lịch hàng không giá rẻ, công nghệ truyền thông hiện đại và sự phức
tạp thường không lường trước được trong chính sách của Mỹ, một tranh
chấp chính trị hoặc xă hội phức tạp ở một quốc gia xa xôi có thể tạo
ra những nền văn hóa phụ mới và thường sôi động ở những nơi trước
đây ít hoặc không có mối liên hệ nào với nơi xuất phát của các cộng
đồng đó.
Sau khi nội chiến
bùng nổ, người Somalia coi Mỹ là điểm đến tốt hơn châu Âu; nó được
coi là ít phân biệt chủng tộc hơn và không được coi là khuyến khích
sự lười biếng như cách mà các xă hội châu Âu vẫn tin tưởng. Nhận
thức đó tồn tại trong những người c̣n nhớ những năm đầu tái định cư.
Hashi Shafi, một nhà hoạt động cộng đồng ở Minneapolis, cho biết: “Ở
đó, họ không gọi bạn là người nhập cư, họ gọi bạn là người nước
ngoài. “Ở Mỹ, [người tị nạn] chỉ nhận được tám tháng phúc lợi. Điều
đó khiến nhiều người Somalia trở thành những người làm việc chăm
chỉ.”
Người Somalia vẫn
thắt chặt bất kể họ hạ cánh ở đâu. “Kết cấu xă hội rất mạnh,” Ahmed
Asmali, một doanh nhân và lănh đạo cộng đồng ở Eastleigh, trung tâm
thành phố Somali ồn ào của Nairobi, cho biết. “Nếu ai đó gửi 100 đô
la đến Ṭa tháp đôi,” anh ấy nói, nêu tên một khu chung cư gần đó,
“số tiền đó sẽ được chia cho 100 người.”
Do tính đặc thù
của ngôn ngữ và văn hóa Somali, sức mạnh của mối quan hệ gia đ́nh và
thị tộc, và cú sốc mất quê hương vẫn c̣n vang vọng, các trung tâm
hải ngoại không cảm thấy quá xa nhau về mặt địa lư. Họ cũng không
cảm thấy xa Somali, ngay cả khi Mogadishu cách xa nửa hành tinh.
Yussuf Hasan Abdi, thành viên quốc hội của Eastleigh, nói rằng
Nairobi có những nơi lui tới cụ thể cho các phe phái chính trị, nhà
hàng và hành lang khách sạn của Somali, nơi những người ủng hộ một
đảng hoặc nhân vật chính trị nhất định tụ tập. Đây là đặc điểm của
các trung tâm hải ngoại khác, kể cả ở Hoa Kỳ. “Nó ở khắp mọi nơi —
ngay cả ở Minnesota và ở London, nó được vạch ra chính xác,” Abdi
nói với tôi khi tôi gặp anh ấy ở Nairobi vào năm 2019. “Đó là tấm
gương phản chiếu các vấn đề của Somalia.”
Phụ nữ Somali học
tại Học viện Quốc tế Minnesota ở St. Paul, 2000
Phụ nữ Somali học
tại Học viện Quốc tế Minnesota ở St. Paul, 2000 JOEY MCLEISTER/STAR
TRIBUNE QUA GETTY IMAGES
Trước vụ tấn công
11/9, khiến người Mỹ theo đạo Hồi thuộc mọi thành phần phải thức
tỉnh chính trị, người Somalia ở Minnesota có “tâm lư vali”, Shafi
nói - một niềm tin ngầm rằng nước Mỹ không phải là ngôi nhà lâu dài
của họ. Ngay cả bây giờ, những người từ các khu vực hoặc thị tộc
khác nhau có xu hướng gắn bó với trung tâm đời sống cộng đồng của
riêng họ ở Minneapolis: The Ogaden có trung tâm mua sắm gần Đại lộ
Chicago và Phố 24; Hawiya có Karmel Mall lớn hơn cách đó một dặm, và
Majeerteen có Starbucks đồ sộ ở Cedar-Riverside, bên cạnh một trung
tâm mua sắm của riêng họ.
Karmel Mall là
một công ty khổng lồ bốn tầng thuộc sở hữu của Basim Sabri, một nhà
phát triển người Mỹ gốc Palestine và là một trong những người ủng hộ
hàng đầu của Omar tại địa phương; vào một ngày điển h́nh, các công
ty du lịch, cửa hàng tạp hóa, quầy chuyển tiền, quán cà phê, cửa
hàng y học cổ truyền và nhà thờ Hồi giáo là nơi giải trí đáng tin
cậy ở những nơi cách xa hàng ngh́n dặm. Các trung tâm mua sắm có ít
cửa sổ; chỉ người Somalia có xu hướng đến với họ.
Chiến tranh kéo
dài trong cộng đồng người Somali, theo những cách thường vô h́nh.
Trước khi trở thành một nhà giáo dục và tác giả, Ahmed Yusuf là một
nhân viên xă hội, người thường hỗ trợ những người tị nạn Somali ở
Minnesota, nhiều người trong số họ vẫn đang phải đối mặt với chấn
thương của cuộc xung đột. Anh ta cực kỳ nghi ngờ một số người trong
số họ đă phạm tội ác ở Somalia. “Tôi có thấy một người nào nói rằng
họ đă giết bất kỳ ai không? Không. ... Bản thân tôi có đối đầu với
ai không? KHÔNG." Dù sao th́ đối đầu cũng có thể không mang tính xây
dựng. Như Yusuf lưu ư, “Cuối cùng, mọi người đều trở thành nạn nhân
lúc này hay lúc khác.” Kết quả là, người Somalia ở Minnesota có
“kiểu tính cách lưỡng cực” muốn bỏ lại quá khứ nhưng không bao giờ
cho phép vết thương của ḿnh lành hẳn.
Tại London năm
2019, Fatima Hagi, một nhà tổ chức Tuần lễ Somali ở London năm đó,
cũng có những phản ánh tương tự. Tôi đă nói chuyện với cô ấy ngay
sau buổi biểu diễn vở kịch có tựa đề Home tại sự kiện năm đó, vở
kịch khám phá mối quan hệ giữa ba phụ nữ Anh Somali trẻ tuổi, thế hệ
thứ nhất, những người không bao giờ hoàn toàn thoải mái trong gia
đ́nh hoặc xă hội của họ nói chung. Hagi nói: “Chúng tôi có thái độ
không lo lắng về mọi thứ, hạnh phúc khi được sống, biết ơn. “Chúng
tôi không dành một chút thời gian để thừa nhận nỗi đau mà tất cả
chúng tôi mang theo.”
Cộng đồng
Minnesota Somali tạo nên sự khác biệt so với các trung tâm khác của
cuộc sống cộng đồng người di cư thông qua việc nhanh chóng đạt được
ảnh hưởng chính trị. Ibrahim Hirsi, Ph.D. ứng cử viên nghiên cứu
lịch sử nhập cư tại Đại học Minnesota. “Điều đă mang cộng đồng này
đến đây là chính trị—theo một cách nào đó, chính trị bị phá vỡ.”
Bước đột phá
chính trị ban đầu đối với cộng đồng người Somali ở Minnesota diễn ra
vào năm 2010 khi Hussein Samatar giành chiến thắng trong cuộc đua
vào hội đồng trường học Minneapolis, trở thành quan chức dân cử
người Somali đầu tiên của thành phố. Cuộc bầu cử của Abdi Warsame
vào Hội đồng thành phố năm 2013 thậm chí c̣n là một dấu hiệu sống
động hơn về sức mạnh ngày càng tăng của cộng đồng và sự tiến bộ mà
nó thể hiện.
Với tư cách là
những chủ doanh nghiệp nhỏ hướng về gia đ́nh và tôn giáo, những
người gần đây đă phải làm việc cực nhọc dưới chế độ độc tài xă hội
chủ nghĩa, người Somalia đương nhiên là một khu vực bầu cử của Đảng
Cộng ḥa, ít nhất là trên giấy tờ. Trên thực tế, bên ngoài Florida,
có rất ít cộng đồng thiểu số thành thị thuộc bất kỳ nguồn gốc chủng
tộc hoặc sắc tộc nào ở Hoa Kỳ hầu như không hoàn toàn ủng hộ Đảng
Dân chủ — Đảng Cộng ḥa không liên quan ở quy mô địa phương ở
Minneapolis, trong khi đảng quốc gia được coi là, và vẫn được nhiều
người coi là một doanh nghiệp dành riêng cho người da trắng và theo
đạo Thiên chúa. Người Somalia đă trở thành một ngoại lệ tiềm năng
trong liên minh Đảng Dân chủ địa phương: Một cộng đồng gồm những
người tị nạn chiến tranh Hồi giáo bảo thủ về mặt tôn giáo với những
nhu cầu và giá trị riêng của họ.
Người Somalia
nhanh chóng trở thành một trong số những đảng viên Đảng Dân chủ
nhiệt t́nh nhất ở Minnesota, một phần v́ đảng địa phương được cấu
trúc theo hướng phân bổ sự bảo trợ - giống như tất cả các hoạt động
chính trị có năng lực, bằng cách này hay cách khác - và sẵn sàng cho
phép người nhập cư thăng tiến trong hàng ngũ của đảng. Các địa điểm
họp kín ở Cedar-Riverside, khu vực lân cận phía đông nam Minneapolis
có khu phức hợp nhà ở công cộng cao tầng, nơi nhiều người Somalia
định cư, từ chỗ có vài chục người tham gia vào đầu những năm 90 đến
vài trăm người trong 20 năm sau. Một trong những công việc t́nh
nguyện đầu tiên của Omar trong lĩnh vực chính trị là đưa người
Somalia đi bầu cử: Năm 2012, cô trở thành lănh đạo cuộc họp kín
người Somalia của Đảng Lao động Nông trại Dân chủ Minnesota (DFL),
chi nhánh cấp bang của Đảng Dân chủ. AK Hassan, hiện là thành viên
của ủy ban công viên Minneapolis,
Cô ấy đă để mắt
đến một sự nghiệp trong chính trị. Vào năm 2012, một nhà hoạt động
cộng đồng tên là Habon Abdulle bắt đầu tổ chức các cuộc họp của
những phụ nữ quan tâm đến việc tham gia vào quá tŕnh chính trị, các
cuộc tụ họp mà Shafi nói đă được tổ chức tại văn pḥng của anh ta.
Có khoảng nửa tá người tham dự thường xuyên, một nhóm nhỏ và nghiêm
túc bao gồm Omar, một sinh viên mới tốt nghiệp Đại học Bang North
Dakota, lúc đó mới ngoài 30 tuổi.
Gần một thập kỷ
trước, trong những ngày đầu tiên Omar c̣n là người của công chúng,
Đảng Dân chủ Minnesota và nhà hoạt động cộng đồng người Somali,
Mohamed Amin Kahin, nhớ đă nh́n thấy cô ở khắp mọi nơi. “Không một
sự kiện nào trong cộng đồng Somali mà cô ấy không tham dự. Cô ấy
đang tự chuẩn bị,” Kahin nhớ lại. Cô ấy đă ḥa nhập, làm quen với
mọi người. Cô ấy biết mọi người nắm giữ một số quyền lực nhỏ trong
cộng đồng. Cô ấy biết ai ủng hộ ḿnh, ai không.”
Đồng thời, Omar
tham gia vào chương tŕnh DFL tại địa phương của cô ấy. Sau khi tham
dự một cuộc họp kín vào năm 2012, cô đă lọt vào mắt xanh của một
nhóm các nhà hoạt động đang t́m cách thay thế phó giám đốc của Quận
Thượng viện Tiểu bang thứ 59 của DFL. Họ không biết Omar là ai,
nhưng trong DFL, điều đó không phải lúc nào cũng quan trọng. Đảng
Dân chủ của Minnesota là sự trở lại của một kỷ nguyên dân chủ Hoa Kỳ
có nhiều người tham gia hơn và ít tham nhũng hơn, và không có ǵ lạ
khi tổng số người mới gia tăng nhanh chóng. Một trong những nhà hoạt
động đă tuyển dụng Omar cho biết: “Theo những ǵ tôi biết, cô ấy
thậm chí c̣n không biết ư nghĩa của việc trở thành phó chủ tịch
quận. Sau đó, họ đă gặp cô ấy để giải thích vị trí và đánh giá sự
quan tâm của cô ấy. “Thực sự là quanh đây không ai biết cô ấy cho
đến khi chúng tôi giới thiệu cô ấy tại hội nghị quận thượng viện.”
Công việc của DFL
đă thu hút sự chú ư của một trợ lư cho ứng cử viên Hội đồng Thành
phố 28 tuổi tên là Andrew Johnson, một kỹ sư hệ thống của Target.
Hoạt động như một người cấp tiến, anh ấy đặt mục tiêu trở thành thế
hệ thiên niên kỷ đầu tiên được bầu vào hội đồng và đă thuê Omar làm
người quản lư chiến dịch của ḿnh vào đầu năm 2013. Omar đă từng làm
điều phối viên tiếp cận cộng đồng về dinh dưỡng cho Bộ Giáo dục
Minnesota, và vị trí của cô ấy là người quản lư chiến dịch của
Johnson, trong đó cô ấy tổ chức một chiến dịch gơ cửa đầy tham vọng
và chắc chắn sẽ chiến thắng, là công việc quan trọng đầu tiên của
Omar trong lĩnh vực chính trị. Sau đó, cô được thuê làm trợ lư chính
sách của Johnson tại Ṭa thị chính.
Omar không chỉ
muốn trở thành một nhân viên của Hội đồng Thành phố. Trong cuốn hồi
kư của ḿnh, cô ấy viết rằng cô ấy sợ “mất quyền tự chủ khi làm việc
cho một quan chức dân cử.” Trong thực tế, cô có chút lo lắng về.
Johnson biết rằng Omar đă từng là người tham gia các chiến dịch địa
phương và mong đợi cô ấy sẽ tiếp tục là một người ngay cả khi là phụ
tá của Ṭa thị chính. “Thật tốt khi nhận thức được những rắc rối có
thể phát sinh,” Johnson nói với tôi vào cuối năm 2019. “Nhưng bạn
biết đấy, cô ấy được tự do.”
Vào năm 2016,
Preya Samsundar, khi đó là phóng viên của Alpha News và hiện là nhân
viên truyền thông của GOP, đă phát hiện ra rằng Ahmed Hirsi, cha của
những đứa con của Omar, đă liệt kê một địa chỉ trên đơn đăng kư kinh
doanh năm 2009 giống hệt với địa chỉ mà Omar và một người đàn ông
tên là Ahmed Nur Cho biết Elmi đă sử dụng trên giấy đăng kư kết hôn
của họ ba tháng trước đó. Điều này cho thấy rằng Ahmed Hirsi đă có
lúc sống hoặc làm việc tại một địa chỉ mà Omar đă chia sẻ với người
thứ hai, Elmi, người vào thời điểm đó là chồng hợp pháp của cô. Giấy
chứng nhận kết hôn mà Samsundar có được dường như cho thấy đám cưới
của Elmi và Omar được tiến hành bởi một mục sư Tin lành.
Hirsi gặp Omar
vào cuối những năm 1990, khi cô c̣n ở tuổi thiếu niên. Trong cuốn
hồi kư của ḿnh, Omar viết rằng cô và Hirsi đă đăng kư kết hôn tại
Hạt Hennepin của Minnesota vào năm 2002 nhưng chưa bao giờ thực sự
được cấp giấy đăng kư kết hôn. Như Omar giải thích sau này, họ tổ
chức đám cưới theo truyền thống Hồi giáo vào năm đó và sau đó kết
thúc cuộc hôn nhân vào năm 2008—“truyền thống” trong trường hợp này
có nghĩa là một cuộc hôn nhân không có đăng kư hoặc tư cách pháp
nhân. Omar và Hirsi có đứa con thứ ba vào năm 2012, khi Omar vẫn c̣n
kết hôn hợp pháp với Elmi, người mà cô ấy đă không ly hôn hợp pháp
cho đến năm 2017. Trên hơn chục bức thư chia buồn công khai từ các
thành viên của cộng đồng người Somali Thành phố đôi do David
Steinberg chọn lọc — một số chúng từ những người ủng hộ nổi bật của
Omar's—Elmi là họ của người cha quá cố của cô, Nur Said.
Những cái họ
giống hệt nhau có thể là ngẫu nhiên, nhưng chúng cũng tạo điều kiện
thuận lợi cho tuyên bố từng được lan truyền rộng răi rằng Omar kết
hôn với anh trai cô, có lẽ để giúp anh ta có được thẻ xanh của Hoa
Kỳ, điều này sẽ vi phạm luật nhập cư của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, việc
thực thi bất kỳ tội ác nào mà Omar có thể đă phạm phải khi kết hôn
với Elmi sẽ là một sự chọn lọc không công bằng. Cơ hội để có được
quốc tịch Hoa Kỳ, giống như bất kỳ nguồn tài nguyên khan hiếm nào
khác, là đối tượng thường xuyên của hành vi gian lận tiềm ẩn và rất
thường không bị trừng phạt, kể cả đối với những người tị nạn: Năm
2008, Hoa Kỳ tạm dừngmột chương tŕnh nhằm đoàn tụ gia đ́nh của
những người tị nạn Đông Phi khi xét nghiệm DNA cho thấy một tỷ lệ
lớn những người mới đến trên thực tế không có quan hệ họ hàng với họ
ở Mỹ. Trong mọi trường hợp, Hirsi và Omar kết hôn hợp pháp vào năm
2018, ngay sau khi cô ly hôn với Elmi, sau đó ly hôn vào cuối năm
2019 trong bối cảnh có tin Omar đang có mối quan hệ với Tim Mynett,
người đứng đầu đă kết hôn của E Street Group, một công ty tư vấn
chính trị nhận được 2,9 đô la triệu đô la giải ngân từ chiến dịch
tranh cử quốc hội năm 2020 của Omar, chiếm khoảng 51% trong số hơn
5,6 triệu đô la chi tiêu bầu cử của cô ấy, theo hồ sơ có sẵn trên
trang web của Ủy ban Bầu cử Liên bang. Mynett hiện là chồng của
Omar. (Theo trang web của FEC, công ty tư vấn nhận được phần lớn chi
tiêu liên quan đến tiếp cận và quảng cáocho chiến dịch năm 2022 của
Omar là Authentic, một công ty do Mike Nellis, cựu cố vấn cấp cao
cho chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2020 thất bại của Phó Tổng
thống Kamala Harris đứng đầu.)
Đến giữa năm
2020, có một bộ phận ủng hộ Hirsi đáng chú ư trong cộng đồng người
Mỹ gốc Somali ở Minnesota đă ghi công Hirsi, chồng cũ hiện tại của
Omar, với toàn bộ sự nghiệp chính trị của cô ấy. T́nh cảm địa phương
phổ biến đáng ngạc nhiên này là bảo trợ cho Omar, nhưng phù hợp với
quan điểm chung của những người Somalia ở Minneapolis, London và
Kenya rằng Hirsi đă từng là một người thúc đẩy và gây chấn động cộng
đồng, một người muốn trở thành người dàn xếp chính trị và là người
hướng đến mục tiêu trở thành một nhân vật có tầm cỡ. ở Somalia, nơi
các chính trị gia sử dụng Minneapolis như một nguồn tài trợ giống
như các nhà lănh đạo Israel sử dụng New York và Los Angeles.
Hirsi đă làm việc
với tư cách là một nhà hoạt động với Kajoog, một tổ chức văn hóa và
dịch vụ cộng đồng của người Somali ở Minneapolis, cho đến khi có sự
chia rẽ gay gắt vào năm 2014. Một số người coi Hirsi nói chung là
ủng hộ người Somali, không có bất kỳ liên minh chính trị hay gia tộc
quan trọng nào. Trong 11 năm, Hirsi cũng làm giao dịch viên ngân
hàng với Wells Fargo, một trong số các tổ chức tài chính hoạt động ở
khu vực Minneapolis đă bị buộc phải ngừng chuyển tiền đến Somalia
vào đầu những năm 2010 trong bối cảnh chính phủ Hoa Kỳ lo ngại về
tài trợ khủng bố. Đến năm 2013, người Mỹ gốc Somali đă gửi 208 triệu
đô la mỗi năm dưới dạng kiều hối trên sổ sách đến Somalia; không có
hệ thống ngân hàng Twin Cities có thể tạo điều kiện thuận lợi cho
việc chuyển tiền này, người Somalia trong khu vực bắt đầu gửi tiền
mặt đến đất nước trong vali .
Hoạt động tích
cực của Hirsi thường đưa anh ta ra ngoài Thành phố đôi. Anh ấy đă
cùng Kajoog đến Kenya, gặp Tổng thống Somali Hassan Sheikh ở DC và
tham dự một diễn đàn dành cho cộng đồng người Somali hải ngoại toàn
cầu được tổ chức tại Istanbul vào năm 2014, một sự kiện do chính phủ
Thổ Nhĩ Kỳ đồng tài trợ. Là một trong những thành viên trẻ đáng chú
ư của thành phố thuộc gia tộc Hawiya, Hirsi có tiềm năng sử dụng cho
các thành viên gia tộc hoạt động chính trị đến thăm Thành phố đôi,
bao gồm cả Tổng thống Somalia lúc bấy giờ là Hassan Sheikh, người đă
giành lại chức vụ tổng thống vào tháng 5 năm 2022. “Khi Hassan
Sheikh đến , anh ấy đă liên lạc với bộ tộc của ḿnh ở đây,” một nhà
hoạt động chính trị người Mỹ gốc Somalia lâu năm ở Minneapolis cho
biết. “Hirsi là một trong những t́nh nguyện viên.” Dưới sự hướng dẫn
của Hashi Shafi, Hirsi đă làm việc trong một ủy ban chào đón Sheikh
đến Minneapolis và sắp xếp chỗ ở cho tổng thống và đoàn tùy tùng của
ông.
Cũng tham gia vào
bữa tiệc chào mừng của Sheikh c̣n có một nhà hoạt động thông minh và
ham học hỏi, đồng thời là nhân viên của Hạt Hennepin tên là Mohamed
Keynan, người được biết đến ở cả địa phương và trong số những người
Somali hải ngoại gắn bó với tư cách là người ủng hộ cho Puntland,
một trong những khu vực tự trị của Somalia đă từng được thành lập.
bị khóa trong mối quan hệ gay gắt với chính quyền trung ương đang
thất bại của đất nước, và là nơi trở thành tâm điểm của các nỗ lực
của Lầu Năm Góc ở vùng Sừng châu Phi trong bối cảnh sự trỗi dậy của
al-Shabab và các phong trào thánh chiến khác.
Keynan kết hôn
với Sahra Noor, chị gái của Omar. Cùng với bố vợ, Nur Said, Keynan
là một trong 35 người kư ban đầu vào tuyên bố năm 2012 ủng hộ quyền
tự trị của Jubaland. Đến năm 2015, anh làm việc cho Tổng thống
Sheikh với tư cách là quan chức truyền thông cấp cao. Có thể lần đầu
tiên anh ấy được chính phủ Somalia chú ư thông qua Talo iyo Tusaale,
một Tập đoàn Google, hiện hầu như không hoạt động, với hơn 1.000
thành viên, nơi những người Somalia từ khắp nơi trên thế giới tụ tập
để nói chuyện chính trị. Listserv là một trong những cơ sở tuyển
dụng được biết đến của giới tinh hoa Somali cho các tài năng chính
trị tiềm năng—cái tên này tạm dịch là “lời khuyên và tấm gương”. Có
những kênh khác như vậy dành cho người di cư, đặc biệt là ở
Minnesota. Diễn đàn Fagaaraha, nơi tổ chức các cuộc thảo luận về các
vấn đề chính trị của Somali tại Thành phố đôi, được thành lập bởi
một bộ trưởng lao động tương lai của Somali và được theo dơi chặt
chẽ ở Đông Phi. “Mọi người xây dựng sự nổi tiếng thông qua nó,” một
nguồn tin Somali có trụ sở tại Nairobi nói về Fagaaraha. "Đó là một
cửa ngơ vào chính trị."
Mohamud Noor,
trong chiến dịch tranh cử đại diện bang năm 2014 chống lại người
đương nhiệm 21 nhiệm kỳ
Mohamud Noor,
trong chiến dịch tranh cử đại diện tiểu bang năm 2014 chống lại
người đương nhiệm 21 nhiệm kỳ © RICHARD TSONG-TAATARII/MINNEAPOLIS
STAR TRIBUNE/ZUMA WIRE
Omar cũng hoạt
động tích cực trong cộng đồng Somali vào đầu những năm 2010. Một
nhân vật trong cộng đồng nhớ đă nh́n thấy cô ấy tham dự một buổi họp
mặt ủng hộ Jubaland vào năm 2011. Vài tháng sau cuộc tṛ chuyện của
chúng tôi vào cuối năm 2019, nguồn tin đă liên lạc lại với tôi để
thúc giục Tablet không nêu tên anh ấy. “Vui ḷng KHÔNG sử dụng tên
của tôi v́ tôi KHÔNG cần bất kỳ rắc rối nào từ nhóm này bởi [các
con] của tôi,” nguồn tin nhắn.
Sự nghiệp chính
trị của Omar sớm đặt cô vào một bên của đường đứt găy thế hệ người
Mỹ gốc Somalia. Cha mẹ là những người tị nạn chiến tranh nói tiếng
Somali, thường là những người bảo thủ về tôn giáo và xă hội coi nước
Mỹ là nơi trú ẩn cứu cánh khỏi cơn ác mộng sống, đă nuôi dạy những
đứa trẻ nói tiếng Anh, có tư tưởng tự do, những người không hài ḷng
và thường hoài nghi về xă hội của chúng như bất kỳ ai khác ở độ tuổi
của chúng. ở Mỹ thế kỷ 21. Omar thuộc về tâm lư mới hơn này, được
nhiều người coi là “tiến bộ”. Những người cấp tiến nhấn mạnh bản sắc
Somali và Hồi giáo theo cách có thể mang những cạm bẫy của một chủ
nghĩa truyền thống được hồi sinh: H́nh ảnh duy nhất về mẹ của Omar
trong Time for Ilhancho thấy cô ấy không có khăn trùm đầu; con gái
của cô, người lớn lên trong một xă hội đa số theo đạo Cơ đốc và đa
số là người da trắng, đă quyết định bắt đầu đeo khăn trùm đầu như
một dấu ấn và sự khẳng định danh tính ở những nơi mà cô không phải
lúc nào cũng cảm thấy được chào đón, như Omar giải thích trong hồi
kư của ḿnh. Kinh nghiệm của Omar với tư cách là một người tị nạn
chiến tranh dường như cũng khiến cô ấy chỉ trích xă hội Mỹ đă che
chở cho cô ấy, mức độ biết ơn tương đối đối với nước Mỹ là một điểm
khác biệt giữa người Mỹ gốc Somalia trung niên và con cái của họ.
Trong hồi kư của
ḿnh, Omar minh họa khoảng cách thế hệ này bằng cách mô tả sự bất
đồng triết học kéo dài với cha cô. “Việc tôi có thể đội khăn trùm
đầu trên sàn Nhà hay không chỉ là sự lặp lại mới nhất của một cuộc
tranh luận dài giữa chúng tôi về hệ thống của Mỹ,” cô nói, đề cập
đến quy tắc 175 năm tuổi của cơ quan chống lại việc trùm đầu, đă bị
băi bỏ sau cuộc bầu cử của Omar, phần lớn nhờ vào nỗ lực của chính
cô ấy. Theo lời kể của Omar, cha cô đă ngây thơ về khả năng tự điều
chỉnh dần dần của một quốc gia rơ ràng là nhẫn tâm như vậy. “Aabe
tin rằng mọi thứ cuối cùng sẽ thành công cho tất cả những ai mong
muốn. Tôi đă nghĩ điều đó thật ngây thơ ngay từ khi tôi đến đất nước
này và nh́n thấy những người vô gia cư trên đường từ sân bay đến
Manhattan.”
Vào năm 2014,
Mohamud Noor, một người cấp tiến, đă quyết định tranh cử với Hạ nghị
sĩ bang Phyllis Kahn, khi đó là người đương nhiệm 21 nhiệm kỳ. Nếu
Noor đánh bại Kahn, anh ta sẽ trở thành nhà lập pháp bang người Mỹ
gốc Somalia đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ. Nhưng cuộc đua sẽ gây
chia rẽ trong cộng đồng Somali, nơi chủ nghĩa tiến bộ của Noor không
phải là một sự bán tự động. Quan trọng hơn, Kahn có sự hậu thuẫn
vững chắc của Nghị viên Thành phố Abdi Warsame, ngôi sao chính trị
lớn nhất của cộng đồng và là một người tương đối ôn ḥa được các cử
tri lớn tuổi và chủ doanh nghiệp ủng hộ rộng răi. Một cuộc ẩu đả
được cho là đă nổ ra tại một cuộc họp kín ngày 4 tháng 2 năm 2014 ở
Cedar-Riverside mà Omar tham dự—cảnh sát đă được gọi đến hiện
trường, mặc dù một tài khoản chi tiếttừ MinnPost nói rằng không có
vụ bắt giữ nào được thực hiện. Omar tuyên bố cô ấy đă bị tấn công và
bị chấn động, những cáo buộc mà cô ấy lặp lại trong cuốn sách của
ḿnh. Cô ấy cũng cáo buộc Warsame đe dọa cô ấy bằng bạo lực thể xác
trong cuộc điện thoại trước cuộc họp kín với Johnson, một tuyên bố
dẫn đến một cuộc điều tra nội bộ không có kết quả tại Ṭa thị chính.
(Cảnh sát St. Paul sau đó đă được gọi đến để điều tra vụ việc họp
kín v́ lo ngại vụ việc mang tính chính trị quá lớn khiến cơ quan
thực thi pháp luật Minneapolis không thể xử lư. Không có cáo buộc
nào được đưa ra.) Omar giải thích vai tṛ của cô tại cuộc họp kín là
"trung lập"; mặc dù vậy, cô ấy vẫn tiếp tục trở thành cố vấn cho
Noor sau này trong cuộc đua. (Warsame, trong khi đó, hiện không tham
gia chính trị bầu cử — ông được bổ nhiệm làm người đứng đầu Cơ quan
quản lư nhà ở công cộng Minneapolis vào năm 2020.)
Vụ nổ công khai
đáng chú ư khác liên quan đến Omar trong cuộc đua năm 2014 mà Noor
đă thua, liên quan đến lời kêu gọi trần trụi đối với bản sắc dân tộc
Somali. Vào ngày 27 tháng 6 năm 2014, tại một địa điểm bỏ phiếu vắng
mặt ở Ṭa thị chính Minneapolis, nhiều người nói tiếng Somali đă
nghe lỏm được một thẩm phán bầu cử hỏi cử tri ở Somali rằng liệu họ
có đến đó để bỏ phiếu cho “người anh em Somali,” tức là Noor, hay
“người cũ”. Quư cô Do Thái,” Phyllis Kahn.
Theo các bản khai
có tuyên thệ đệ tŕnh lên Ṭa án tối cao bang Minnesota, Omar, lúc
đó là một trong những cố vấn hàng đầu của Noor, đă có mặt tại hiện
trường để trao đổi với thẩm phán bầu cử đang được đề cập. “Tôi cũng
quan sát thấy bà Yusuf giao tiếp với Ilhan Omar,” Mohamed Jama, một
người ủng hộ Kahn, người đang làm thông dịch viên cho các cử tri
Somali lớn tuổi, cho biết trước ṭa. “Ilhan Omar là người ủng hộ
Mohamud Noor. Omar cũng đang đưa mọi người đến bỏ phiếu tại Ṭa thị
chính giống như tôi. Tôi thấy Omar hét lên hướng dẫn cho cô Yusuf
trong khi Yusuf đang hỗ trợ mọi người bỏ phiếu.” Michael Molzahn,
một người ủng hộ Kahn khác, cho biết trong bản khai có tuyên thệ của
ḿnh rằng Omar đă nhiều lần cố gắng ngăn cản Jama làm thông dịch
viên cho một cử tri cụ thể, người cuối cùng đă thất vọng rời khỏi
khu vực bỏ phiếu. “Omar không chỉ đứng và lảng vảng; cô ấy được phép
xen vào cuộc tṛ chuyện hai lần với người đàn ông lớn tuổi khi đứng
ở khu vực bỏ phiếu mà không cần hỗ trợ cử tri,” bản khai có tuyên
thệ của Molzahn viết. “Omar đă tương tác với cử tri mặc dù cử tri
không yêu cầu rơ ràng để cô ấy hỗ trợ anh ta.”
Chiến dịch tranh
cử của Kahn đă kiến nghị yêu cầu cách chức thẩm phán bầu cử, mặc
dù cô ấy đă được bổ nhiệm lại trước khi vụ việc được đưa ra ṭa án.
Ṭa án đă bác bỏ lập luận của thành phố Minneapolis rằng họ không có
thẩm quyền quyết định nhân sự bầu cử địa phương, một phán quyết về
cơ bản giải quyết vấn đề có lợi cho Kahn.
Không có ǵ trong
số này—vụ tấn công bị cáo buộc, việc Omar tham gia vào chiến dịch
thua cuộc của Noor, đối thủ sắp trở thành đối thủ của cô, các bi
kịch tại Ṭa thị chính và Ṭa án Tối cao của bang—được đưa vào Time
for Ilhan , hoặc vào hồ sơ của Omar đăng trên Minneapolis' City
Pages , The Washington Post , hay thậm chí là The New York Times .
Vụ kiện của Ṭa án Tối cao bang hoàn toàn không được nhắc đến trong
hồi kư của cô ấy. Việc đưa tin về thời kỳ đầu sự nghiệp của Omar có
xu hướng làm lu mờ một thực tế quan trọng: Cô ấy là một người sống
sót sau cú huưch chính trị trước khi tự ḿnh ra tranh cử.
Video bắt đầu
chiến dịch tranh cử vào Hạ viện của bang vào tháng 11 năm 2015 của
Omar chống lại Phyllis Kahn cho thấy một căn pḥng trống một nửa ở
Cedar-Riverside và khán giả gần như hoàn toàn là người Somali. Những
món quà chính trị của Omar đă được thể hiện trong bài phát biểu ra
mắt của cô ấy, trong số đó có tài năng của cô ấy trong việc nói
những ranh giới phân chia thành tồn tại. “Bà ấy là một người theo
chủ nghĩa tự do tuyệt vời,” Omar nói về Kahn đương nhiệm, một lời
khen hết sức thô lỗ. “Có ai trong số các bạn biết định nghĩa của một
người tự do là ǵ không? Trở thành một người tự do đối với tôi là
cởi mở với những ư tưởng mới. Nhưng bạn có biết định nghĩa của tiến
bộ là ǵ không? Nó đang hành động dựa trên những ư tưởng mới đó. Đó
không phải là điều tất cả chúng ta muốn sao? Đó không phải là những
ǵ tất cả chúng ta cần? Tôi muốn tiến bộ. Tôi tiến bộ.”
Các bài phát biểu
sau đó ám chỉ đến hai lực lượng đă tạo nên sự nghiệp chính trị ban
đầu của Omar, đó là cộng đồng Somalia và tổ chức tiến bộ. Habon
Abdulle nói bằng tiếng Somali trong khoảng 10 phút. Abdulle sẽ không
chỉ trở thành một người cố vấn: Trên biểu mẫu 990 năm 2018 cho tổ
chức Phụ nữ Tổ chức Phụ nữ của Abdulle, Omar được liệt kê là nhận
9.300 đô la với tư cách là giám đốc chính sách của nhóm; Abdulle là
khách của Omarcho Thông điệp Liên bang năm 2019. Sau đó, Joelle
Stangler, sinh viên năm cuối Đại học Minnesota và là chủ tịch hội
sinh viên, phát biểu bằng tiếng Anh. Stangler cho biết bản thân cô
đă cân nhắc việc chống lại Kahn, cho đến khi một cuộc tương tác ngắn
ngủi nhưng rực rỡ với Omar khiến cô thay đổi quyết định. Trong bài
phát biểu, Stangler kể lại rằng ngay sau cuộc gặp gỡ định mệnh đó,
cô ấy đă nói với người bạn cùng pḥng của ḿnh rằng: “Tôi không
những không muốn bỏ chạy mà c̣n muốn toàn lực ủng hộ Ilhan 100%.
Mặc dù Stangler
chưa bao giờ chính thức phụ trách chiến dịch năm 2016 của Omar,
nhưng nhiều nguồn tin, bao gồm cả Phyllis Kahn, đă xác định cô ấy là
phụ tá quan trọng nhất của Omar trong suốt cuộc đua. Theo một nguồn
tin của Đảng Dân chủ nhớ lại, Stangler là người “có khả năng phân
tích thực sự sâu sắc về lĩnh vực này”. Cô ấy đă trở thành giám đốc
lĩnh vực Minnesota cho chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2020 của
Bernie Sanders, đồng thời cũng từng là giám đốc chính trị cho Take
Action, một nhóm hoạt động tổ chức thay mặt cho các ứng cử viên tiến
bộ ở Twin Cities. Trong cuộc đua đầu tiên của Omar, chàng trai 22
tuổi khi đó đă giúp huy động sự ủng hộ trong khuôn viên Đại học
Minnesota, t́m ra những lá phiếu quyết định cho cuộc bầu cử sơ bộ
được tổ chức vào tháng 8, khi lớp học đă nghỉ học.
Cuộc đua năm 2016
giữa Omar với Noor và Kahn là cuộc đụng độ giữa quá khứ của Đảng Dân
chủ và một trong những tương lai có thể có của nó. Kahn, người đương
nhiệm, là một tiến sĩ vật lư sinh học Yale 79 tuổi rất tự do. người
từng là nhà hoạt động v́ quyền của phụ nữ vào những năm 70, đă đi
đầu trong việc ban hành lệnh cấm hút thuốc trong nhà đầu tiên của
đất nước, đồng thời ủng hộ các nguyên nhân như hạ thấp tuổi bầu cử
và hợp pháp hóa sản xuất cây gai dầu công nghiệp. Cô ấy là một người
Do Thái sinh ra ở Brooklyn hiếu chiến với thành tích đạt được trong
nhiều thập kỷ; người thách thức, một người Hồi giáo trẻ gốc Phi
trong lần đầu tiên tranh cử vào chức vụ dân cử. “Bạn muốn một nhà
lập pháp có uy tín hay bạn muốn một biểu tượng? Câu trả lời là,
chúng tôi muốn có một biểu tượng,” ứng cử viên bị đánh bại, Phyllis
Kahn, tóm tắt trận đấu của họ trong một cuộc phỏng vấn với Tablet
vào mùa đông năm 2019. Kahn nhớ đó là một cuộc thi khá tôn trọng.
'Có điều ǵ đó tự
phóng đại về sự nhấn mạnh của Ilhan Omar đối với sự phản bội của
người Mỹ gốc Somali.'
Omar vào ngày bầu cử tiểu bang năm 2016 tại Minneapolis.
'Có điều ǵ đó tự
phóng đại về sự nhấn mạnh của Ilhan Omar đối với sự phản bội của
người Mỹ gốc Somali.' Omar vào ngày bầu cử tiểu bang năm 2016 tại
Minneapolis. STEPHEN MATUREN/AFP QUA GETTY IMAGES
Thời gian dành
cho Ilhan làm suy yếu đánh giá như vậy. Trong một cảnh, Omar báo cáo
những cuộc tấn công mới nhất của Kahn nhằm vào cô với sự hoài nghi
gần như choáng váng. “Phyllis nói rằng khăn quàng cổ của tôi trở nên
mềm hơn, quần jean của tôi chật hơn và da tôi sáng hơn,” Omar thông
báo. Những bức ảnh cắt ngắn cho nhân viên trẻ của cô ấy cho thấy vẻ
kinh hoàng và bối rối. Bằng chứng duy nhất Kahn từng nói đây là
chính bộ phim. Khi được đưa ra b́nh luận vào tháng 1 năm 2020, cựu
nhà lập pháp đă phủ nhận việc chưa từng đưa ra tuyên bố này và nói
rằng cô ấy không biết rằng cáo buộc đó xuất hiện trong phim cho đến
khi tôi thông báo cho cô ấy. Kahn nói: “Tôi chắc chắn không nói điều
đó. “Đó không phải là điều tôi sẽ nói.” Lời vu khống được cho là cố
chấp này từ một quan chức dân cử quyền lực và đối thủ bầu cử không
xuất hiện trong cuốn tự truyện của Omar.
Trong khi Kahn và
Omar thỉnh thoảng xung đột, chẳng hạn như trong một cuộc tranh luận
ngắn trên Đài phát thanh công cộng Minnesota, trong cuốn hồi kư của
ḿnh, Omar dành sự gay gắt nhất của ḿnh cho Noor, người đột ngột
chuyển từ một người mang tiêu chuẩn tiến bộ sang đại diện cho một
“cơ sở Somalia” mờ ám. Trong cuốn sách, kẻ thù ghê gớm nhất của Omar
không phải là vận động hành lang ủng hộ Israel, Nancy Pelosi, hay
thậm chí là Donald Trump. Thay vào đó, nó là một mối quan hệ của
những người môi giới quyền lực Somali địa phương, những ông già được
mô tả như thể họ là một hội nghị bàn tṛn của những tên trùm Mafia.
Cô ấy viết rằng một nhóm “những người lớn tuổi của cộng đồng
Somali”, những người đều ủng hộ Noor, đă cố gắng đe dọa cha cô ấy để
khiến cô ấy bỏ cuộc đua năm 2016. Những người đàn ông giải thích
rằng “họ định dùng mọi nguồn lực để chống lại tôi nếu tôi khăng
khăng tiếp tục bỏ chạy. Cha cũng đừng tính chuyện trở về kêu oan sau
này con bị xa lánh. "Đây là lời cảnh báo của bạn," trưởng lăo nói.
'Sẽ không có cái nào khác.' ... Những người lớn tuổi đă giữ lời và
một chiến dịch bôi nhọ khủng khiếp đă lan rộng khắp cộng đồng
Somalia.”
Theo lời kể của
Omar, những người Mỹ gốc Somali ở Minneapolis dễ dàng bị thao túng
bởi nhóm lănh chúa tóc bạc này. Cô viết: “Ư tưởng rằng tôi là một
người Qatar trong chính phủ ít rùng rợn hơn nhiều so với các video
của người Somali mà tôi đang nói nhưng thay v́ giọng nói của tôi,
những âm sắc đàn ông quỷ quyệt phát ra từ miệng tôi. Cô ấy báo cáo
rằng người Somalia đă lan truyền tin đồn về một mối quan hệ đồng
tính nữ bí mật và tuyên bố rằng những đứa con của Omar không phải là
con của cô ấy. Omar tin rằng cuộc tranh căi về nhiều cuộc hôn nhân
bị cáo buộc của cô ấy bắt đầu như một phần của âm mưu xă hội đen
này, và do đó bắt nguồn từ chính cộng đồng của cô ấy. “Đây là điều
mà cơ sở Somalia - người từng chống lại cuộc bầu cử của tôi - đă
tính đến: rằng mức độ ám ảnh và hoảng loạn trong cộng đồng sẽ là quá
lớn đối với gia đ́nh tôi.”
Có điều ǵ đó tự
phóng đại về việc cô ấy nhấn mạnh vào sự phản bội của người Mỹ gốc
Somalia, như thể chính các cuộc bầu cử lặp đi lặp lại và tấm gương
đạo đức sáng ngời của cô ấy đă minh chứng cho chủ nghĩa tiến bộ của
cộng đồng cô ấy và giải cứu nó khỏi những phần tử phản động nhất.
Tuy nhiên, những nỗ lực của Omar để tách ḿnh ra khỏi ḍng chính
được cho là ác ư trong cộng đồng của cô ấy không hoàn toàn đáng tin
cậy, v́ chồng và anh rể của cô ấy là những người tham gia khá cao
vào cuộc sống của người Somali ở Thành phố đôi và hơn thế nữa.
Các cuộc bầu cử
sơ bộ của DFL là một cuộc vượt chướng ngại vật ba ṿng bao gồm các
cuộc họp kín chọn đại biểu cho một hội nghị chứng thực trong đó một
ứng cử viên phải đạt ngưỡng 60% để nhận được dấu chấp thuận của DFL
trước cuộc bỏ phiếu sơ bộ thực sự. Omar có ấn tượng rằng Noor đă hứa
với những người ủng hộ anh ấy với cô ấy trong trường hợp có một hội
nghị chứng thực bị treo, trong đó Omar dẫn đầu nhưng không đạt được
60% ủng hộ. Trong Time for Ilhan , Omar mắng anh ta bằng tiếng
Somali trước cuộc bỏ phiếu cuối cùng: “Nếu bạn muốn đoàn kết cộng
đồng Somali, hôm nay là ngày,” phụ đề viết. Công ước kết thúc mà
không có sự chứng thực nào. Đó là thất bại bầu cử cuối cùng mà Omar
từng đối mặt.
Vào ngày 10 tháng
8 năm 2016, Omar đă giành chiến thắng trong cuộc bầu cử sơ bộ với
41% phiếu bầu. Cô ấy có thể đă không nhận được đa số sự ủng hộ của
người Somalia, vốn được chia cho ba ứng cử viên. Trong các cuộc đua
có nhiều đối thủ người Somali, sự ủng hộ đôi khi có thể bị phá vỡ
theo ḍng tộc: Người Darod, người bị ngược đăi một cách có hệ thống
trong những năm đầu của cuộc nội chiến, chiếm một phần lớn trong
cộng đồng Thành phố đôi và lẽ ra có thể bỏ phiếu cho cô ấy, trong
khi cuộc hôn nhân của Omar với Hirsi, một người Hawiya, đă giúp huy
động được sự ủng hộ từ một bộ phận quan trọng khác của dân số
Somalia trong khu vực. Tại lễ kỷ niệm chiến thắng của Omar, bị bắt
trong Time for Ilhan, một người ủng hộ đă giương cao lá cờ của
Ogaden, khu vực có đa số người Somali ở Ethiopia, nơi sinh sống của
một nhánh của tộc Darod. Nhưng chính những người cấp tiến da trắng
trẻ tuổi, thay v́ bỏ phiếu theo khối giữa những người Somalia, đă
đẩy cô đến chiến thắng.
Theo hồi kư của
cô, cộng đồng Somali, được nhân cách hóa trong Noor, đồng minh cũ
của cô, luôn chống lại cô ở mọi ngă rẽ. Một số vụ dàn xếp tỷ số vui
vẻ nhất của cuốn sách liên quan đến Noor và những người ủng hộ anh
ta. Noor đă được bầu vào ghế cơ quan lập pháp bang cũ của Omar vào
năm 2018, nhưng theo cách nói của Omar, chiến thắng này chỉ khiến
nỗi nhục nhă mà cô đă gặp phải với anh ta hai năm trước đó trở nên
vĩnh viễn. “Khoảnh khắc đó, như tôi đă nghi ngờ vào thời điểm đó, sẽ
là lúc anh ấy hoàn tác,” cô ấy viết về cuộc đối đầu của ḿnh với
Noor tại đại hội đảng năm 2016, khi anh ấy từ chối rời cuộc đua mặc
dù không giành được sự tán thành của đảng. “Không ǵ có thể xóa được
h́nh ảnh đó, kể cả hai năm sau, khi Noor chạy đua vào chiếc ghế của
tôi khi tôi tranh cử vào Quốc hội. Các cuộc tấn công dựa trên giới
tính mà anh ấy đă triển khai chống lại tôi đă được chuyển sang anh
ấy khi người Somalia công khai chế nhạo anh ấy về ngày hôm đó. 'Bạn
đă rất sợ rằng một cô gái sẽ đánh bạn.' 'Tôi rất vui v́ cuối cùng cô
ấy đă nhường cho bạn chiếc ghế mà bạn đă khóc trong nhiều năm.'”
'Ngay cả khi là
đại diện của bang Minnesota, Omar đă có mối quan hệ chặt chẽ ở cấp
cao nhất trong hệ thống chính trị của Somalia.'
Một cuộc gặp năm 2017 với Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip
Erdogan tại New York trước phiên họp thứ 72 của Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc.
'Ngay cả khi là
đại diện của bang Minnesota, Omar đă có mối quan hệ chặt chẽ ở cấp
cao nhất trong hệ thống chính trị của Somalia.' Một cuộc gặp năm
2017 với Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan tại New York
trước phiên họp thứ 72 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. TỔNG THỐNG
THỔ NHĨ KỲ/YASIN BULBUL/CƠ QUAN ANADOLU/H̀NH ẢNH GETTY
Omar sẽ không
phải là nhà lập pháp tiểu bang b́nh thường, cũng như cô ấy không
phải là nhân viên Ṭa thị chính b́nh thường. Vào tháng 8 năm 2017,
cô ấy đă xuất hiện trên trang b́a của tạp chí Time , tạp chí này
tuyên bố cô ấy là một phần của nhóm “những phụ nữ đang thay đổi thế
giới”. Cô ấy đă xuất hiện trên Daily Show lần đầu tiên vào tháng 7
năm đó.
Với cách đối xử
gay gắt đối với cộng đồng người Mỹ gốc Somali ở Twin Cities trong
cuốn hồi kư của ḿnh, có lẽ không có ǵ ngạc nhiên khi Omar đă sớm
đầu tư số vốn chính trị ít ỏi mà cô có để cố gắng ngăn quỹ nhà nước
chảy vào liên minh các tổ chức Somali địa phương. Vào năm 2017, Omar
đă đưa ra một dự luật phản đối một cách hiệu quả gói tài trợ văn hóa
và nghệ thuật Somali đă được thông qua Hạ viện và Thượng viện do
Đảng Cộng ḥa kiểm soát — biện pháp thay thế của cô ấy sẽ chỉ tài
trợ cho Bảo tàng người Mỹ gốc Somali ở Minneapolis. Omar từ chối
hướng tới một thỏa hiệp; thay vào đó, cô ấy đă yêu cầu một thành
viên đồng minh của Thượng viện bang chuyển một nửa tổng số tiền tài
trợ của dự luật cho bảo tàng. Cô ấy vẫn không khoan nhượng cho đến
cùng, phản đối tất cả các khoản tài trợ phi bảo tàng ngay cả khi dự
luật được cả hai viện thông qua và được đưa ra ủy ban hội nghị, một
trong những bước cuối cùng của quy tŕnh lập pháp. Shep Harris nhớ
lại vào mùa hè năm 2020, một nhà vận động hành lang đă làm việc thay
mặt cho liên minh các tổ chức cộng đồng Somali để vận động cho cộng
đồng lớn hơn: “Chúng tôi đă nói với chủ tịch ủy ban: Đây là điều mà
cộng đồng Somali muốn, chứ không phải điều mà đại diện Omar muốn. dự
luật tài trợ, và hiện là thị trưởng Dân chủ của Thung lũng Vàng,
ngoại ô Minneapolis.
Đối với một người
quan sát bên ngoài, việc giữ lại những khoản tiền cần thiết được
dành cho cộng đồng của chính ḿnh có vẻ là điều nhỏ nhặt, phi lư
hoặc thậm chí là tự hủy hoại bản thân. Nhưng Ilhan Omar biết rơ hơn
những người hoài nghi của ḿnh: Vào thời điểm phôi thai trong sự
nghiệp lập pháp của ḿnh, lợi ích chính trị của một hành động chủ
nghĩa cản trở nhỏ nhặt và không thể giải thích được lớn hơn chi phí
của nó. Nó cho thấy sự thoải mái khi đứng một ḿnh, một điều cốt lơi
không thể đoán trước — và, với lịch sử đầy biến động của chồng cô là
Ahmed Hirsi với Kajoog, dự kiến sẽ nhận được tài trợ từ dự luật
ban đầu, khả năng sẵn sàng hành động v́ những mối hận thù cá nhân và
chính trị.
Nhưng Omar biết
rơ hơn những người hoài nghi của ḿnh: Vào thời điểm phôi thai trong
sự nghiệp lập pháp của ḿnh, lợi ích chính trị của một hành động chủ
nghĩa cản trở nhỏ nhặt và không thể giải thích được vượt xa chi phí
của nó.
https://www.tabletmag.com/sections/news/articles/ilhans-country
Trong nhiệm kỳ
duy nhất của cô ấy ở St. Paul, Omar sẽ trở nên đáng chú ư v́ những
điều cô ấy đă làm ở xa Minnesota. Vào cuối năm 2016, ngay trước khi
nhậm chức, cô đă đến Somalia cùng với Ahmed Hirsi và gặp tổng thống
Hassan Sheikh. Tháng 2 năm đó, Omar và Hirsi là diễn giả chính tại
một cuộc biểu t́nh kỷ niệm quốc hội Somalia và thượng viện lựa chọn
một cựu quan chức của Bang New York tên là Mohamed Abdullahi
Mohamed, biệt danh Farmaajo, làm tổng thống của đất nước. Ngay sau
đó, vào đầu tháng 3 năm 2017, anh rể của Omar là Mohammed Keynan
được bổ nhiệm làm thư kư thường trực cho Hassan Ali Khayre, một cựu
quan chức của Hội đồng Người tị nạn Na Uy, người được Farmaajo bổ
nhiệm làm thủ tướng của ông.
Ngay cả khi là
đại diện của bang Minnesota, Omar đă có mối quan hệ chặt chẽ ở các
cấp cao nhất trong hệ thống chính trị của Somalia. Nhưng cô ấy khoe
khoang những liên hệ thậm chí c̣n ấn tượng hơn. Omar đă có một cuộc
gặp kín với nhà lănh đạo Thổ Nhĩ Kỳ chuyên quyền Recep Tayyip
Erdogan ở New York vào mùa thu năm 2017, rất lâu trước khi cô tham
gia Quốc hội.
Chính phủ Thổ Nhĩ
Kỳ khi đó và vẫn là một trong những bên tham gia kinh tế và chính
trị lớn ở Somalia. Cuộc ngồi xuống có thể là kết quả của việc Omar
và Ahmed Hirsi làm việc với Hashi Shafi, người đă giúp tổ chức một
phái đoàn người Mỹ gốc Somalia hàng năm để hỗ trợ chuyến đi hàng năm
của Erdogan tới dự khai mạc Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Mặc dù Shafi
không thực hiện nhiệm vụ cụ thể đó, nhưng khi tôi gặp anh ấy ở
Minneapolis vào cuối năm 2019, anh ấy giải thích rằng người của
Erdogan sẽ liên hệ với anh ấy để tập hợp một nhóm nhỏ người Mỹ gốc
Somalia cùng nhau đến dự Đại hội đồng khai mạc hàng năm. Shafi cho
biết vào cuối năm 2019: “Người Somalia, dù chúng tôi ở đâu, chúng
tôi có mối quan hệ rất tôn trọng với cộng đồng Thổ Nhĩ Kỳ. “Họ đă
làm điều mà chưa quốc gia nào từng làm cho chúng tôi trước đây. Họ
đă mang lại niềm hy vọng của Somalia đă bị lăng quên trong một thời
gian dài.”
Shafi là một
trong những người lănh đạo của Hiệp hội Hữu nghị người Mỹ gốc Somali
Thổ Nhĩ Kỳ, có trang Facebook mô tả một nhóm sinh viên Somali đến
thăm Umat Acar, khi đó là tổng lănh sự Thổ Nhĩ Kỳ tại Chicago, trước
khi lên đường đến Istanbul. Acar cũng đă phát biểu tại lễ hội Somali
2017 ở Minneapolis, một sự kiện khác được ghi lại trên trang
Facebook của TSAFA.
Acar đă từng là
chánh văn pḥng của Ahmet Davutoglu, bộ trưởng ngoại giao quyền lực
một thời của Thổ Nhĩ Kỳ và là kiến trúc sư của chính sách đối
ngoại “Không có vấn đề” thất bại của đất nước. Khi Davutoglu không
được ủng hộ, Acar đă khôn ngoan định vị ḿnh là một con chó tấn công
chống lại các cộng đồng người Hy Lạp và Armenia ở Trung Tây. Anh ta
cũng nhắm mục tiêu vào khu vực có nhiều tín đồ của giáo sĩ Thổ Nhĩ
Kỳ Fethullah Gulen, đối thủ không đội trời chung của Erdogan. Tổng
lănh sự kêu gọi các thành viên Quốc hội địa phương không công nhận
cuộc tàn sát người Armenia của Đế chế Ottoman năm 1915 là một tội ác
diệt chủng, cố gắng trục xuất một chủ nhà hàng địa phương về Thổ Nhĩ
Kỳ v́ tiền kiếp bị cáo buộc là một kẻ khủng bố người Kurd, đă tweet
một cách thô bạo về lịch sử bạo lực giữa người Hy Lạp và người Thổ
Nhĩ Kỳ, đồng thời phát hành một video đă được chỉnh sửa có chủ ư gây
hiểu lầm, trong đó Steven Cook, một thành viên tại Hội đồng Quan hệ
Đối ngoại, xuất hiện để chế giễu những người Thổ Nhĩ Kỳ bị giết
trong cuộc đảo chính năm 2016 của đất nước. “Ông ấy đă vượt qua một
số ranh giới mà bạn chưa bao giờ thấy vượt qua, đặc biệt là bởi các
nhà ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ – họ trong lịch sử là những nhà ngoại giao
giỏi. Bây giờ họ đều là những người trung thành với Erdogan,” Endy
Zemenides, giám đốc điều hành của Hội đồng Lănh đạo người Mỹ gốc Hy
Lạp, nhớ lại. Zemenides cho biết Acar rời thị trấn vào đầu năm 2019,
không lâu sau khi Zemenides và các nhà hoạt động khác ở Chicago mở
“các cuộc thảo luận với chính quyền Illinois, Bộ Ngoại giao và Quốc
hội về việc coi anh ta là người không được hoan nghênh v́ đă kích
động bạo lực chống lại công dân Mỹ”. giám đốc điều hành của Hội đồng
lănh đạo người Mỹ gốc Hy Lạp. Zemenides cho biết Acar rời thị trấn
vào đầu năm 2019, không lâu sau khi Zemenides và các nhà hoạt động
khác ở Chicago mở “các cuộc thảo luận với chính quyền Illinois, Bộ
Ngoại giao và Quốc hội về việc coi anh ta là người không được hoan
nghênh v́ đă kích động bạo lực chống lại công dân Mỹ”. giám đốc điều
hành của Hội đồng lănh đạo người Mỹ gốc Hy Lạp. Zemenides cho biết
Acar rời thị trấn vào đầu năm 2019, không lâu sau khi Zemenides và
các nhà hoạt động khác ở Chicago mở “các cuộc thảo luận với chính
quyền Illinois, Bộ Ngoại giao và Quốc hội về việc coi anh ta là
người không được hoan nghênh v́ đă kích động bạo lực chống lại công
dân Mỹ”.
Một phần công
việc của Acar là thúc đẩy sự ủng hộ giữa các nhóm Hồi giáo mới hơn,
nhỏ hơn hoặc thường bị bỏ qua ở Trung Tây. Điều đó bao gồm cộng đồng
người Mỹ gốc Somali ở Minneapolis, nơi mà ông Erdogan coi là cơ sở
hỗ trợ tiềm năng của Mỹ. Omar và Ahmed Hirsi đă gặp Acar tại văn
pḥng của anh ấy ở Chicago vào tháng 6 năm 2017. Cuộc gặp giữa
Erdogan và Omar vào mùa thu năm đó có ư nghĩa hoàn hảo đối với
Erdogan, ông chủ chuyên quyền của Acar. Omar là người Mỹ gốc Somali
nổi tiếng nhất trong nước, đồng thời là người thân thiết với những
nhân vật thân Thổ Nhĩ Kỳ trong cộng đồng của cô ấy.
Thổ Nhĩ Kỳ không
phải là người chơi nước ngoài duy nhất ở Somalia. Ethiopia và Kenya
đều có quân đoàn bộ binh trong nước, chính quyền trung ương của họ
không kiểm soát nhiều bất cứ thứ ǵ bên ngoài Mogadishu. Qatar, một
đồng minh thân cận của Thổ Nhĩ Kỳ, đă cấp tiền mặt giải ngân cho các
nhân vật chính trị của Somalia thông qua Fahad Yasin - giám đốc t́nh
báo trẻ tuổi đă trở thành cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống
Somalia và là một cựu nhân viên của Al Jazeera - ít nhất là cho đến
khi nền chính trị của ông suy thoái gần đây. vận may. Các Tiểu vương
quốc Ả Rập Thống nhất đang xây dựng một cảng và có thể là cơ sở quân
sự ở Berbera, thuộc khu vực ly khai Somaliland.
Omar với tổng
thống Azad Kashmir do Pakistan quản lư, Sultan Mehmood Chaudhry, tại
Muzaffarabad vào ngày 21 tháng 4 năm 2022
Omar với tổng
thống Azad Kashmir do Pakistan quản lư, Sultan Mehmood Chaudhry, tại
Muzaffarabad vào ngày 21 tháng 4 năm 2022 SAJJAD QAYYUM/AFP QUA
GETTY IMAGES
Sau đó, trong sự
nghiệp quốc hội của ḿnh, Omar sẽ tiếp tục hoạt động với tư cách là
một nhà ngoại giao tự bổ nhiệm, người dường như đang chủ động can
thiệp vào các tranh chấp nước ngoài gây tranh căi—vào tháng 4 năm
2022, Omar đă khiến các nhà ngoại giao từ Ấn Độ, một đồng minh của
Hoa Kỳ, tức giận khi cô đến thăm một phần của Kashmir do Pakistan
kiểm soát mà Ấn Độ coi là đang bị quân đội nước ngoài chiếm đóng.
chuyến thămdiễn ra chỉ vài ngày sau cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm đă
lật đổ Thủ tướng Pakistan Imran Khan, khiến có vẻ như Omar đang
truyền đạt sự chấp thuận của bà, và có thể cả của Mỹ, đối với ban
lănh đạo mới của đất nước. Sự tham gia của Omar vào chính trị
Somalia trong nhiệm kỳ của cô ấy trong cơ quan lập pháp bang là
thông lệ quan trọng đối với công việc tự do quốc tế sau này của cô
ấy. Omar có vẻ như đang cho mượn lực hấp dẫn ngày càng tăng của ḿnh
để ủng hộ một bên trong bất kỳ cuộc tranh luận chính trị đầy biến
động nào của Somali. Sheikh, Farmaajo, Acar và thậm chí cả Erdogan
đều có thể muốn sử dụng Omar, người đă tạo nên lịch sử và Thời
đại.chủ đề trang b́a, để chứng minh rằng họ có sự ủng hộ ở
Minneapolis, thủ đô của cộng đồng người Somali hải ngoại. “Đó là
cách hoạt động của chính trị Somalia,” giáo sư Mohamed Ingiriis của
King's College London nói. “Không ai có thể đến với bạn một cách từ
thiện. Đó là một thị trường - một thị trường bạo lực.”
Ngay trong năm
đầu tiên nhậm chức, đă có những dấu hiệu cho thấy sự khó tính của
Omar không theo kịp danh tiếng của cô. Vào năm 2018, Steve
Drazkowski, một thành viên Đảng Cộng ḥa của Hạ viện bang, đă cáo
buộc Omar về một số hành vi không phù hợp về tài chính trong chiến
dịch tranh cử, bao gồm việc sử dụng quỹ tranh cử để chi trả cho việc
đi lại ngoài bang, cũng như để trang trải các chi phí liên quan đến
cuộc ly hôn của cô ấy với Elmi. Ban Tài chính Chiến dịch Minnesota
nhận thấy các tuyên bố đủ đáng tin cậy để đảm bảo một cuộc điều tra.
Blogger bảo thủ
và luật sư Minneapolis Scott Johnson đă xem xét chi tiết vụ việc,
cũng như phóng viên David Steinberg. V́ những lư do có thể từ sự bất
cẩn vô tội đến việc cố t́nh che giấu t́nh trạng hôn nhân thực sự của
ḿnh, Omar đă khai thuế chung với Hirsi vào năm 2014 và 2015, theo
lời khai mà hội đồng thu thập được trong quá tŕnh điều tra. Các cặp
vợ chồng có thể khai thuế chung, bao gồm nhiều khoản trợ cấp và khấu
trừ khác nhau, chỉ khi tiểu bang họ sống công nhận họ là vợ chồng
hợp pháp. Vào thời điểm đó, Omar đă kết hôn hợp pháp với Elmi chứ
không phải Hirsi. Cuộc điều tra kết thúc với việc hội đồng yêu cầu
Omar trả 3.500 đô la cho ủy ban chiến dịch của cô ấy cùng với h́nh
phạt dân sự 500 đô la, một t́nh tiết không được đề cập trong cuốn
sách của Omar.
Hồi kư của Omar,
trong đó tuyên bố rằng câu chuyện về cuộc hôn nhân của cô với Elmi
lần đầu tiên xuất hiện trên một trang web của cộng đồng Somali, phần
lớn coi vụ bê bối là sự tiếp nối âm mưu của cơ sở Somali giống Mafia
chống lại cô. Câu chuyện vỡ lở không lâu sau chiến thắng đầu tiên
của Omar vào năm 2016. Trong Time for Ilhan , nhóm làm phim tài liệu
đă bị thu hồi quyền truy cập trong suốt hai tuần trong khi các nhà
quản lư khủng hoảng của Omar, bao gồm một số nhà tư vấn chính trị
hàng đầu của bang DFL, t́m cách tŕnh bày toàn bộ chủ đề như một
cuộc tấn công vào bản sắc Somali và Hồi giáo của cô ấy. Nếu các nhà
làm phim phản đối việc đột ngột đ́nh chỉ các đặc quyền của họ trong
giai đoạn có lẽ là thú vị nhất trong sự nghiệp chính trị của Omar
cho đến thời điểm đó, th́ họ sẽ không xuất hiện trong phim.
Ngày nay, cuộc
hôn nhân với Elmi rất thú vị v́ nó ít quan trọng như thế nào đối với
tương lai chính trị của Omar. Sau khi Omar vượt qua làn sóng tranh
căi ban đầu, các cử tri đơn giản là không c̣n quan tâm đến vấn đề
này nữa—các cuộc hôn nhân và những hành vi không phù hợp trong chiến
dịch tranh cử đă nhanh chóng được công chúng đánh giá cao về Omar,
người quá lôi cuốn, quá gây chia rẽ và giờ đây là một nhân vật quá
quan trọng để bị đánh gục bởi bất cứ điều ǵ mơ hồ như cách đối xử
khác biệt về văn hóa và hôn nhân hợp pháp giữa những người Mỹ gốc
Somalia, hay tầm thường như một khoản hoàn trả nhỏ theo lệnh của nhà
nước cho ủy ban chiến dịch của cô ấy.
Omar đă tránh
được bất kỳ tranh căi nào nữa nhờ chiến lược gia bậc thầy của cô ấy
và đội quản lư khủng hoảng được xếp chồng lên nhau bởi PR, điều này
đă khiến công tố viên hàng đầu của khu vực xuất hiện để ngay lập tức
minh oan cho cô ấy về bất kỳ hành vi sai trái nào. Vào ngày 22 tháng
8 năm 2016, Andrew Luger, khi đó là công tố viên liên bang của khu
vực Twin Cities, đă gửi một lá thư tới chiến dịch tranh cử của Omar
xác nhận rằng văn pḥng của ông không điều tra người đại diện được
cho là của tiểu bang về bất kỳ tội danh nào bị cáo buộc. Vào tháng 6
năm 2019, Johnson đă gửi email cho Luger, người đă chuyển sang hành
nghề tư nhân. “Tôi tự hỏi liệu bạn có thực sự xem xét bất kỳ tài
liệu nào trước khi gửi bức thư ngày 22 tháng 8 năm 2016 của ḿnh hay
không ... Tôi cũng tự hỏi liệu bạn đă từng gửi một bức thư khác như
vậy thông báo rằng bất kỳ ai không bị Văn pḥng Công tố Hoa Kỳ
Minnesota điều tra chưa,” Johnson thắc mắc. Luger trả lời: “Cảm ơn.
Tôi sẽ vượt qua điều này.
Vào mùa hè năm
2018, Omar đă trở thành một người có tầm quan trọng không chỉ ở địa
phương. Gia đ́nh cô có ảnh hưởng trên hai lục địa. Chị gái của cô,
Sahra Noor, đă chuyển đến Nairobi, đột ngột từ bỏ sự nghiệp lănh đạo
của một tổ chức phi lợi nhuận về sức khỏe ở Minneapolis và thành lập
một công ty tư vấn dành cho một phụ nữ ở thủ đô Kenya, cách nơi làm
việc của chồng cô ở Mogadishu 90 phút bay. Tháng 10 năm đó, Noor đă
tweet một bức ảnh của cô ấy ở Garowe, thủ phủ hành chính của
Puntland, đứng cạnh bộ trưởng quan hệ quốc tế của khu tự trị.
Vào tháng 6 năm
2019, David Steinberg lao dốcmă nguồn của trang web dành cho doanh
nghiệp tư vấn của Noor và t́m thấy bằng chứng cho thấy một người
dùng tên là Ahmed Elmi, tên chồng cũ của Omar, đă đăng nhập vào tài
khoản Instagram cá nhân của anh ta trong khi thiết lập liên kết đến
Instagram của công ty mới. Steinberg kết luận: “Không có lời giải
thích hợp lư nào cho việc mă này tồn tại ngoài việc Elmi làm việc
cho Noor. Omar đă tuyên bố trong đơn ly hôn năm 2017 rằng cô ấy đă
không liên lạc với Elmi kể từ năm 2011 và không biết nơi ở của anh
ta, điều này rất khó giải quyết với việc anh ta có thể làm việc cho
chị gái của Omar vào mùa hè năm 2018. Nhưng một lần nữa, những vướng
mắc gia đ́nh này bây giờ chỉ thú vị như một ví dụ về những loại sự
việc mà Omar, thông qua sức mạnh của nhân cách và kỹ năng chính trị
tuyệt đối, có thể khiến cho không liên quan.
Đối với hành động
tiếp theo của ḿnh, Omar đă thúc đẩy một làn sóng đang lên làm thay
đổi cả Đảng Dân chủ và bối cảnh chính trị quốc gia: Một chủ nghĩa
cánh tả ngàn năm có h́nh đại diện thường là những sinh viên mới tốt
nghiệp đại học thất vọng, những người mơ ước đánh bật cơ sở Đảng Dân
chủ hư hỏng và vô kỷ luật. Một thế hệ các nhà hoạt động và chính trị
gia trẻ hơn, trong khi vẫn chỉ đại diện cho một phần nhỏ đảng viên
Đảng Dân chủ trong chức vụ dân cử, đă thực sự đưa đảng này đi xa hơn
về nhập cư, phá thai, chính sách của Israel, tha thứ cho sinh viên
vay tiền và một loạt các vấn đề khác. Như chiến thắng của Omar trước
Kahn cho thấy, quá tŕnh này đang diễn ra tốt đẹp ở Minneapolis
trước khi Thống đốc Mark Dayton quyết định không tranh cử nhiệm kỳ
thứ ba, dẫn đến quyết định tranh cử thống đốc của Bộ trưởng Tư pháp
Lori Swanson, điều này đă dọn đường cho Nghị sĩ Keith Ellison để ứng
cử vào công việc sắp trở thành cũ của Swanson.
Omar tuyên bố ứng
cử vào chiếc ghế trống bất ngờ của Ellison vào đầu tháng 6 năm 2018.
Cuộc bầu cử sơ bộ c̣n 9 tuần nữa mới diễn ra. Riêng tư, cô ấy đă suy
nghĩ về một cuộc tranh cử vào quốc hội trong tương lai vào đầu mùa
xuân năm 2017. Các đối thủ của Omar bao gồm Margaret Anderson
Kelliher, cựu diễn giả của Hạ viện Minnesota và Patricia Torres Ray,
người Latinh đầu tiên phục vụ tại Thượng viện bang Minnesota. . Omar
vẫn giành được sự tán thành ngay lập tức của Dayton và Thị trưởng
Minneapolis Jacob Frey. Trong một sự đảo ngược đặc trưng, Omar
sẽ chỉ trích gay gắt Frey sau hậu quả của các cuộc biểu t́nh năm
2020 của George Floyd.
Omar là một sự
đánh cược hợp lư ngay từ đầu, bất kể phần c̣n lại của lĩnh vực này
có thể có chất lượng như thế nào. Các đồng minh của cô ấy bao gồm
Brandon Schorsch, người đứng đầu ủy ban điều hành của Khu vực Quốc
hội số 5 của DFL, bản thân nó chứa đầy những người trẻ tuổi tiến bộ
ủng hộ Omar. Schorsch từng là nhân viên cho chiến dịch tranh cử của
ứng cử viên thị trưởng tiến bộ Minneapolis Raymond Dehn, người đă
nhận được 43% phiếu bầu sơ bộ đáng ngạc nhiên với Joelle Stangler là
người quản lư chiến dịch tranh cử của ông.
'Vụ sát hại
George Floyd dưới bàn tay của Sở cảnh sát Minneapolis ở quận Omar đă
gây ra các cuộc biểu t́nh toàn quốc lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.'
Omar nói chuyện với một đám đông tụ tập để tuần hành yêu cầu
cắt giảm ngân sách của Sở Cảnh sát Minneapolis vào ngày 6 tháng 6
năm 2020, tại Minneapolis.
'Vụ sát hại
George Floyd dưới bàn tay của Sở cảnh sát Minneapolis ở quận Omar đă
gây ra các cuộc biểu t́nh toàn quốc lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.'
Omar nói chuyện với một đám đông tụ tập để tuần hành yêu cầu cắt
giảm ngân sách của Sở Cảnh sát Minneapolis vào ngày 6 tháng 6 năm
2020, tại Minneapolis. H̀NH ẢNH STEPHEN MATUREN / GETTY
Khu vực DFL đă
lên lịch cho hội nghị chứng thực vào cuối tuần Ngày của Cha, chỉ 12
ngày sau khi ghế mở và 10 ngày sau khi hội nghị được triệu tập.
Những người được ủng hộ có quyền truy cập vào các tài nguyên của DFL
và thông tin cử tri trong cuộc bầu cử sơ bộ. Hội nghị cuối tuần do
những người ủng hộ Omar kêu gọi được coi là quá quyết đoán đến mức
thậm chí ít ứng cử viên bận tâm tranh luận về nó. “Tôi không nói
chính xác đó là gian lận, nhưng nó được dàn dựng theo cách gần như
đảm bảo sự ủng hộ của cô ấy,” một nhà hoạt động của đảng nói với tôi
vào cuối năm 2019.
Stangler trở lại
với tư cách là người quản lư chiến dịch của Omar. Tuy nhiên, ứng cử
viên có thể tỏ ra không biết ǵ một cách kỳ lạ về các yêu cầu của
chiến dịch vận động: Cô ấy là người duy nhất trong số các ứng cử
viên chính bỏ qua diễn đàn “gặp gỡ các ứng cử viên” do tổ chức Black
Women Rising tổ chức.
Diễn đàn duy nhất
của cuộc đua mà mọi ứng cử viên hàng đầu đều tham dự đă diễn ra tại
Giáo đường Do Thái Beth El, một hội thánh lớn của phong trào Bảo thủ
ở Công viên St. Louis vào ngày 6 tháng 8 năm 2018. Là một thành viên
của cơ quan lập pháp bang, Omar là một trong 28 các thành viên của
Hạ viện đă bỏ phiếu chống lại luật chống BDS của tiểu bang vào năm
2017. Trong một trong những bài phát biểu đầu tiên của ḿnh với tư
cách là một nhà lập pháp, Omar đă đặtra nhiều chủ đề trong sự nghiệp
sau này của cô ấy và về tương lai gần của nền chính trị Hoa Kỳ, đồng
thời phản đối dự luật. Cô ấy mở đầu bằng cách sử dụng vụ bê bối đạo
đức đang diễn ra về phân biệt chủng tộc ở Mỹ và việc cô ấy bị đối xử
tệ bạc liên tục ở Hoa Kỳ, để định h́nh cuộc tranh luận về BDS. “Tôi
nghĩ rằng tôi biết một chút về sự phân biệt đối xử—tôi phải đối mặt
với nó hàng ngày. Tôi mang nhiều bản sắc và liên tục, liên tục bị
phân biệt đối xử,” cô ấy nói trước khi so sánh BDS của Israel với
việc tẩy chay chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi và chia sẻ niềm
tin của cô ấy rằng “bạn không bao giờ có được ḥa b́nh nếu không có
công lư.”
Một Omar khác với
người đă bảo vệ BDS trên sàn nhà nước, một người đă tiếp xúc với các
nhà hoạt động trên Phố J và những người ủng hộ Israel theo phe trung
tả, theo đảng Dân chủ ở khu vực Twin Cities, đă xuất hiện tại sự
kiện Beth El. Cô ấy đảm bảo với các cử tri rằng cô ấy không phải là
người ủng hộ BDS, thứ không c̣n được coi là anh em họ của cuộc đấu
tranh chống phân biệt chủng tộc nữa. “Để chúng tôi có một quá tŕnh
đi đến giải pháp hai nhà nước, mọi người phải sẵn sàng ngồi vào bàn
và tṛ chuyện về cách điều đó có thể thực hiện được và tôi nghĩ điều
đó sẽ dừng cuộc đối thoại,” Omar bây giờ tranh luận. “Tôi tin rằng
ngay bây giờ với phong trào BDS, việc đạt được giải pháp hai nhà
nước đó là không hữu ích.” Luật sư Bruce Goldstein của Minneapolis
cho phép Omar sử dụng văn pḥng của ḿnh để gây quỹ, nơi luật sư và
ứng cử viên “nói về việc câu chuyện nhập cư của người Do Thái và
người Somalia giống nhau như thế nào ... Cô ấy nói tất cả những điều
đúng đắn.” Omar ví von để chiến thắng. Theo hai nguồn tin của Đảng
Dân chủ Minnesota, khi Anderson Kelliher kêu gọi nhượng bộ vào đêm
bầu cử, Omar tỏ ra kém nhă nhặn hơn: “Thông điệp là, bạn sẽ nhận
được những ǵ bạn tổ chức. Đó là một cái tát thẳng vào mặt,” một
người nói, tóm tắt cuộc tṛ chuyện. (Trong khi đó, Goldstein sau đó
sẽ cho Antone Melton-Meaux, đối thủ chính của Omar, vào năm 2020,
thuê không gian trong văn pḥng của ḿnh.) bạn nhận được những ǵ
bạn tổ chức cho. Đó là một cái tát thẳng vào mặt,” một người nói,
tóm tắt cuộc tṛ chuyện. (Trong khi đó, Goldstein sau đó sẽ cho
Antone Melton-Meaux, đối thủ chính của Omar, vào năm 2020, thuê
không gian trong văn pḥng của ḿnh.) bạn nhận được những ǵ bạn tổ
chức cho. Đó là một cái tát thẳng vào mặt,” một người nói, tóm tắt
cuộc tṛ chuyện. (Trong khi đó, Goldstein sau đó sẽ cho Antone
Melton-Meaux, đối thủ chính của Omar, vào năm 2020, thuê không gian
trong văn pḥng của ḿnh.)
Một trong những
cuộc phỏng vấn đầu tiên của Omar với tư cách là nữ dân biểu đắc cử
vào tháng 11 năm đó là với một trang web có tên là Cô gái Hồi giáo.
Tuyên bố của cô ấy về BDS tại diễn đàn hóa ra là một bước đi có tính
toán hoặc tệ hơn. Như chiến dịch của cô ấy đă nói với trang web,
“Ilhan tin tưởng và ủng hộ phong trào BDS, đồng thời đă đấu tranh để
đảm bảo quyền ủng hộ của mọi người không bị h́nh sự hóa.”
Các nhà lănh đạo
Do Thái ở Minneapolis sớm nhận ra rằng Omar sẽ đưa ra một thách thức
khác với thách thức mà người tiền nhiệm của cô, Keith Ellison, đă
đặt ra. Được bầu vào năm 2006, Ellison là thành viên Quốc hội Hồi
giáo đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ. Mặc dù đă t́nh nguyện đại diện
cho Quốc gia Hồi giáo trong trường luật, nhưng Ellison xuất thân từ
một truyền thống tiến bộ sớm hơn, thực dụng hơn Omar và những nhân
vật truyền lửa trẻ trung khác của Đảng Dân chủ. Jaylani Hussein,
giám đốc Hội đồng về Quan hệ Mỹ-Hồi giáo (CAIR), cho biết: “Cuộc bầu
cử năm 2018 là một sự thay đổi hoàn toàn về những ǵ có thể xảy ra.
Ellison có một
"đầu mối liên hệ chính" trong hệ thống của Ủy ban Các vấn đề Công
cộng Israel của Mỹ để tiếp cận các thành viên Quốc hội, điều này phụ
thuộc vào việc một nhà hoạt động AIPAC cụ thể có thể nói chuyện trực
tiếp với đại diện quốc hội của họ trong ṿng 24 giờ hay không. Người
liên hệ chính đó là Avi Olitzky, khi đó là giáo sĩ Do Thái trẻ tuổi
đầy nghị lực được phong chức JTS tại Beth El. “Khi tôi liên hệ ban
đầu, chúng tôi hầu như không có cuộc gặp nào,” anh ấy nhớ lại khi
chúng tôi gặp nhau vào cuối năm 2019. “Năm sau, đó là cuộc gặp với
một nhân viên ở hành lang. Năm sau, đó là với một nhân viên trong
văn pḥng. Năm sau, đó là 30 phút với Dân biểu Ellison. Năm sau, đó
là 90 phút. Và đó là một cuộc họp mà chúng tôi mong đợi ... anh ấy
không nói suông,” giáo sĩ Do Thái nhớ lại.
Olitzky đă gặp
Omar tại Beth El vào tháng 1 năm 2019, ngay trước khi bà nhậm chức.
Omar đă không cố gắng che giấu quan điểm thực tế của ḿnh, như cô ấy
đă làm tại diễn đàn bốn tháng trước đó. Khi chúng tôi gặp nhau 10
tháng sau, giáo sĩ Do Thái nhớ lại “một cuộc tṛ chuyện thực sự thú
vị với Ilhan Omar về hai quốc gia, viện trợ nước ngoài, ḥa b́nh,
nhà nước Palestine phi quân sự hóa, đàm phán và chống BDS. Cô ấy có
hai nhận xét mà tôi biết sẽ rất khó. Đầu tiên, cô ấy nói rằng Israel
bị bao vây bởi bầy sói, nhưng Israel là một con sư tử. Và đó là một
cấu trúc khác với Nghị sĩ Ellison mà tôi từng có. Thứ hai, cô ấy
nói: Tôi tin vào công lư và công lư là b́nh đẳng... bên nào được th́
bên kia được.” Olitzky giải thích rằng cách tiếp cận như vậy sẽ nâng
cao tiền đề chính của tiến tŕnh ḥa b́nh Israel-Palestine, trong đó
lấy sự tồn tại của Israel làm một trong những xuất phát điểm. “Cô ấy
nói, Israel sẽ không có được một nhà nước cho đến khi người
Palestine có được một nhà nước. Tôi đă nói với Đại diện Omar: 'Bạn
không hiểu, bạn vừa đưa ra một tuyên bố cấp tiến.' ... Câu trả lời
của cô ấy là, cứ như vậy đi. (Olitzky rời Beth El vào đầu năm 2022
để thành lập một công ty tư vấn.)
Omar sẽ không
hành động theo hướng điều độ hơn hoặc cởi mở hơn để duy tŕ mối liên
hệ thân thiện với các tổ chức thành lập, ngay cả khi chỉ xét đến
40.000 người Do Thái lẻ trong quận của cô ấy. Trước khi được bầu vào
Quốc hội, Omar đă gặp Thượng nghị sĩ bang Ron Latz tại nhà của ông
để thảo luận về cách tiếp cận của cô đối với các chủ đề liên quan
đến Do Thái và Israel. Latz, người đă bảo vệ Ellison trước những cáo
buộc bài Do Thái, đă cảnh giác với một ḍng tweet năm 2012 trong đó
Omar đă cáo buộc Israel “thôi miên thế giới”. Như sau này ông đă nói
với Twin Cities Pioneer Press, “Hầu hết chúng tôi bước ra khỏi cuộc
tṛ chuyện đó đều rất bối rối trước những câu trả lời mà chúng tôi
nhận được. Tôi không tin rằng cô ấy sẽ đưa ra một cách tiếp cận cân
bằng đối với chính sách ở Trung Đông, và tôi không tin… trái tim của
cô ấy dành cho những điều này ở đâu.” Các giáo sĩ Do Thái địa phương
không thể khiến Dân biểu đắc cử Omar trả lời các cuộc gọi của họ
trong tháng trước khi bà tuyên thệ nhậm chức.
Một khuôn mẫu
nhanh chóng xuất hiện khi cô bắt đầu nhiệm kỳ của ḿnh ở Washington:
Omar sẽ đưa ra một số tuyên bố gây tranh căi hoặc thiếu tế nhị về
Israel. Sau đó, các nhà lănh đạo Do Thái từ khắp các cộng đồng sẽ
gặp Omar để cố gắng giáo dục cô ấy về lư do tại sao tuyên bố của cô
ấy không mang tính xây dựng hoặc tệ hơn. Sau đó, vài tuần sau, cô ấy
sẽ nói điều ǵ đó khác và chu kỳ sẽ lặp lại.
Đầu tiên là ḍng
tweet “Benjamins”vào tháng 2 năm 2019, trong đó Omar, hiện là thành
viên của Ủy ban Đối ngoại tại Hạ viện do đảng Dân chủ kiểm soát,
dường như gợi ư rằng AIPAC đă mua được ḷng trung thành của cả các
đồng nghiệp trong quốc hội thuộc đảng Dân chủ và Cộng ḥa của bà.
Ḍng tweet đă dẫn đến một cuộc họp tại văn pḥng của Steve Hunegs,
lănh đạo Hội đồng Quan hệ Cộng đồng Do Thái địa phương, trong đó ông
cố gắng giải thích lư do Mỹ ủng hộ Israel. “Tôi đă nói, Đại diện
Omar, sự ủng hộ sâu sắc cho mối quan hệ Mỹ-Israel xuất phát từ ḷng
yêu nước của chúng tôi,” anh ấy nhớ lại vào cuối năm 2019. Anh ấy
cho cô ấy xem bức ảnh anh ấy lưu giữ trong văn pḥng của một người
anh họ đă hy sinh trong trận chiến ở Thế giới Chiến tranh II ở Châu
Âu, bằng chứng về cam kết của người Do Thái đối với Châu Mỹ. “Chưa
đầy 10 ngày sau, cô ấy đă có mặt tại hiệu sách ở Washington để nói
về ḷng trung thành kép.”
Trong lần xuất
hiện tại nhà hàng và hiệu sách Busboys and Poets ở Washington vào
tháng 2 năm 2019, Omar tuyên bố : “Tôi muốn nói về ảnh hưởng chính
trị ở đất nước này cho rằng mọi người có thể thúc đẩy ḷng trung
thành với một quốc gia nước ngoài,” một công thức mà những người cố
chấp có thể dễ dàng áp dụng cho mối quan hệ của chính cô ấy với
Somalia. Những b́nh luận đó đă dẫn đến cuộc đối đầu của Omar với Chủ
tịch Hạ viện Nancy Pelosi về một nghị quyết chống chủ nghĩa bài Do
Thái mà Omar phản đối, với lư do không bao gồm các loại thù hận
khác. Hai nhà lập pháp sẽ chôn vùi sự ḱnh địch mới nổi của họ—ít
nhất là ở nơi công cộng—và đi cùng một phái đoàn quốc hội tới Châu
Phi vào mùa hè năm đó.
Vào đầu tháng 3
năm 2019, khi những tranh căi về Israel vẫn c̣n mới mẻ, Omar đă tham
gia một chuyến đi của quốc hội đến Eritrea, quê hương của một chế độ
có hồ sơ nhân quyền giống như Bắc Triều Tiên. Cô ấy đă đưa ra một
tweet duy nhấtvề chuyến thăm, trong đó không đề cập ǵ đến sự lạm
dụng của chính phủ mà các quan chức mà cô ấy sẽ sớm tôn vinh qua sự
hiện diện của ḿnh: “Tôi đang ở vùng Sừng châu Phi vào cuối tuần
này, tự hào khi thấy ḥa b́nh thịnh vượng ở đây và là một phần của
phái đoàn Mỹ đầu tiên đến Eritrea trong nhiều thập kỷ là điều tôi
biết ơn. Tôi chiến đấu [v́] ḥa b́nh và công lư v́ chỉ những người
trải qua nỗi đau chiến tranh mới biết được niềm vui của ḥa b́nh.”
Như thể cố t́nh tạo ra một sự tương phản với cách đối xử của cô ấy
với hai quốc gia, ḍng tweet xuất hiện gần cuối một chủ đề dài trong
đó Omar bảo vệ luận điệu của cô ấy về Israel, tóm tắt lại phần lớn
ngôn ngữ cô ấy đă sử dụng tại Busboys and Poets. Bà viết : “Tôi
không nên trung thành/cam kết ủng hộ một quốc gia nước ngoài để phục
vụ đất nước của ḿnh trong Quốc hội hoặc phục vụ trong ủy ban., như
thể một điều như vậy đă từng được hỏi về cô ấy, nói thêm , “Tôi được
nói hàng ngày rằng tôi là người chống Mỹ nếu tôi không ủng hộ
Israel. Tôi thấy điều đó có vấn đề và tôi không đơn độc ... Tôi biết
ư nghĩa của việc là người Mỹ và sẽ không ai nói với tôi điều ngược
lại.”
Sau đó, có một
chuyến đi được lên kế hoạch vào mùa hè năm 2019 tới Israel và Bờ
Tây, trong đó Omar đă mời các tổ chức Do Thái địa phương xin lời
khuyên về một hành tŕnh khả thi cho phái đoàn của cô ấy, trong đó
có thể bao gồm Nữ nghị sĩ ủng hộ BDS Michigan Rashida Tlaib và người
có lịch tŕnh liệt kê các cuộc gặp với Miftah , một nhóm ủng hộ BDS
ở Bờ Tây đă lan truyền những lời phỉ báng đẫm máu và ca ngợi những
kẻ đánh bom liều chết. Trong mọi trường hợp, chuyến đi đă không bao
giờ xảy ra và quyết định của Israel không cấp thị thực cho các nhà
lập pháp — có thể tuân theo các ḍng tweet của Tổng thống lúc bấy
giờ là Donald Trump yêu cầu cấm họ nhập cảnh — đă vấp phải sự phản
đối từ JCRC địa phương và Giáo sĩ Olitzky . Sau đó, vào tháng 8,
Omar đă tweetmột phim hoạt h́nh của Carlos Latuff, người về đích ở
vị trí thứ hai trong cuộc thi khét tiếng năm 2006 của chính phủ Iran
về nghệ thuật châm biếm về Holocaust. Vào thời điểm Omar viết một
cơn băo tweet vào tháng 12 năm 2019giải thích về quyết định bỏ phiếu
chống lại nghị quyết ủng hộ giải pháp hai nhà nước mà chính cô ấy đă
đồng tài trợ, cộng đồng Do Thái có tổ chức của Thành phố đôi gần như
đă trở nên mệt mỏi với việc đối phó với cô ấy. Lănh đạo người Do
Thái trong khu vực đă nhận ra rằng họ không có khả năng thực sự để
thay đổi suy nghĩ hoặc hành vi của cô ấy. Hunegs, người đứng đầu Hội
đồng quan hệ cộng đồng Do Thái ở Twin Cities, cho biết: “Thật không
may, chúng tôi có ấn tượng rằng bức tranh đă trở nên rơ ràng hơn:
Việc chống lại cộng đồng Do Thái đôi khi giống như một bối cảnh mặc
định đối với cô ấy. “Bây giờ điều đó không có nghĩa là nó luôn đúng,
hoặc bằng cách nào đó cô ấy luôn gây khó khăn hoặc tranh căi, bởi v́
điều đó cũng không đúng. Nhưng có một mô h́nh đáng tiếc là đốt cháy
thêm những t́nh huống khó khăn thay v́ xây dựng sự đồng thuận.”
Vào khoảng thời
gian nhiệm kỳ thứ hai của Omar bắt đầu vào tháng 1 năm 2021, văn
pḥng của cô ấy bắt đầu tổ chức các cuộc họp hàng quư bất thường cho
các tổ chức Do Thái trong quận của cô ấy, trong đó các nhóm và lănh
đạo cộng đồng, bao gồm cả một số người đă công khai chỉ trích cô ấy,
được mời để nêu lên mối quan ngại của họ— mặc dù nhiều hành động và
tuyên bố của cô ấy kể từ đó làm dấy lên nghi ngờ về việc liệu Omar
có thực sự coi trọng những mối quan tâm đó hay không. Vào tháng 5,
Omar và Tlaib đồng bảo trợ cho một nghị quyết tại Quốc hội tưởng
niệm Nakba, tên gọi của người Palestine (có nghĩa là "thảm họa" hoặc
"thảm họa") cho cuộc chiến tranh Trung Đông năm 1948, trong đó
Israel đă tự vệ thành công trước nửa tá người Ả Rập xâm lược. đội
quân. Nghị quyết đă mởbằng cách lên án Kế hoạch phân vùng của Liên
hợp quốc cho Palestine năm 1947, kế hoạch này sẽ mang lại cho người
Ả Rập Palestine một quốc gia lớn hơn nhiều so với bất kỳ điều ǵ
được dự tính trong bất kỳ kế hoạch ḥa b́nh nào kể từ đó.
Vào cuối năm
2019, Omar đă rút ra một kế hoạch mồi chài và chuyển đổi lập pháp
tiết lộ liên quan đến một dự luật bao gồm 35 triệu đô la xóa nợ cho
Somalia. Cô ca ngợi đạo luật trong một tuyên bố chính thức — chỉ để
bỏ phiếu chống lại dự luật, một gói lớn hơn mà theo cô, bao gồm
những dị giáo chống tiến bộ như “tạo [ing] một cách cửa sau để loại
bỏ viện trợ và bỏ đói người dân Palestine” và “công nhận [ing] sự
ủng hộ dành cho Juan Guaidó với tư cách là Tổng thống của
Venezuela.”
Cuộc bỏ phiếu
chống giảm nợ hầu như không được chú ư bên ngoài cộng đồng người
Somalia ở Minnesota. Tuy nhiên, nó là h́nh ảnh thu nhỏ của cả sự
thay đổi cá nhân và chính trị đối với Omar. Những người Somalia lớn
tuổi thường bày tỏ sự bối rối nhất định khi cô ấy tập trung vào cuộc
xung đột giữa Israel và Palestine, một nỗi ám ảnh của phương Tây
không được xếp hạng cao trong số các mối quan tâm trước mắt của cộng
đồng. “Trong số những người Somalia ngày nay, tôi nghĩ nhiều người
hiểu đây không phải là vấn đề tôn giáo mà là tranh chấp chính trị
giữa người Ả Rập và người Israel,” Ahmednasir Abdullahi, một luật sư
và nhà phân tích ở Nairobi, cho biết vào cuối năm 2019. “Tôi đă thấy
quận của cô ấy, nó có một số lượng đáng kể người Do Thái. Việc cô ấy
chấp nhận người Palestine là một lư do không có nhiều ư nghĩa đối
với tôi, hoặc tôi nghĩ đối với nhiều người Somalia.”
Vào cuối năm
2019, Omar, hiện là siêu sao của Washington, thuộc về một cộng đồng
mới. Cô ấy là một người Mỹ cấp tiến ngày sau, một người có quan điểm
chính trị và quan điểm của thế hệ thiên niên kỷ thành thị thuộc các
nguồn gốc chủng tộc và sắc tộc trong thời đại của Bernie Sanders và
Donald Trump. Ngoài ra, người chồng Somali của cô ấy không c̣n là
chồng của cô ấy nữa. Omar và Hirsi chia tay vào giữa năm 2019 khi
tin đồn ngoại t́nh với cố vấn chính trị tiến bộ da trắng Tim Mynett
của cô tan vỡ.
Theo bạn bè, cuộc
chia ly đă khiến Hirsi rơi vào tuyệt vọng sâu sắc. Anh ấy trở thành
người mà một người quen mô tả là "người Hồi giáo tái sinh" và lên kế
hoạch cho một chuyến đi đến Mecca, nơi anh ấy đă đến thăm vào mùa
đông năm đó. Một người bạn nhớ lại đă gặp anh ấy vài ngày sau phiên
ṭa ly hôn vào năm 2019. “Anh ấy rất buồn - anh ấy trở nên gầy hơn.
Anh ta phàn nàn, 'Bạn có biết cô ấy đang làm ǵ với tôi không?' Tôi
nghĩ anh ấy yêu cô ấy.”
Việc Omar công
khai phủ nhận mối quan hệ t́nh cảm với Mynett, được biết đến qua hồ
sơ ly hôn của người vợ sắp cưới của Mynett, không bao giờ đáng tin
cậy. Hóa ra khoảng 51% chi tiêu cho chiến dịch tranh cử của Omar
trong mùa bầu cử năm 2020 đă được chuyển đến công ty của Mynett.
Giống như mọi sự kiện có khả năng không hay ho khác liên quan đến
Omar, cáo buộc không trung thực và tự xử lư đơn giản là không làm
tổn hại đến cô ấy.
Đối với chiến
dịch tái tranh cử năm 2020 của ḿnh, Omar đă tích lũy được một rương
chiến tranh trị giá hơn 5 triệu đô la, phần lớn là từ các nhà tài
trợ bên ngoài tiểu bang. Sự phản đối của bà đối với Ả-rập Xê-út, sự
ủng hộ thẳng thắn dành cho nhà độc tài người Venezuela Nicholas
Maduro, và những lời tố cáo sâu rộng về chính sách đối ngoại của Mỹ
đă khiến bà hoặc trở thành một con ruồi, một người ủng hộ tiêu chuẩn
bè phái, hoặc là người dẫn đầu đảng của bà. Omar có thể sẽ có một sự
nghiệp chính trị đủ dài để phát triển thành một trong những vai tṛ
này.
Vào tháng 8 năm
2020, Omar đă vượt qua thách thức chính từ một người ḥa giải pháp
lư và mục sư bán thời gian tên là Antone Melton-Meaux, người đă huy
động được khoảng 3,2 triệu đô la trong quư 2 năm 2020 và nhận được
sự chứng thực của Star Tribune . Cô ấy đă đủ lo lắng về thách thức
để gửi một bưu phẩm chiến dịch chính thức vào cuối tháng 7 năm 2020
dường như cáo buộc Melton-Meaux hoạt động như một điệp viên lén lút
v́ lợi ích của người Do Thái. “Chúng ta có thể tin vào tiền của
Antone Melton-Meaux không?” người đưa thư hỏi, cáo buộc đối thủ của
Omar ở trong “túi tiền” của cả “Phố Wall” và “Đảng Cộng ḥa” và ghi
nhận những đóng góp từ ba người Do Thái giàu có mà người đưa thư nêu
tên, cũng như từ “Michael, một nhà tài trợ từ Scarsdale , Newyork."
Như mọi khi, Omar
có một bản năng không bao giờ cạn về những ǵ cô ấy có thể làm được.
Người đưa thư không phải là một câu chuyện. Với sự tán thành từ DFL
và với việc Ellison đóng vai tṛ là người đại diện cho chiến dịch
tranh cử công khai, cô ấy đă đánh bại Melton-Meaux gần 20 điểm.
103.000 phiếu bầu của cô ấy nhiều hơn gần 40.000 phiếu bầu mà cô ấy
đă nhận được hai năm trước đó, một tổng số đáng kinh ngạc đối với
bất kỳ cuộc bầu cử sơ bộ nào của quốc hội. Cô ấy thậm chí c̣n cải
thiện tỷ lệ phiếu bầu của ḿnh ở Công viên St. Louis, nơi sinh sống
của hầu hết người Do Thái ở Minnesota. Quan điểm cho rằng Omar sẽ là
một hiện tượng tồn tại trong thời gian ngắn - rằng những vụ bê bối
và sai lầm của cô ấy sẽ khiến cô ấy diệt vong, hoặc rằng cô ấy có
thể bị chờ đợi hoặc bị phớt lờ - được phơi bày như một điều viển
vông.
Beth Gendler,
giám đốc của Hội đồng Phụ nữ Do Thái Quốc gia của Minnesota cho đến
tháng 2 năm 2022 và là người đă tham gia vào các nỗ lực của cộng
đồng Do Thái nhằm thảo luận các vấn đề liên quan đến Israel với Omar
trong suốt nửa đầu năm 2019, đă lưu ư với tôi vào cuối năm 2019 rằng
tổ chức của cô ấy “ có một chương tŕnh nghị sự chính sách tiến bộ
rộng răi mà Omar hoàn toàn ủng hộ.” Theo quan điểm của Gendler, Omar
có thể có tác động tích cực đến người Do Thái của bang. Cô ấy nói
“bầu không khí hiện tại đă cho chúng tôi cơ hội để có những cuộc tṛ
chuyện khó khăn với bạn bè và đồng minh của chúng tôi và thay v́
công khai chỉ trích họ, hăy kêu gọi họ tham gia tṛ chuyện, đối
thoại và xây dựng mối quan hệ.”
Omar đă nhận được
sự chấp nhận từ ít nhất một trong những tổ chức lớn trong đạo Do
Thái thể chế của Mỹ. Vào ngày 30 tháng 6 năm 2021, trong bối cảnh
tuyên bố gây bức xúc của cô ấy rằng các đồng nghiệp trong Nhà Dân
chủ Do Thái của cô ấy đặc biệt không đủ “đối tác v́ công lư”, Omar
đă đăng một lời biện hộ h́nh elip trên Twitter, viện dẫn Abraham
Joshua Heschel và nhấn mạnh mối liên minh của cô ấy với người Do
Thái v́ Chủng tộc và Kinh tế Justice và The Jewish Vote, các nhóm
cực tả hầu như không có cộng đồng Do Thái chính thống nào theo dơi.
Nhưng nó không trở nên chủ đạo hơn nhiều so với Trung tâm Hành động
Tôn giáo Cải cách Do Thái giáo, chi nhánh hoạt động của giáo phái Do
Thái lớn nhất đất nước, giám đốc của nó đă tweet để đáp lại chủ đề
của Omar: “Cảm ơn Hạ nghị sĩ Omar v́ đă khơi dậy lịch sử này.”
Đối với nhiều
người Mỹ gốc Somali ở quận Omar, các cuộc biểu t́nh sau Floyd xảy ra
cùng với sự phá hủy vật chất trên diện rộng đối với các cơ sở kinh
doanh và khu vực lân cận của họ.
https://www.tabletmag.com/sections/news/articles/ilhans-country
Vào cuối tháng 5
năm 2020, vụ sát hại George Floyd dưới bàn tay của Sở cảnh sát
Minneapolis ở quận Omar đă gây ra các cuộc biểu t́nh lớn nhất trên
toàn quốc trong lịch sử Hoa Kỳ và giải phóng một hỗn hợp năng lượng
mất phương hướng. Làn sóng hy vọng và giận dữ bùng lên trên khắp đất
nước, dẫn đến việc một đội NFL đổi tên, những kẻ bạo loạn đốt xe
cảnh sát ở Quảng trường Union của Manhattan, và thị trưởng của gần
như mọi thành phố lớn ra lệnh sơn ḍng chữ Black Lives Matter trên
khắp các ngă tư trung tâm thành phố.
Đối với nhiều
người Mỹ gốc Somali ở quận Omar, tất cả những điều này xảy ra cùng
với sự phá hủy vật chất trên diện rộng đối với các cơ sở kinh doanh
và khu vực lân cận của họ. Trên Phố Lake, huyết mạch thương mại
chính ở trung tâm thành phố Minneapolis, gần như mọi cơ sở kinh
doanh của người Somali đă bị đóng cửa sau ván ép ngay cả vào cuối
tháng 7 năm 2020. Một nhà hàng Somali đă bị thiêu rụi chỉ bốn ngày
sau khi khai trương; những người nhập cư khác đă mất gần như tất cả
những ǵ họ đă gây dựng được trong hơn 25 năm ở Mỹ. Trật tự không
được khôi phục cho đến khi Lực lượng Vệ binh Quốc gia Minnesota được
triển khai sau nhiều đêm náo loạn.
Đối với một số
người Somalia, hậu quả của vụ giết Floyd là một sự trở lại với những
điều kiện mà họ đă chạy trốn gần ba thập kỷ trước đó. “Mọi người nói
rằng bất cứ khi nào chúng tôi đi xuống Phố Lake, chúng tôi đều nghĩ
đến Mogadishu, và chúng tôi không nằm ngoài khu rừng đó,” Nur Ahmed,
quản lư của Durdur, một cửa hàng tạp hóa halal đă bị đập phá mặt
tiền trong thời kỳ bất ổn, cho biết khi Tôi gặp anh ấy ở Minneapolis
vào tháng 7 năm 2020. Anh ấy chia sẻ một t́nh cảm chung khác đang
lan rộng giữa những người nhập cư Somali trong khu vực: “Chúng tôi
nhận ra lư do tại sao người Mỹ mang theo súng. Chúng ta cần phải
chịu trách nhiệm về an ninh của ḿnh.”
'Đối với một số
người Somalia, hậu quả của vụ giết Floyd là một sự trở lại với những
điều kiện mà họ đă chạy trốn gần ba thập kỷ trước đó.'
Phố Lake, Nam Minneapolis, ngày 28 tháng 5 năm 2020.
'Đối với một số
người Somalia, hậu quả của vụ giết Floyd là sự trở lại với những
điều kiện mà họ đă chạy trốn gần ba thập kỷ trước đó.' Phố Lake, Nam
Minneapolis, ngày 28 tháng 5 năm 2020. MARK VANCLEAVE/STAR TRIBUNE
QUA GETTY IMAGES
Tất nhiên, người
Mỹ gốc Somali không phải là những người duy nhất chịu thiệt hại
trong các cuộc bạo loạn hậu Floyd của Thành phố Đôi. Có những giao
lộ xung quanh Phố Lake nơi mọi công tŕnh kiến trúc đều bị đốt
cháy: Taquerias, thực khách, tiệc tự chọn kiểu Trung Quốc, hiệu sách
khoa học viễn tưởng và một khách sạn biến thành nơi trú ẩn cho người
vô gia cư nằm trong số những ṭa nhà bị phá hoại, đốt cháy hoặc bị
bỏ trống. Trong những tháng tiếp theo, phần lớn cảnh sát đă được rút
khỏi phía nam và phía bắc Minneapolis, nơi sinh sống của nhiều cộng
đồng người da đen và người nhập cư của thành phố, theo yêu cầu, được
toàn thể Hội đồng thành phố ủng hộ, rằng Sở cảnh sát Minneapolis
phải bị băi bỏ. Tội phạm bùng nổ: Minneapolis đă cân bằng tổng số vụ
giết người năm 2019 vào đầu tháng 8 năm 2020 và tội phạm bạo lực
tiếp tục gia tăng vào năm 2021.
Tuy nhiên, nhiều
người Mỹ gốc Somalia ủng hộ các cuộc biểu t́nh của Floyd, đặc biệt
là giới trẻ. AJ Awed, một nhà ḥa giải pháp lư và nhà hoạt động băi
bỏ cảnh sát cho biết: “Điều đó cho thấy rơ ràng chúng ta đứng về
phía nào của nước Mỹ. “Điều đó cho thấy chúng tôi là một phần rất
quan trọng của cộng đồng người Mỹ da đen.” Nhưng một số người thắc
mắc, với sự cay đắng không nhỏ, tại sao cộng đồng Somali phải trả
giá bằng sự tiến bộ, và liệu nó có thể được gọi là tiến bộ hay
không—đặc biệt là khi cái giá phải trả đó bị từ chối hoặc phớt lờ
ngay cả bởi các đại biểu dân cử. Mohamed Kahin, người đă giúp tổ
chức một buổi lắng nghe giữa các quan chức dân cử và các chủ doanh
nghiệp Đông Phi bị ảnh hưởng bởi các cuộc bạo loạn, tin rằng các
viên chức người Mỹ gốc Somali đă chứng tỏ rằng họ ít quan tâm đến
cộng đồng của ḿnh như thế nào. “Các quan chức dân cử của Somalia
chỉ là những người gác cổng,” anh ấy nói với tôi vào tháng 7 năm
2020.
Vụ phun trào
Floyd xảy ra giữa một giai đoạn hỗn loạn khác trong nhiệm kỳ đầu
tiên của Omar. Vào ngày 12 tháng 3 năm 2020, cô kết hôn với Tim
Mynett. Các phần tử bảo thủ trong cộng đồng Somali đặt câu hỏi về
cuộc hôn nhân của cô với một người không theo đạo Hồi. (Mynett,
người có cha mẹ là người Do Thái, được cho là đă cải sang đạo Hồi
vào khoảng thời gian họ kết hôn.) “Thế hệ trẻ không quan tâm. Những
người có nhiều thông tin hơn và có tŕnh độ học vấn cao hơn cũng
không quan tâm. Thế hệ cũ, những người vận chuyển dùi cui cho sự
trong sáng của văn hóa — họ quan tâm,” như một nguồn tin cộng đồng
Somali ở Minneapolis đă nói.
“Cha tôi luôn
khuyến khích tôi 'Hăy sống cuộc sống của bạn',” Omar viết trong hồi
kư của ḿnh. “Nhưng anh ấy đă cảnh báo đùa rằng, 'Đừng làm bất cứ
điều ǵ khiến tôi không thể ngồi cùng các bạn của ḿnh.'”
Trong hai năm kể
từ khi Floyd bị giết, Omar đă trở thành kẻ xúi giục hàng đầu về sự
leo thang không hồi kết về mặt đạo đức và luận điệu của chính trị
Mỹ: cáo buộc các đồng nghiệp Đảng Dân chủ của cô coi công lư chủng
tộc là “chỉ là dấu thăng” v́ họ không bỏ phiếu cho một nghị quyết mà
cô đă đồng ư. tài trợ cho việc phản đối sự tàn bạo của cảnh sát, đặt
câu hỏi về các cam kết công bằng xă hội của những người ủng hộ
Israel, và đăng tweet về “những hành động tàn ác không thể tưởng
tượng được của Hoa Kỳ” để thu hút sự chú ư khi cô chất vấn Ngoại
trưởng Antony Blinken về lư do tại sao Hoa Kỳ không tuân theo thẩm
quyền của Ṭa án H́nh sự Quốc tế. Nhưng trở lại vào mùa hè năm 2020,
trong thời điểm hỗn loạn của cả quốc gia và cá nhân, Omar dường như
đưa ra một trong những tuyên bố hợp lư duy nhất về cuộc bạo loạn
Floyd mà bất kỳ chính trị gia lớn nào cũng có thể tập hợp được. “Nếu
bạn quan tâm đến mạng sống của Người da đen, bạn không thể phóng hỏa
ở Minneapolis để mạo hiểm tính mạng của Người da đen,” cô ấy cầu xin
trong cuộc họp báo ở phía nam Minneapolis vào ngày 30 tháng 5 năm
2020. “Chúng ta có thể tức giận, chúng ta có thể yêu cầu công lư,
chúng ta có thể phản đối, chúng ta có thể mang nó ra đường, chúng ta
có thể cho nổ tung điện thoại của những người đại diện cho bạn.
Nhưng điều chúng ta không thể làm là gây ra một đám cháy có thể cướp
đi sinh mạng.” Cô ấy mặc một chiếc khăn trùm đầu màu đen ảm đạm và
gần như sắp khóc.
Trong một khoảnh
khắc, những người gièm pha Omar có thể đánh giá cao những phẩm chất
tương tự mà những người ủng hộ cô ấy rất ngưỡng mộ: Cô ấy tuân theo
ư thức đúng sai bên trong mạnh mẽ, ít quan tâm đến các yêu cầu của
đảng phái và phe phái, và có thể nói những ǵ người khác không có.
can đảm để nói. La bàn đạo đức của cô một lần nữa buộc cô phải có
một lập trường khó khăn hoặc không được ưa chuộng. Bất kể hướng dẫn
bên trong nào cho phép cô ấy trở thành một trong ba thành viên ủng
hộ BDS duy nhất của Quốc hội cũng giúp cô ấy mạnh dạn tố cáo các
cuộc biểu t́nh bạo lực vào thời điểm mà chiến thuật này đang được
các nhà hoạt động cánh tả chấp nhận.
Nhưng đây là nước
Mỹ vào năm 2020 và cảm giác cân bằng yên tâm không phải là chế độ tự
nhiên của bất kỳ ai, ít nhất là của một siêu sao chính trị. Một lúc
trước lời cầu xin chân thành của cô ấy, một Omar rơ ràng là xúc động
đă tung ra một trong những chuyến bay bóng gió đặc trưng của cô ấy.
Cô nói: “Tất cả chúng ta đều biết rằng chúng ta đă cùng nhau đấu
tranh để phát triển kinh doanh diễn ra trên Phố Lake. “Khi bạn chứng
kiến sự tàn phá đối với một trong những hành lang kinh doanh có
giá trị nhất đối với các cộng đồng thiểu số ở Minneapolis, bạn biết
rằng đó không phải là những người thiểu số đang gây ra sự tàn phá
đó.” Điều này đă trở thành một tṛ đùa phổ biến cho một nhóm nhỏ
nhưng có tiếng nói xin lỗi cho các cuộc bạo loạn ở Thành phố đôi:
Rằng những người da trắng cánh hữu đă sử dụng các cuộc biểu t́nh của
Floyd làm vỏ bọc để lái xe từ vùng ngoại ô và vùng nông thôn và đốt
cháy người nhập cư Minneapolis. Omar không đưa ra bằng chứng nào cho
tuyên bố viêm nhiễm của ḿnh. Cô ấy có lẽ không có bất kỳ thứ ǵ, v́
cuộc bạo loạn chỉ mới kết thúc vào đêm hôm trước. Đối với Omar, sự
tồn tại đơn thuần của những tàn tích vẫn c̣n âm ỉ đă chứng minh rằng
những người châm lửa là những người bên ngoài muốn biến những người
nhập cư da màu thành nạn nhân. Bất kỳ căng thẳng nào giữa bạo loạn
và công bằng xă hội đều được giải quyết trong không gian của một yêu
sách không có căn cứ duy nhất, được đưa ra một cách mạnh mẽ. Không
phải lần đầu tiên hay lần cuối cùng, Omar đă xác định một thực tế
đáng lo ngại không tồn tại, và tự ḿnh tái tạo thế giới theo cách
của ḿnh.
https://www.scrollmagazine.net/
https://www.smashingmagazine.com/articles/
https://www.thescrollmag.co.uk/
Vô Tổ Quốc Mất Danh Dự Vô Trách Nhiệm
The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative
The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative
THÁNG 10
Thành Tựu Lớn Nhất Của Trump & Những Thành Tựu Của Tồng Thống Sau 42 tháng. Kim Âu (st)
Donald Trump Học Ở Đại Học Nào? Kim Âu (st)
Donald Trump Trị Gía Bao Nhiêu? Kim Âu (st)
Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Thời Trump Kim Âu (st)
Những Tội Phạm Tỷ Phú Kim Âu (st)
Coronavirus, Có Phải Là Vũ Khí Sinh Học Không? Kim Âu (st)
UN, WHO, Gates T́m Cách Thu Hút Quần Chúng Kim Âu (st)
Coronavirus Lockdown Những Chuyện Chưa Kể Kim Âu (st)
Nhận Thức Sai Lầm Về Virus Kim Âu (st)
Covid 19 Không Phải Là Một Loại Virus Mới Kim Âu (st)
Covid 19, Cuộc Lừa Đảo Vĩ Đại Kim Âu (st)
11 Thuyết Âm Mưu Kim Âu (st)
Vũ Hán, Từ Cách Mạng Văn Hóa Đến Covid 19 Kim Âu (st)
Covid 19= Nói Dối Hoàn Toàn Kim Âu (st)
Cuộc Điều Tra Của Thẩm Phán Durham Kim Âu (st)
Nếu Ứng Cử Viên Tổng Thống Qua Đời.. Điều Ǵ Sẽ Xảy Ra Kim Âu (st)
Bất Ngờ Tháng Mười 2020 Kim Âu (st)
Chủ Nghĩa Toàn Cầu vs Toàn Cầu Hóa Kim Âu (st)
Chỉ Có 6% Chết V́ COVID 19 Kim Âu (st)
Đọc: Death By China Kim Âu (st)
Trump's Agenda 2020 Kim Âu (st)
Những Ư Tưởng Nền Tảng Của Republican 2020 Kim Âu (st)
Truyền Thông Bất Lương Che GIấu 7 Sự Việc Quan Trọng Kim Âu (st)
Covid 19 Khai Thác Và Thao Túng Tâm Lư Sợ Hăi Kim Âu (st)
CoronavirusThay Đổi Thế Giới Vinh Viễn Kim Âu (st)
Trang Quyền Lợi Cử Tri (Voter) Kim Âu (st)
Kiểm Soát Dân Số: Hệ Tư Tưởng Ma Qủy Kim Âu (st)
Chiến Dịch Bôi Nhọ Các Bác Sĩ Xác Nhận Thuốc Trị Covid 19 Kim Âu (st)
Yale School of Public Health that was recently published in the American Journal of Epidemiology
Những Khoảnh Khắc Jane Phạm
Cờ Vàng Trong Tâm Tôi Christine Cao
Thôi Về Đi Con Christine Cao
Nợ Quốc Gia Dưới Thời Obama Kim Âu
Dư Luận Viên Báo Nói : Biến Tướng Của Hồng Vệ Binh Kim Âu
Event 21 Mẹ Đẻ Của COVID 19 Kim Âu
Khi Người Quốc Gia Trở Về Bùi Anh Trinh
Người Quốc Gia Hà Văn Sơn Về Nước Bùi Anh Trinh
Dân Chủ Với PheTa: Đó Là Dân Chủ Rừng Rú Kim Âu
https://www.worldometers.info/coronavirus/coronavirus-death-rate/
https://www.worldometers.info/coronavirus/coronavirus-death-rate/
https://www.contagionlive.com/news/cdc-reports-13-million-flu-cases-thus-far-in-201920-season
https://www.kff.org/other/state-indicator/influenza-and-pneumonia-death-rate/?c
https://www.state.gov/the-united-states-announces-assistance-to-combat-the-novel-coronavirus/
https://www.cdc.gov/coronavirus/2019-ncov/cases-updates/cases-in-us.html
https://usafacts.org/visualizations/coronavirus-covid-19-spread-map/
Vai Tṛ Của Trung Cộng Trong Chiến Tranh Việt Nam Kim Âu -ST
VĂN HÓA - LỊCH SỬ
https://founders.archives.gov/documents/Jefferson/99-01-02-7861
https://www.presidency.ucsb.edu/documents/proclamation-3204-obstruction-justice-the-state-arkansas
https://en.wikipedia.org/wiki/Red_Guards - https://en.wikipedia.org/wiki/Red_Guards_(USA)
TỔNG HỢP BÀI VỞ CÁC DIỄN ĐÀN
The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
Những Yếu Tố Thuận Lợi Giúp Cho Chữ Quốc Ngữ Latin Phát Triển
Hậu Qủa Thời Pháp Thuộc: Lịch Sử,Văn Hóa Việt Bị Xóa Trắng Kim Âu
Vatican 5 Lần Vận Động Ngoại Cường Xâm Lược Việt Nam Nguyễn Mạnh Quang
Giáo Hội La Mă: Lịch Sử - Hồ Sơ Tội Ác Nguyễn Mạnh Quang
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG. KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI, XĂ HỘI VÀ ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM CƯỜNG THỊNH PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu