at Capitol.  June 19.1996

 

 

with Sen. JohnMc Cain

 

with Congressman Bob Barr

with General John K Singlaub

CNBC .Fox .FoxAtl .. CFR. CBS .CNN .VTV.

.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank

.Fed Register .Congr Record .History .CBO

.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState

.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee

.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate

.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive

.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect

.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND

-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost

.SourceIntel .Intelnews .QZ .NewAme

.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics

.Infowar .TownHall .Commieblaster .EXAMINER

.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL

.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters

.Diplomat .NEWSLINK .Newsweek .Salon

.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .

.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite

.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale

.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider 

.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above

.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen

.Online Books .BREIBART.INTERCEIPT.PRWatch

.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS

.NPRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes

.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign

.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media  

.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty

.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState

.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity

.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua

.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị

.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen

.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại

.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài G̣n Báo

.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu  

.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc

.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn

.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn

.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng

.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu.ChúngTa .Eurasia.

 CaliToday .NVR .Phê B́nh . TriThucVN

.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism

.Tiền Phong .Xă Luận .VTV .HTV .Trí Thức

.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương

.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG

.Echo .Sài G̣n .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT

.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN

.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa

.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .B́nh Dân

.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử *.Trái Chiều

.Tác Phẩm * Khào  Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *

THÁNG 01-2023

 

US DEBT CLOCK . WORLDOMETERS .TRÍ TUỆ MỸ . SCHOLARSCIRCLE. CENSUS - SCIENTIFIC- COVERTACTION

EPOCH - ĐKN - REALVOICE - JUSTNEWS - NEWSMAX - BREIBART - WARROOM - REDSTATE - PJMEDIA - EPV - REUTERS - AP - NTD - REPUBLIC - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - HOUSE - TỬ VI - VTV - HTV - PLUTO - BLAZE - INTERNET - SONY - CHINA - SINHUA - FOXNATION - FOXNEWS - NBC - ESPN - SPORT - ABC- LEARNING - IMEDIA - NEWSLINK - WHITEHOUSE- CONGRESS - FED REGISTER - OAN - DIỄN ĐÀN - UPI - IRAN - DUTCH - FRANCE 24 - MOSCOW - INDIA - NEWSNOW  NEEDTOKNOW - REDVOICE - NEWSPUNCH - CDC - WHO - BLOOMBERG - WORLDTRIBUNE - WND - MSNBC- REALCLEAR

POPULIST PRESS - PBS - SCIENCE - HUMAN EVENT - REPUBLIC BRIEF - AWAKENER - TABLET - AMAC - LAW - WSWS - PROPUBICA -INVESTO -CONVERSATION - BALANCE - QUORA - FIREPOWER - GLOBAL- NDTV- ALJAZEE- TASS- DAWN

 

   

NHẬN ĐỊNH - QUAN ĐIỂM

 

THÁNG 01-2023

QUỐC KỲ – QUỐC CA VIỆT NAM

 SỰ XUẤT HIỆN CỦA Ư NIỆM QUỐC CA TRONG LỊCH SỬ NHƠN LOẠI

 

Ư niệm quốc ca đă từng xuất hiện một lượt với ư niệm quốc kỳ. Từ ngàn xưa, loài người đă có dùng những bản nhạc hay bài ca để đánh dấu sự có mặt của một nhơn vật lănh đạo. Nhưng thời trước, với chế độ quân chủ, các bản nhạc hay bài hát loại này được xem là biểu tượng riêng của cá nhơn nhà vua, nhá quí tộc hoặc nhà đại diện cho các cự tộc cầm đầu cộng đồng. Về nội dung, nó có thể là một bài để cho nhơn vật lănh đạo này cầu nguyện trời hay thần linh phù hộ ông, một bài chúc tụng ông, đề cao công nghiệp của ông hay của gia tộc ông, hay một bài mô tả cảnh thái b́nh thạnh trị, hoặc sự cường thạnh của cộng đồng mà ông là chủ nhơn.

 

Chỉ với cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789, khi quốc gia được xem là sở hữu của toàn thể mọi người sống trong cộng đồng mới có bài hát được dùng làm biểu tượng chung cho toàn thể quốc dân. Người Pháp đă dùng từ ngữ “hymne national” để chỉ loại bài hát này. Quan niệm của người Pháp lần lần được người nước khác chấp nhận và người thuộc các dân tộc nói tiếng Anh đă dùng từ ngữ “national anthem” khi nói đến bài hát tiêu biểu cho nước ḿnh. Hymne national của Pháp hay national anthem theo tiếng Anh đă được người Việt Nam chúng ta dịch là quốc thiều nếu nhấn mạnh trên phần âm nhạc, hay quốc ca khi nhấn mạnh trên phần lời nói.

 

Về phần thực hiện cụ thể th́ bản quốc ca đầu tiên trên thế giới là bài Marseillaise của Pháp. Bài này do một đại úy công binh Pháp tên Rouget de Lisle làm năm 1792 với tên là Chiến Ca Của Lộ Quân Sông Rhin (Chant De Guerre Pour l’Armée Du Rhin). Nhưng sau đó, nó được nổi tiếng khi được một tiểu đoàn chí nguyện quân gồm người gốc ở thị xă Marseille hát trong lúc kéo từ Marseille lên thủ đô Paris nên có tục danh là bài Marseillaise. Bài hát này đă được phổ biến rộng răi ở Pháp từ năm 1792 và đến năm 1795, nó đă được chánh thức chọn làm quốc ca của Pháp.

 

Sau khi người Pháp tung ra ư niệm quốc ca, nhiều nước khác đă chấp nhận ư niệm này và đều có quốc ca. Có khi quốc ca được chọn là một bài đă được dùng để đánh dấu sự hiện diện của nhà vua. Đó là trường hợp bài God Save The King (Trời Phù Hộ Đức Vua) hay God Save The Queen (Trời Phù Hộ Nữ Hoàng) nếu quốc trưởng là một nữ hoàng. Bài này đă được dùng ở Anh từ trước Cách Mạng Pháp, nhưng đến năm 1825 mới được chánh thức xem là quốc ca của nước Anh.

 

B/ CÁC BẢN NHẠC ĐĂ XUẤT HIỆN Ở VIỆT NAM VỚI TƯ CÁCH LÀ QUỐC THIỀU VÀ QUỐC CA

 

1/ Quốc ca xuất hiện đầu tiên: bản Đăng Đàn Cung của Hoàng Đế Bảo Đại

 

Ở Việt Nam trước đây, cũng như ở các nước quân chủ cổ thời khác, có những bản nhạc và bài hát được dùng trong các lễ long trọng để đánh dấu sự hiện diện của nhà vua. Về ư niệm quốc thều hay quốc ca, nó chỉ xuất hiện ở nước ta khi dân tộc ta bị lọt vào ách thực dân Pháp.

 

Tuy nhiên, trong gần suốt thời kỳ Pháp thuộc, dân Việt Nam vẫn chưa có quốc thiều và quốc ca. Nam Kỳ lúc ấy là thuộc địa Pháp và khi có các cuộc lễ lớn th́ bản nhạc được dùng là bài Marseillaise của người Pháp. Ở Huế th́ triều đ́nh nhà Nguyễn có một số bản nhạc được dùng khi có sự hiện diện của nhà vua. Nhưng các bản nhạc trên đây không phải là quốc thiều hay quốc ca theo đúng nghĩa kim thời của nó.

 

Đến thời Thế Chiến II, Hoàng Đế Bảo Đại mới ấn định quốc thiều và quốc ca một lượt với quốc kỳ. Bản quốc thiều và quốc ca này là bản Đăng Đàn Cung. Đó là một bản nhạc cổ điển của Việt Nam và được triều đ́nh Huế dùng khi nhà vua ngự đến đài Nam Giao để đại diện cho tất cả thần dân làm lễ tế trời. Lễ này ba năm cử hành một lần và được xem là cuộc lễ quan trọng hơn hết của triều đ́nh. Do đó, bản Đăng Đàn Cung được xem là bản nhạc trang nghiêm nhứt. V́ vậy, Hoàng Đế Bảo Đại đă dùng nó làm quốc thiều và quốc ca trong khi cờ long tinh được chọn làm quốc kỳ. Cũng như cờ long tinh, bản Đăng Đàn Cung chỉ được dùng trên lănh thổ Đại Nam tức là Trung Kỳ và Bắc Kỳ, c̣n ở Nam Kỳ bị xem là lănh thổ Pháp th́ bản Marseillaise vẫn phải được dùng.

 

2/ Quốc ca thứ nh́: bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông thời chánh phủ Trần Trọng Kim

 

Sau khi Nhựt đảo chánh Pháp và Việt Nam tuyên bố độc lập, chánh phủ Trần Trọng Kim đă ban bố một chương tŕnh hưng quốc ngày 8 tháng 5 năm 1945, trong đó bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông của nhạc sĩ Hùng Lân được chọn làm quốc ca. Lời ca của bản nhạc này như sau:

 

Việt Nam, minh châu trời Đông!

Việt Nam, nước thiêng Tiên Rồng!

Non sông như gấm hoa uy linh một phương,

Xây vinh quang ngất cao bên Thái B́nh Dương.

Từ ngàn xưa tài danh lừng lẫy khắp nơi.

Tiếng anh hùng tạc ghi núi sông muôn đời.

Máu ai c̣n vương cỏ hoa.

Giục đem tấm thân xẻ với sơn hà.

Giơ tay cương quyết,

Ta ôn lời thề ước.

Hy sinh tâm huyết,

Ta báo đền ơn nước.

Dầu thân này nát tan tành gói da ngựa cũng cam,

Thề trọn niềm trung thành với sơn hà nước Nam.

 

Bản quốc ca này được dùng chung với Cờ Quẻ Ly ở Bắc và Trung Việt, nhưng không được dùng ở Nam Việt v́ Nam Việt đă bị người Nhựt thay người Pháp điều khiển một cách trực tiếp và chỉ được trả cho triều đ́nh Huế lúc Hoàng Đế Bảo Đại đă sắp thoái vị rồi. Vậy, trong thời kỳ từ khi người Nhựt đảo chánh Pháp cho đến khi Mặt Trận Việt Minh củng cố được chánh quyền của nó ở Nam Việt, cả lănh thổ này không có quốc ca. Bài hát được người quốc gia ở Nam Việt dùng khi đứng lên tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam thời đó là bài Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên của Thanh Niên Tiền Phong, chung với cờ vàng sao đỏ cũng của tổ chức này. Như chúng tôi sẽ tŕnh bày sau đây, bản nhạc của bài Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên này chính là bản nhạc của bài quốc ca mà chúng ta đang dùng.

 

3/ Quốc ca thứ ba: bản Tiến quân ca của tập đoàn CSVN

 

Khi cướp được chánh quyền. tập đoàn CSVN đă dùng làm quốc ca bản Tiến Quân Ca của nhạc sĩ Văn Cao. Bản nhạc này đă được họ bắt đầu dùng khi tổ chức các đơn vị vơ trang đầu tiên và cho đến nay, vẫn được họ dùng làm quốc ca.

 

4/ Quốc ca của Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc

 

Khi Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc thành lập năm 1946, những người cầm đầu phong trào Nam Kỳ Tự Trị đă dùng làm quốc ca một bản phổ nhạc của mấy câu thơ đầu trong Chinh Phụ Ngâm Khúc mà tác giả là Giáo Sư Vơ Văn Lúamột giáo sư trung học thời Pháp thuộc. Sau đó, Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc lại dùng một bản nhạc khác cũng của vị giáo sư này làm quốc ca, nhưng về nhạc và lời, bản sau này cũng chẳng hơn ǵ bản trước. Các bản quốc ca quái đản trên đây thật xứng với lá cờ sốt rét dùng làm quốc kỳ cho Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc. Nó đă là một đề tài chế giễu của người dân Nam Việt lúc đó và ngày nay nhắc lại nó, chúng tôi không biết nên cười hay nên khóc v́ tuy hết sức lố bịch, nó đă được dùng làm biểu tượng cho một tổ chức chống lại nền thống nhứt của Việt Nam và đă gây nhiều đau khổ chết chóc cho những người tranh đấu cho nền thống nhứt này.

 

5/ Quốc ca của chúng ta ngày nay

 

Bản quốc ca của chúng ta hiện nay có một lịch sử đặc biệt. Người sáng tác bản nhạc là Lưu Hữu Phước, một cựu học sinh trường trung học Pétrus Kư và cựu sinh viên Viện Đại Học Hà Nội. Nếu tôi không lầm th́ bản nhạc này đă được soạn ra lúc Lưu Hữu Phước c̣n học ở trường Pétrus Kư. Năm 1942, anh ta là sinh viên của Viện Đại Học Hà Nội. Thời Thế Chiến II, Viện Đại Học này là Viện Đại Học duy nhứt của các nước Đông Dương. Nó có khoảng 800 sinh viên trong đó phân nửa là người Việt Nam, c̣n lại là người Khmer, người Lào, người Pháp và ngay cả người một số nước láng giềng như Trung Quốc và các nước Đông Nam Á Châu.

 

V́ là Viện Đại Học duy nhứt của Đông Dương nên Viện Đại Học Hà Nội đă họp tập tất cả sinh viên Việt Nam thời đó. Các sinh viên ái quốc gia nhập các chánh đảng cách mạng tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam đă tổ chức những tổ bí mật tại đó. Đặc biệt Đại Việt Quốc Dân Đảng có đảng trưởng Trương Tử Anh và một cán bộ nồng cốt là Anh Nguyễn Tôn Hoàn học tại Viện Đại Học Hà Nội thời Thế Chiến II. Anh Nguyễn Tôn Hoàn là người giỏi về nhạc nên được bầu làm Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương (Association Générale des Étudiants Indochinois) và anh đă lănh nhiệm vụ bí mật hướng dẫn các sinh viên hoạt động về văn hóa theo chiều hướng tranh đấu chống thực dân.

 

 

Chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942, Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương (THSVĐD) đă tổ chức tại Đại Giảng Đường của Viện Đại Học Hà Nội một buổi hát để lấy tiền giúp các bịnh nhơn nghèo của các bịnh viện được dùng làm nơi thực tập cho các sinh viên Khoa Y Dược. Các sinh viên Việt Nam đóng vai tuồng chủ động trong Tổng Hội đă quyết định nhơn cơ hội này tung ra một bản nhạc đặc biệt là Sinh Viên Hành Khúc, tên Pháp là Marche des Étudiants. Anh Nguyễn Tôn Hoàn được ủy nhiệm chọn bản nhạc dùng vào công việc đó. Lúc ấy, Lưu Hữu Phước đă đưa cho anh một số bài nhạc do anh ta soạn. Anh Nguyễn Tôn Hoàn nhận thấy rằng trong tất cả các dự thảo của Lưu Hữu Phước, bản nhạc mà chúng ta hiện dùng làm quốc thiều có tánh cách khích động tinh thần tranh đau hơn hết nên đă chọn nó làm nhạc cho Sinh Viên Hành Khúc. Sau đó, một ủy ban soạn lời ca cho bản nhạc này đă được thành lập với Đặng Ngọc Tốt, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng, Phan Thanh Ḥa, Hoàng Xuân Nhị. Lời ca này gồm ba đoạn với một điệp khúc chung:

 

I.

 

Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!

Đồng ḷng cùng đi, đi, mở đường khai lối.

V́ non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên,

Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!

Hồn thanh xuân như gương trong sáng,

Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!

Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,

Dầu muôn chông gai vững ḷng chi sá.

Đường mới kíp phóng mắt nh́n xa bốn phương,

Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường.

 

(Điệp khúc)

 

Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!

Sinh viên ơi! Ta thề đem hết ḷng!

Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!

Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!

 

II.

 

Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết c̣n chưa xoá!

Hùng cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia đá!

Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn,

B́nh bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn.

Hồ Tây tranh phong oai son phấn,

Lừng tiếng Sát Thát Trần Quốc Tuấn.

Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam,

Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám.

Ṇi giống có khí phách từ xưa chớ quên,

Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền.

 

(Trở lại điệp khúc)

 

III.

 

Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng,

Hành tŕnh c̣n xa, chúng ta phải cùng nhau gắng!

Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông,

Ngày nay ta cũng đem ḷng son cho giống ḍng.

Là sinh viên vun cây văn hoá,

Từ trước sẵn có nhiều hoa lá.

Đời mới kiến thiết đáp ḷng những ai

Hằng mong ta ra vững cầm tay lái.

Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi

Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!

 

(Trở lại điệp khúc)

 

Các lời ca tiếng Việt như trên đây được dùng cho sinh viên Việt Nam và có mục đích thúc đẩy người Việt Nam tranh đấu cho đất nước Việt Nam. Nhưng v́ như trên đă nói, Viện Đại Học Hà Nội lúc ấy c̣n có nhiều sinh viên không phải Việt Nam nên ngoài lời ca tiếng Việt, lại c̣n có lời ca tiếng Pháp để mọi sinh viên của Viện đều có thể dùng nó được. Lời ca tiếng Pháp này dĩ nhiên là không thể nói riêng về Việt Nam mà phải nói đến cả Đông Dương để cho phù hợp với tên THSVĐD. Lời ca tiếng Pháp cũng do ủy ban nói trên đây soạn ra:

 

Étudiants! Du sol l’appel tenace

Pressant et fort, retentit dans l’espace.

Des côtes d’Annam aux ruines d’Angkor,

À travers les monts, du sud jusqu’au nord,

Une voix monte ravie:

Servir la chère Patrie!

Toujours sans reproche et sans peur

Pour rendre l’avenir meilleur.

La joie, la ferveur, la jeunesse

Sont pleines de femmes promesses.

 

(Điệp khúc)

 

Te servir, chère Indochine,

Avec coeur et discipline,

C’est notre but, c’est notre loi

Et rien n’ébranle notre foi!

 

Buổi hát chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942 đă đưa đến những kết quả mỹ măn và bản Sinh Viên Hành Khúc tên Pháp là Marche des Étudiants đă được chánh thức công nhận là bản nhạc của THSVĐD. Mùa hè năm đó, Tổng Hội này lại tổ chức một buổi lễ măn khoá tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Lần này, có Toàn Quyền Đông Dương và nhiều viên chức cao cấp Pháp khác đến dự. Bản Sinh Viên Hành Khúc được dàn nhạc của Hải Quân Pháp tŕnh tấu. Âm điệu hùng hồn của nó đă làm mọi ngưoi khích động và khi nó được trổi lên, tất cả mọi ngưoi tham dự lễ măn khoá năm 1942 của Viện Đại Học Hà Nội, kể cả các viên chức cao cấp Pháp, đều đă nghiêm chỉnh đứng dậy để chào nó. Sau đó, nó được phổ biến khắp nơi. Các sinh viên Pháp, Khmer và Lào dĩ nhiên là theo lời ca Pháp. Về phía Việt Nam th́ các sinh viên chỉ lo đi học chớ không có nhiệt tâm tranh đấu chánh trị cũng chỉ biết có lời ca Pháp. Phần các sinh viên Việt Nam có nhiệt tâm tranh đấu cho nền độc lập của dân tộc th́ đem ra phổ biến ở khắp cả ba kỳ trong kỳ nghỉ hè năm đó với lời ca tiếng Việt, nhứt là đoạn I nói trên đây. V́ thế, từ năm 1943, bài Sinh Viên Hành Khúc đă được người Việt Nam ở cả ba kỳ biết.

 

Năm 1945, sau khi Nhựt đảo chánh Pháp, Thanh Niên Tiền Phong được thành lập ở Nam Việt và lấy bản nhạc trên đây làm đoàn ca. Tên bản nhạc được đặt lại là Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên. Về lời th́ hai chữ “sinh viên” được thay bằng hai chữ “thanh niên”. Lúc người Pháp trở lại chiếm Nam Việt cuối năm 1945, Thanh Niên Tiền Phong đă huy động người ái quốc Việt Nam ở Nam Việt đứng lên chống lại họ dưới lá cờ vàng sao đỏ và bản Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên.

 

Năm 1948, trong phiên họp lịch sử ở Hongkong giữa Cựu Hoàng Bảo Đại và một số thân hào nhơn sĩ cùng đại diện các đoàn thể chánh trị và tôn giáo ở Việt Nam, Anh Nguyễn Tôn Hoàn đă đề nghị lấy bản nhạc của Thanh Niên Hành Khúc làm quốc thiều cho Quốc Gia Việt Nam. Hội nghị đă đồng ư và tên bản nhạc được đặt lại là Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Về lời ca, đoạn I của bài Thanh Niên Hành Khúc nói trên đây đă được dùng, với hai chữ công dân thay cho hai chữ thanh niên.

 

Ngày 2 tháng 6 năm 1948, chánh phủ lâm thời Việt Nam được thành lập với Tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ Tướng và Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân được chánh thức dùng làm quốc ca. Lúc Ông Ngô Đ́nh Diệm phế truất Quốc Trưởng Bảo Đại để thành lập chế độ cộng hoà, Quốc Hội Lập Hiến được bầu năm 1956 đă có đặt vấn đề chọn một bài quốc ca khác. Tuy nhiên, lúc đó, phần lớn các bản nhạc được đề nghị dùng làm quốc ca đều không đủ tiêu chuẩn để được chấp nhận. Bài duy nhứt được xem là xứng đáng làm quốc ca chính là bài Việt Nam Minh Châu Trời Đông của nhạc sĩ Hùng Lân đă được chánh phủ Trần Trọng Kim chọn làm quốc ca năm 1945. Tuy nhiên, hai Ông Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu cuối cùng đă không chấp nhận việc dùng bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông làm quốc ca v́ một lư do đặc biệt.

 

Năm 1945, hai đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) và Đại Việt Quốc Dân Đảng (ĐVQDĐ) đă sáp nhập lại làm một với tên chung là Quốc Dân Đảng và Đảng này đă lấy bài Việt Nam Minh Châu Trời Đông làm đảng ca. Sau đó, VNQDĐ và ĐVQDĐ lại tách nhau ra, nhưng cả hai đều giữ đảng ca Việt Nam Minh Châu Trời Đông. V́ biết được việc này nên hai anh em Ông Diệm đă không chấp nhận bản nhạc này làm quốc ca. Rốt cuộc, Quốc Hội Lập Hiến năm 1956 đă quyết định giữ lại bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân làm quốc ca, nhưng đổi lời lại như sau:

 

Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng.

Đồng ḷng cùng đi, hy sinh tiếc ǵ thân sống!

V́ tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,

Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.

Dầu cho thây phơi trên gươm giáo,

Thù nước lấy máu đào đem báo.

Ṇi giống lúc biến phải cần giải nguy,

Người công dân luôn vững bền tâm trí,

Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi

Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!

 

(Điệp khúc)

 

Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!

Công dân ơi! Mau làm cho cơi bờ

Thoát cơn tàn phá, vẻ vang đời sống

Xứng danh ngàn năm ḍng giống Lạc Hồng.

 

Bản nhạc và lời ca này đă được dùng suốt thời Đệ Nhứt và Đệ Nhị Cộng Ḥa cho đến ngày nay.

 

C/ VẤN ĐỀ THAY ĐỔI QUỐC CA

 

Nói tóm lại, trừ các bản nhạc vô duyên đă được Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc dùng làm quốc ca, nhưng thật sự không thể xem là quốc ca được, dân tộc Việt Nam có cả thảy bốn bản nhạc xứng đáng với danh nghĩa quốc ca là Đăng Đàn Cung, Việt Nam Minh Châu Trời Đông, Tiến Quân Ca và Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Bốn bản quốc ca này đă được dùng song song với bốn lá quốc kỳ: bản Đăng Đàn Cung với cờ long tinh, bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông với Cờ Quẻ Ly, bản Tiến Quân Ca với cờ đỏ sao vàng và bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân với Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ

 

1/ So sánh các bản quốc ca với nhau

 

Bản Đăng Đàn Cung là bản nhạc cổ điển Việt Nam thuộc loại nhă nhạc. Loại nhạc này có tánh cách nghiêm trang và ôn ḥa, trái với dâm nhạc là loại nhạc biểu lộ t́nh cảm một cách nồng nhiệt và chỉ được dùng trong việc giải trí hay hội họp vui chơi. Bản Đăng Đàn Cung là một bài nhă nhạc dùng trong lễ tế Nam Giao của nhà vua. Do đó, nó có tánh cách trang trọng, nhưng không hùng hồn và không khích động được tinh thần người nghe.

 

Bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông là một bản tân nhạc có tánh cách khích động hơn bản Đăng Đàn Cung, nhưng cái hùng của nó là loại trầm hùng nên không khích động tinh thần người nghe bằng bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. V́ là một hành khúc, bản quốc ca hiện nay của chúng ta khích động tinh thần người nghe một cách mạnh mẽ hơn. Mặt khác nữa, hoàn cảnh lịch sử đă làm cho nó đóng một vai tuồng tích cực trong cuộc tranh đấu cho nền độc lập và tự do của dân tộc Việt Nam. Thời Thế Chiến II, với tên là Sinh Viên Hành Khúc, nó đă được dùng để đánh thức tinh thần tranh đấu của nhơn dân Việt Nam. Đến lúc người Pháp đem binh đến để tái chiếm Nam Việt, dưới tên Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên, nó đă được dùng để thúc đẩy các chiến sĩ cầm tầm vong vạt nhọn đứng lên tranh đấu với Quân Đội Viễn Chinh Pháp. Khi nước Pháp chánh thức nh́n nhận nền độc lập và thống nhứt của Việt Nam, nó đă thành bản quốc ca với tên là Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân.

 

Bản Tiến Quân Ca của CSVN cũng có tánh cách khích động tinh thần người nghe như bản quốc ca của chúng ta. Nhưng về lời ca th́ từ h́nh thức Sinh Viên Hành Khúc qua Thanh Niên Hành Khúc đến Quốc Dân Hành Khúc, bản quốc ca của chúng ta nhiều lắm là nói đến “thù nước lấy máu đào đem báo,” c̣n Tiến Quân Ca với lời “thề phanh thây uống máu quân thù,” rơ là sắt máu quá và có thể làm cho thế giới xem dân tộc Việt Nam là dă man. Về mặt chánh trị, bản Thanh Niên Hành Khúc đă được dùng để thúc đẩy các thanh niên ái quốc Nam Việt cầm tầm vông vạt nhọn chống lại Quân Đội Viễn Chinh Pháp trong khi bản Tiến Quân Ca đă được trổi lên để chào đón Quân Đội này lúc họ đổ bộ ra Bắc Việt theo sự thoả thuận với Hồ Chí Minh trong Sơ Ước ngày 6 tháng 3 năm 1946. Sau đó, nó đă được dùng khi bộ đội Việt Minh cùng với bộ đội Pháp hợp tác nhau trong Ban Liên Kiểm Việt-Pháp để tiến đánh các chiến khu của Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội.

 

2/ Lư luận của những người muốn đổi quốc ca

 

Những người muốn đổi quốc ca đă đưa ra nhiều lư luận khác nhau. Trong các lư luận được đưa ra, chỉ có một cái đáng cho chúng ta lưu ư. Lư luận này đặt nền tảng trên chỗ tác giả bản nhạc được chúng ta dùng làm quốc ca là Lưu Hữu Phước, hiện là một cán bộ cộng sản. Lưu Hữu Phước đă lên tiếng sỉ vả người quốc gia Việt Nam là vô liêm sỉ khi lấy bản nhạc của anh ta và đặt lại lời ca để dùng. Một số người quốc gia Việt Nam đă tỏ ra khó chịu về việc này và những người muốn thay đổi quốc ca đă dựa vào đó để kêu gọi mọi người bỏ bản quốc ca hiện tại.

 

a) Nhận định về cá nhơn Lưu Hữu Phước

 

V́ lư luận trên đây dựa vào cá nhơn Lưu Hữu Phước nên chúng ta cần phải biết về cá nhơn này trước khi phán đoán. Thời Thế Chiến II, Lưu Hữu Phước là một sinh viên có tinh thần quốc gia và cũng như nhiều sinh viên khác của Viện Đại Học Hà Nội, chỉ có chủ trương giành độc lập cho Việt Nam mà không gia nhập đoàn thể chánh trị nào. Lúc CSVN chưa cướp được chánh quyền, Lưu Hữu Phước đă hoạt động với Anh Nguyễn Tôn Hoàn là một cán bộ của Đại Việt Quốc Dân Đảng tại Viện Đại Học Hà Nội.

 

Lúc CSVN cướp được chánh quyền, Lưu Hữu Phước và một số sinh viên khác gia nhập Đảng Tân Dân Chủ, một chánh đảng hợp tác với CSVN trong Mặt Trận Việt Minh, nhưng lúc đầu phân biệt với Đảng CSVN và nhiều khi cạnh tranh lại đảng này. Tuy nhiên, bằng cách vừa mua chuộc, vừa lấn ép, CSVN đă lôi phần lớn các đảng viên Tân Dân Chủ vào Đảng CS và chỉ c̣n dùng tên Đảng Tân Dân Chủ làm một nhăn hiệu để làm cho người ta lầm tưởng rằng chế độ họ xây dựng lên không phải là chế độ độc đảng.

 

Lưu Hữu Phước thuộc thành phần đảng viên Tân Dân Chủ bị lôi kéo vào Đảng CS. Anh ta không đủ khí phách để chống lại việc đó và bị loại ra khỏi trường chánh trị như Đặng Ngọc Tốt, cũng không đủ tinh thần sắt máu để được CSVN tin dùng như Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng, Trần Bửu Kiếm. Mặt khác, anh ta không có một khả năng đặc biệt về chánh trị mà CSVN có thể khai thác được như Mai Văn Bộ. Trước sau, Lưu Hữu Phước chỉ là một nhạc sĩ. Do đó, CSVN đă dùng anh ta như một văn công, sản xuất nhạc theo lịnh Đảng và lên tiếng về các vấn đề khác những khi Đảng thấy cần. Nói tóm lại, Lưu Hữu Phước đă sáng tác bản nhạc của Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân lúc c̣n là một sinh viên có tinh thần quốc gia. Ngày nay, anh ta là một văn công của CSVN và mọi lời phát biểu của anh ta chỉ là do Đảng CSVN mớm cho.

 

b) Quan niệm chung của người các nơi trên thế giới về quốc ca

 

Nhưng dầu cho lúc sáng tác bản nhạc của Quốc Dân Hành Khúc, Lưu Hữu Phước đă là một đảng viên cộng sản rồi và việc chỉ trích chúng ta dùng bản nhạc đó là do ư anh ta, chúng ta cũng không phải bận tâm về vấn đề này, v́ theo quan niệm chung của người các nơi trên thế giới về quốc ca th́ khi một bản nhạc đă được quốc dân nhận làm quốc ca, nó không c̣n của riêng ai nữa mà là của toàn dân. Do đó, cá nhơn người sáng tác bản nhạc cũng như người chọn bản nhạc làm quốc ca không thành một vấn đề đem ra thảo luận. Chúng ta có một tiền lệ đáng lưu ư về việc này.

 

Đó là trường hợp bản Marseillaise được dùng làm quốc ca Pháp. Bản quốc ca này được một nhà quí tộc Pháp là Rouget de Lisle sáng tác năm 1792. Lúc ấy, Vua Louis thứ XVI c̣n trị v́ và Rouget de Lisle là một sĩ quan trong Quân Đội Pháp. Năm 1793, Vua Louis thứ XVI bị xử tử và Rouget de Lisle bị bắt v́ là người quí tộc theo phe bảo hoàng chống lại Cách Mạng. Lúc ấy, Ông Lazare Carnot, Ủy Viên Quốc Pḥng của Hội Đồng Cách Mạng v́ muốn cứu một sĩ quan cùng binh chủng với ḿnh, lại là tác giả bản Marseillaise, đă đề nghị Rouget de Lisle tuyên thệ trung thành với Cách Mạng th́ sẽ được tha, nhưng Rouget de Lisle từ chối v́ không chịu phủ nhận lư tưởng bảo hoàng của ḿnh. Cuối cùng, ông ta chỉ thoát chết v́ chánh phủ cách mạng chủ trương Đại Khủng Bố do Robespierre cầm đầu đă bị lật đổ trước khi bản án tử h́nh của ông ta được đem ra thi hành. Nhưng mặc dầu sau năm 1793, Rouget de Lisle đă trở thành người chống lại Cách Mạng, chánh quyền cách mạng Pháp vẫn tiếp tục dùng bản Marseillaise do ông sáng tác và năm 1795 đă chánh thức quyết định lấy nó làm quốc ca.

 

c) Trường hợp bản Tiến Quân Ca được tập đoàn CSVN dùng làm quốc ca

 

Bản Tiến Quân Ca được tập đoàn CSVN dùng làm quốc ca vốn do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác trong thời kỳ CSVN chưa cướp được chánh quyền ở Việt Nam. Không rơ lúc ông sáng tác bản nhạc này, Văn Cao đă là một đảng viên cộng sản hay chưa. Nhưng chắc chắn là về sau, ông đă vào Đảng CSVN. Tuy nhiên, cũng như nhiều văn nghệ sĩ có nhiệt tâm yêu nước thời đó, Văn Cao đă lần lần nhận chân được bộ mặt thật của Cộng Sản. Điều đáng quí là ông đă can đảm hơn nhiều người khác như Lưu Hữu Phước chẳng hạn, và đă dám nói lên sự bất măn và chống đối của ḿnh. Ông đă tham dự phong trào Nhân Văn Giai Phẩm hồi năm 1956 và đă dứt khoát chống lại Đảng CSVN. Trong con mắt của CSVN hiện nay, Văn Cao là một phần tử phản Đảng, phản động, phản cách mạng.

 

Với chủ trương độc tài sắt máu và ḷng tự hào là Đảng ḿnh lúc nào cũng hành động hợp với chánh nghĩa, CSVN rất xấu hổ về chỗ bản quốc ca họ dùng là sáng tác của một nhạc sĩ phản Đảng, phản động và phản cách mạng. Bởi đó, họ không chịu theo quan niệm thông thường bắt đầu với lịch sử bản Marseillaise của Pháp, nghĩa là bất chấp lập trường chánh trị về sau của tác giả bản quốc ca. Họ đă treo một giải thưởng lớn cho người sáng tác được một bản nhạc đáng làm quốc ca mới. Nhưng trong nhiều trăm bản nhạc gởi đến dự thi, họ đă không chọn được bản nào ra hồn. Cuối cùng, họ phải hậm hực giữ bản Tiến Quân Ca làm quốc ca.

 

Người quốc gia Việt Nam chúng ta theo quan niệm thông thường trên thế giới về quốc ca nên không có ǵ phải hậm hực v́ tác giả bản quốc ca chúng ta đang dùng hiện đă trở thành một văn công của CSVN. Và nếu có người nào đem việc Lưu Hữu Phước sỉ vả chúng ta về chỗ đă lấy bản nhạc do anh ta sáng tác làm quốc ca, chúng ta có thể bảo họ nên dùng các lời sỉ vả đó đặt trong miệng Văn Cao để gởi cho tập đoàn CSVN.

 

3/ Nhiệm vụ của người quốc gia Việt Nam đối với bản quốc ca Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân

 

Người quốc gia Việt Nam may mắn có một bản quốc ca hùng hồn được dùng để thúc đẩy người ái quốc tranh đấu cho nền độc lập và sự tự do của dân tộc. Bản quốc ca này rất xứng đáng với lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ. Với giá trị nội tại của chính nó, thêm vào vai tuồng lịch sử mà nó đă đóng, nó lúc nào cũng gây sự xúc động mạnh mẽ trong tâm trí người Việt Nam ái quốc. Từ khi được chánh thức dùng làm quốc ca của nước Việt Nam độc lập, nó đă được nhiều quốc gia trên thế giới biết đến. Tại Việt Nam, nó đă cùng với quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ làm yếu tố hội tập nhiều triệu chiến sĩ quân nhơn như dân sự tranh đấu cho sự tự do của dân tộc Việt Nam. Nó đă là bản nhạc tiễn đưa ra nghĩa trang nhiều trăm ngàn người đă chết v́ Tổ Quốc Việt Nam. Như vậy, nó cũng là một bảo vật thiêng liêng của chúng ta y như quốc kỳ.

 

Hiện nay, bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân không c̣n được chánh thức dùng bên trong nước Việt Nam, nhưng như mọi người Việt Nam ở quốc nội đều biết rằng đó là bản nhạc của người quốc gia chống lại Cộng Sản. Bên ngoài Việt Nam, nó cũng được người ngoại quốc xem là bản nhạc biểu tượng cho người quốc gia chống cộng. Không bản nhạc nào khác có thể thay thế Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân về mặt này. Vậy, việc tôn trọng bản quốc ca đó và tiếp tục dùng nó chung với quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ một cách rộng răi ở mọi nơi là một công cuộc đóng góp vào việc giải phóng Việt Nam khỏi ách Cộng Sản. Nếu mọi người Việt Nam ở hải ngoại đều đồng tâm nhứt trí để tranh đấu chung nhau th́ một ngày không xa lắm, bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân sẽ được hát lên ở khắp các nẻo đường đất nước Việt Nam từ mũi Cà Mau đến ải Nam Quan. Chúng tôi nghĩ rằng lúc ấy, chắc chắn không có bài khải hoàn ca nào hay hơn nó được.

 

(Cố Gs Nguyễn Ngọc Huy)

Tiếng Gọi Công Dân

 

Cao-Đắc Tuấn (Danlambao) - Tóm lược: Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" được dùng làm quốc ca của Việt Nam Cộng Hòa một cách hợp pháp qua các sự kiện lịch sử và học thuyết pháp lý, và nói lên tinh thần dân tộc của người miền Nam không có sự đố kỵ tác giả nhạc điệu, Lưu Hữu Phước, là đảng viên cộng sản. Bài hát là một bài quốc ca bất hủ, có giai điệu trầm bổng, hùng hồn, tiết tấu thay đổi, và lời ca có bố cục chặt chẽ, phù hợp với nhạc điệu và dùng chữ hữu hiệu, đượm nét dân tộc, kêu gọi toàn dân Việt Nam nổi dậy bảo vệ non sông và cứu nguy đất nước. "Tiếng Gọi Công Dân" nên được dùng là biểu tượng quốc gia cho Việt Nam, hoặc ít nhất là biểu tượng cho phong trào đấu tranh cho tự do dân chủ tại Việt Nam.

 

***

 

Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" là bài quốc ca của Việt Nam trong thời kỳ Quốc Gia Việt Nam (1948-1955) và miền Nam Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng Hòa (Đệ Nhất và Đệ Nhị) (1956-1975). Tác giả bài hát này thường được cho là Lưu Hữu Phước, nhưng thực ra bài "Tiếng Gọi Công Dân" chỉ dùng nhạc điệu của bài "La Marche Des Étudiants" do Lưu Hữu Phước viết nhạc, nhưng lời thì do Đài phát thanh Sài Gòn viết lại, khác đến 85% phiên bản tiếng Việt sau này của Lưu Hữu Phước. Sự ra đời của "Tiếng Gọi Công Dân" là quốc ca của Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) có nhiều chi tiết thú vị, nhất là vì Lưu Hữu Phước là đảng viên đảng cộng sản Bắc Việt trong thời chiến tranh Nam Bắc. Những chi tiết về lịch sử của "Tiếng Gọi Công Dân" sẽ được trình bàu sau.

 

Tác giả của "Tiếng Gọi Công Dân" gồm có Lưu Hữu Phước về âm nhạc và Đài phát thanh Sài Gòn về lời nhạc. Vì tôi không rõ ai trong Đài phát thanh Sài Gòn viết lại lời nhạc, sau đây tôi chỉ trình bày vắn tắt tiểu sử của Lưu Hữu Phước (Wikipedia 2015h). Tuy nhiên, ta không nên quên sự đóng góp của những người vô danh của Đài phát thanh Sài Gòn.

 

Lưu Hữu Phước sinh năm 1921 tại tỉnh Cần Thơ. Khoảng cuối thập niên 1930, ông lên Sài G̣n học tại trường Petrus Kư. Vào cuối năm 1939, ông sáng tác bài hát "La Marche des Étudiants," và cùng Mai Văn Bộ đặt lời tiếng Pháp để làm bài hát chính thức của Câu lạc bộ học sinh. Sau khi đỗ tú tài, Lưu Hữu Phước ra Hà Nội học trường Y - Dược, thuộc Viện Đại học Đông Dương (1940-1944). Thời này, phong trào đấu tranh chính trị của sinh viên Đông Dương rất mạnh mẽ. Lưu Hữu Phước nhanh chóng trở thành một trong những thủ lĩnh của phong trào,

 

Năm 1944, Lưu Hữu Phước tham gia Việt Minh và được giao phó những nhiệm vụ vận động cách mạng. Sau đó, ông hoạt động với cộng sản Bắc Việt về các lãnh vực văn hóa và âm nhạc. Sau năm 1975, ông làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Âm nhạc (1978-1989), và đảm nhận nhiều chức vụ về văn hóa, giáo dục, và nghệ thuật trong nhóm cầm quyền cộng sản. Ông mất năm 1989 tại Sài Gòn.

 

Các tác phẩm nổi tiếng của ông gồm có Tiếng Gọi Thanh Niên, Bạch Đằng Giang, Hồn Tử Sĩ, Giải Phóng Miền Nam (ca khúc đại diện Việt cộng).

 

Nguyên văn lời bài hát "Tiếng Gọi Công Dân" như sau (Ban 2009):

 

Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng

Đồng ḷng cùng đi hy sinh tiếc ǵ thân sống.

V́ tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,

Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.

 

Dù cho thây phơi trên gươm giáo,

Thù nước, lấy máu đào đem báo.

Ṇi giống lúc biến phải cần giải nguy,

Người công dân luôn vững bền tâm trí.

Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi

Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!

 

Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!

Công dân ơi! Mau làm cho cơi bờ

Thoát cơn tàn phá, vẻ vang ṇi giống

Xứng danh ngh́n năm gịng giống Lạc Hồng!

 

 

 

Trong bài này, tôi sẽ trình bày bối cảnh và các diễn tiến lịch sử dẫn đến sự ra đời của "Tiếng Gọi Công Dân" và phân tích các khía cạnh pháp lý về việc ca khúc này được dùng là quốc ca của VNCH. Ngoài ra, như thường lệ, tôi sẽ thảo luận về các khía cạnh của bài hát, nội dung và hình thức. Tôi dùng "khán giả" để chỉ người nghe, người đọc, và người xem.

 

A. "Tiếng Gọi Công Dân" ra đời trong thời kỳ sôi bỏng tại Đông Dương với sự hình thành của quốc gia Việt Nam độc lập

 

Có nhiều tài liệu viết về nguồn gốc của "Tiếng Gọi Công Dân" và các tiền thân của bài hát (Xem, thí dụ như, Bạch 2014; Biển Nhớ; Nguyễn Lưu Viên; Nguyễn Ngọc Huy), và có rất nhiều tài liệu lịch sử về những biến cố và sự kiện xảy ra trong khoảng đầu thế kỷ 20 tại Đông Dương và Việt Nam. Sau đây, tôi sẽ chỉ trình bày vắn tắt các khía cạnh liên hệ đến Lưu Hữu Phước và "Tiếng Gọi Công Dân" là quốc ca của Quốc Gia Việt Nam và VNCH.

 

Năm 1939 mở đầu thời kỳ dầu sôi lửa bỏng tại Đông Dương và thế giới khi Thế Chiến II bùng nổ. Cuối năm này, Lưu Hữu Phước viết nhạc và Mai Văn Bộ viết lời (tiếng Pháp) "La Marche des Étudiants."

 

Năm 1941, Lưu Hữu Phước viết lời Việt và đổi tựa bài là "Tiếng Gọi Sinh Viên" hay "Sinh Viên Hành Khúc," được Tổng hội Sinh Viên Đông Dương dùng là ca khúc nghi lễ của Tổng hội. Có tài liệu cho biết Mai Văn Bộ và Nguyễn Thành Nguyên viết lời Việt cho "Tiếng Gọi Sinh Viên" (Nguyễn Lưu Viên).

 

Năm 1941, Hồ Chí Minh và các đồng chí thành lập Việt Minh là một tổ chức võ trang phục vụ các mục tiêu cộng sản được Tàu cộng giao phó. Vì chủ nghĩa cộng sản bị nguyền rủa bởi các thành phần quốc gia yêu nước, Hồ và các đồng chí gian manh giở trò lừa đảo bằng cách ngụy trang Việt Minh là một tổ chức quốc gia, chống Pháp (Cao-Đắc 2014). Biết bao nhiêu người trẻ tuổi có lòng yêu nước đã bị Việt Minh lừa đảo để tham gia hoặc ủng hộ Việt Minh. Đến khi họ khám phá ra bộ mặt thật của Việt Minh là cộng sản, thì quá trễ vì họ đã dính líu quá sâu vào những hoạt động cộng sản. Do đó, những người trẻ ái quốc này "bị buộc phải hợp tác với đảng cộng sản" (Buttinger 1967, 266). Những chi tiết về Việt Minh và mánh khóe của Hồ và các đồng chí đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích lý do tại sao Lưu Hữu Phước, tác giả của một ca khúc kêu gọi sinh viên nổi dậy cho tổ quốc, sau này gia nhập Việt Minh.

 

Ngày 11 tháng 3 năm 1945, vua Bảo Đại tuyên bố độc lập, thu hồi chủ quyền cho toàn quốc Việt Nam. Chính phủ Trần Trọng Kim, thành lập ngày 17 tháng 4 năm 1945, mở đường cho một cuộc lấy quyền lực sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh vào ngày 15 tháng 8 năm 1945.

 

Ngay sau khi được thành lập, ngày 8 tháng 5 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim lựa chọn biểu tượng quốc gia, đổi tên nước thành Đế Quốc Việt Nam và chọn quốc kỳ nền vàng có một quẻ Ly màu đỏ ở giữa. Về quốc ca, có tài liệu cho rằng quốc ca là bản "Việt Nam Minh Châu Trời Đông" của nhạc sĩ Hùng Lân (Nguyễn Ngọc Huy). Tuy nhiên, theo một số tài liệu, bản "Đăng Đàn Cung," bản quốc ca hoặc nhạc triều đình trước đó, vẫn được dùng là quốc ca (Marr 1995, 121). Trong hồi ký ông, Trần Trọng Kim viết, "Bài quốc ca th́ từ trước vẫn dùng bài 'Đăng Đàn' là bài ca rất cổ, mà âm điệu nghe nghiêm trang. Chúng tôi nghĩ: trước khi có bài nào hay hơn và có nghĩa lư hơn th́ hăy cứ dùng bài ấy" (Trần 1969, 60-61).

 

Tuy hiện hữu chỉ trong một thời gian ngắn (Marr 1995, 351-352), chính phủ Trần Trọng Kim có những đóng góp tích cực mở đường cho những hoạt động xây dựng một đất nước hùng mạnh vừa mới được giành độc lập. Oái oăm thay, cộng sản lợi dụng những đóng góp này trong việc cướp đoạt chính quyền bất hợp pháp vào tháng 8 năm 1945 trong cái gọi là cách mạng tháng tám (Cao-Đắc 2014). Dự án đáng nể nhất của chính phủ Trần Trọng Kim là tổ chức giới trẻ và thanh niên. Vào ngày 25 tháng 5 năm 1945, một nghị định hoàng gia đặt ra một cơ cấu có thứ tự cho các tổ chức thanh niên (Vu 1986, 309-310).

 

Quan trọng nhất trong các tổ chức thanh niên là tổ chức Thanh niên Tiền Phong (TNTP), được Thống đốc Nam Kỳ Minoda cho phép thành lập ngày 21 tháng 4 năm 1945 (Marr 1995, 134-135; Nguyễn Ngọc Huy; Wikipedia 2015c). TNTP là một tổ chức thành lập dựa vào mô hình Hướng đạo Việt Nam và Tổng hội sinh viên Đông Dương, và được sự giúp đỡ của chính phủ Trần Trọng Kim dưới sự bảo trợ của Nhật (Wikipedia 2015c). TNTP có hàng vạn thành viên lúc mới thành lập, tích cực tham gia các hoạt động xã hội như tải thương nạn nhân bom đạn, giúp đỡ nạn đói (Marr 1995, 134; Nguyễn Ngọc Huy). Trong dịp lễ tuyên thệ của TNTP vào tháng 7, 1945 tại Sài Gòn, có 50.000 thành viên tham dự. Thành viên của ủy ban lãnh đạo TNTP gồm có Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ, Trần Bửu Kiếm, Huỳnh Văn Tiếng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, và Lê Văn Huấn (Marr 1995, 135; Wikipedia 2015c). Cộng sản, dưới chiêu bài yêu nước do Việt Minh rêu rao, xâm nhập vào các hội đoàn sinh viên và thanh niên (Marr 1995, 134-135, 217-218; Vu 1986, 309-310), dẫn đến việc TNTP sau này giải tán và nhiều thành viên gia nhập Việt Minh.

 

Năm 1945, TNTP sửa đổi thêm lời bài hát "Sinh Viên Hành Khúc" và đổi tựa bài thành "Tiếng Gọi Thanh Niên" hay "Thanh Niên Hành Khúc" và dùng bài hát là ca khúc của tổ chức (Wikipedia 2015b). Như sẽ được trình bày sau, vì TNTP là một tổ chức thuộc chính phủ, ca khúc "Tiếng Gọi Thanh Niên" trở thành ca khúc thuộc chính phủ Đế Quốc Việt Nam.

 

Ngày 7 tháng 12 năm 1947, Quốc Gia Việt Nam được thành lập và có nhiều nội các chính phủ cho tới năm 1955. Nội các chính phủ trong thời Quốc Gia Việt Nam thay đổi nhiều lần, bắt đầu với Nguyễn Văn Xuân (1948-1949) cho đến Ngô Đ́nh Diệm (1954-1955) (Wikipedia 2015a).

 

Năm 1948, chính phủ Nguyễn Văn Xuân của Quốc Gia Việt Nam chọn bài "Thanh Niên Hành Khúc" làm quốc ca với tên mới là "Tiếng Gọi Công Dân" hay "Công Dân Hành Khúc." Theo Trần Văn Đôn, ông, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim, và Lê Văn Đức "đề nghị thay lá cờ vàng chữ Ly có từ chánh phủ Trần Trọng Kim ra cờ vàng ba sọc đỏ tượng trưng giòng máu dân của ba miền và lấy bài Thanh Niên Hành Khúc của Lưu Hữu Phước làm Quốc ca vì lời ca hùng hồn" (trích trong Hoàng 2002, 2177). Về Lưu Hữu Phước, Trần Văn Đôn viết, "Lúc đó tôi nghĩ Lưu Hữu Phước cũng như bao nhiêu thanh niên yêu nước khác đứng lên tranh đấu giành độc lập cho đất nước chứ chưa phải là một đảng viên cộng sản. Hơn nữa bài ca này đã sáng tác trước ngày Việt Minh lên nắm chánh quyền. Vì vậy mà Đại hội đồng ý chấp thuận đề nghị của chúng tôi" (trích trong sđd.).

 

Ngày 23 tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm, bấy giờ là Thủ tướng, tổ chức một cuộc cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại. Chính thể VNCH được thành lập vào ngày 26 tháng 10 năm 1955. Tháng 3 năm 1956, chính phủ tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội Lập hiến. Sau đó, "Quốc Hội Lập Hiến khai mạc vào tháng 3 năm 1956 và có nhiệm vụ chọn quốc ca và quốc kỳ" (Biển Nhớ). Sau khi xem xét và đánh giá các bài hát gửi cho tuyển chọn, Quốc hội Lập Hiến quyết định không lựa bài mới nào, và "duy tŕ bài quốc ca mà các chính phủ Nguyễn Văn Xuân và Nguyễn Văn Tâm đă chọn trước đó rồi ra lệnh cho nhân viên Đài phát thanh Sài G̣n sửa lại lời ca" (sđd.). Đài phát thanh Sài G̣n sửa chữa thêm để làm thành bản quốc ca của VNCH với tên gọi "Tiếng Gọi Công Dân" và ca khúc này là quốc ca của hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa tại Việt Nam cho tới năm 1975. Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" tiếp tục được duy trì là quốc ca của chính thể VNCH cho cộng đồng người Việt hải ngoại sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

 

Sau đây là lời ca khúc "Tiếng Gọi Sinh Viên" và "Tiếng Gọi Thanh Niên." Tôi chỉ trích phiên khúc gần giống nhất với bài "Tiếng Gọi Công Dân" cho so sánh. Có nhiều phiên bản khác nhau và một bản có thể có nhiều phiên khúc. Độc giả có thể tìm đọc thêm tại các tài liệu khác (Xem, thí dụ như, ConHoiThoConDauTranh 2011; Wikipedia 2015b). Phần in đậm cho thấy những chỗ khác với "Tiếng Gọi Công Dân."

 

"Tiếng Gọi Sinh Viên":

 

Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!

Đồng ḷng cùng đi, đi, đi mở đường khai lối

V́ non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên,

Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!

 

Hồn thanh xuân như gương trong sáng,

Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!

Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,

Dầu muôn chông gai vững ḷng chi sá

Đường mới kíp phóng mắt nh́n xa bốn phương,

Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường.

 

Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!

Sinh viên ơi! Ta thề đem hết ḷng!

Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!

Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!

 

"Tiếng Gọi Thanh Niên":

 

Này thanh niên ơi, tiến lên đến ngày giải phóng

Đồng ḷng cùng đi đi đi sá ǵ thân sống

Nh́n non sông nát tan thù nung tâm chí cao

Nh́n muôn dân khóc than, hờn sôi trong máu đào.

 

Liều thân xông pha ta tranh đấu

Cờ nghĩa phất phới vàng pha máu

Cùng tiến quét hết những loài dă man

Hầu đem quê hương thoát ṿng u ám

Thề quyết lấy máu nóng mà rửa oán chung

Muôn thuở v́ núi sông nêu tiếng anh hùng.

 

Anh em ơi mau tiến lên dưới cờ

Thanh niên ơi quật cường nay đến giờ

Tiến lên cùng tiến gió tung nguồn sống

Cháy trong ḷng ta ngàn mớ lửa hồng

 

Trong phần sau đây, cho vắn tắt, tôi dùng "Sinh Viên," "Thanh Niên," và "Công Dân" với các chữ "Tiếng Gọi" hoặc "Hành Khúc" được hiểu ngầm.

 

Toàn bài "Thanh Niên" có 120 chữ. Trong số này, chỉ có 18 chữ là giống y hệt với bài "Công Dân." Hai phiên bản, do đó, khác nhau 85%. Với mức độ khác nhau quá nhiều, ta có thể coi như lời bài hát được hoàn toàn viết lại bởi chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.

 

B. Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" dùng làm quốc ca của VNCH một cách hợp pháp và nói lên tinh thần dân tộc của người miền Nam:

 

Sự kiện quốc ca của Quốc Gia Việt Nam và VNCH được viết bởi một đảng viên cộng sản gây ra nhiều câu hỏi. Theo một số tài liệu, chính Lưu Hữu Phước "từ năm 1949, đă viết thư kịch liệt phản đối mạnh mẽ về việc này" (Bạch 2014). Trong thời chiến tranh Nam Bắc, từ Hà Nội, Lưu Hữu Phước từng lên Đài tiếng nói Việt Nam (Hà Nội) "liên tục bác bỏ, giễu cợt và cả mắng nhiếc về việc bài hát Sinh Viên Hành Khúc của ông 'vẫn cứ bị người bên kia chiến tuyến sử dụng vào một mục đích khác!' "(sđd.).

 

Câu hỏi đặt ra là sự chống đối của Lưu Hữu Phước có chính đáng không, và chính phủ VNCH có hành động đúng khi dùng nhạc của một đảng viên cộng sản là nhạc cho quốc ca. Câu trả lời ngắn là sự chống đối của Lưu Hữu Phước hoàn toàn vô giá trị và chính phủ VNCH hành động hợp pháp khi dùng nhạc của ông là quốc ca của VNCH, như được trình bày sau đây.

 

1. Lưu Hữu Phước đã nhường, hoặc mất, quyền sở hữu ca khúc "Tiếng Gọi Thanh Niên" cho Đế Quốc Việt Nam, Quốc Gia Việt Nam, và VNCH từ năm 1945:

 

Có hai khía cạnh pháp lý xác định Lưu Hữu Phước đã mất quyền sở hữu ca khúc "Thanh Niên" và nhạc điệu cho ca khúc "Công Dân" cho Đế Quốc Việt Nam, Quốc Gia Việt Nam, và VNCH: (1) TNTP là một tổ chức thuộc Đế Quốc Việt Nam, và (2) Học Thuyết Ngăn Chận không cho phép Lưu Hữu Phước phản đối việc dùng nhạc của ông.

 

Thảo luận về các khía cạnh pháp lý về vấn đề bản quyền của Lưu Hữu Phước ra ngoài phạm vi của bài này, vì nó đòi hỏi tìm tòi về luật bản quyền tại Việt Nam vào năm Lưu Hữu Phước viết nhạc cho bài "La Marche des Étudiants." Ta không rõ lúc bấy giờ có luật bản quyền hay không, và nếu có, các điều luật đó như thế nào. Tuy nhiên, việc đó thực ra không quan trọng, vì cho dù Lưu Hữu Phước có bản quyền lúc ông sáng tác bài "La Marche des Étudiants," ông đã nhường, hoặc mất, quyền đó lại cho Tổng hội Sinh viên Đông Dương và tổ chức TNTP, cũng như nhạc sĩ Văn Cao đã nhường quyền sở hữu ca khúc "Tiến Quân Ca" cho Việt Minh năm 1944.

 

a, Tổ chức TNTP là một tổ chức thuộc Đế Quốc Việt Nam và do đó ca khúc "Thanh Niên" của tổ chức này thuộc về Đế Quốc Việt Nam.

 

Vào tháng 7, 1945, một phái đoàn 38 người của TNTP ra Huế để gặp vua Bảo Đại. Bảo Đại phong Phạm Ngọc Thạch, người đứng đầu phong trào TNTP, là đại diện về thanh niên cho chính phủ hoàng gia tại miền Nam (Marr 1995, 135). Chi tiết này rất quan trọng vì nó thiết lập căn bản pháp lý của TNTP: đó là một cơ quan thuộc Đế Quốc Việt Nam và hoạt động dưới sự bảo trợ của chính phủ Trần Trọng Kim.

 

TNTP là một tổ chức bán quân sự (paramilitary). Thành viên được huấn luyện dùng vũ khí, mặc đồng phục (áo trắng, quần short sẫm) (Marr 1995, 134, 381), có cờ và ca khúc chính thức ("Thanh Niên"), có quyền cho thẻ căn cước trong một số vùng (Marr 1995, 135). Để có thể hoạt động với phạm vi và thẩm quyền như vậy, TNTP phải có một qui chế hiện hữu chính thức và ngân quỹ dồi dào. Quy chế và tài trợ đó chỉ có thể đến từ chính phủ Trần Trọng Kim của Đế Quốc Việt Nam. Do đó, những sản phẩm hoặc kết quả của TNTP đương nhiên là thuộc về Đế Quốc Việt Nam. Vì vậy, khi Lưu Hữu Phước để ca khúc "Thanh Niên" dùng bởi TNTP là ca khúc của tổ chức, ông đã mặc nhiên nhường quyền sở hữu ca khúc đó cho Đế Quốc Việt Nam, và Đế Quốc Việt Nam (sau này được thừa kế bởi Quốc Gia Việt Nam và VNCH theo luật thừa kế của các thực thể quốc gia) có sở hữu ca khúc "Thanh Niên" từ lúc TNTP dùng ca khúc này, vào khoảng tháng 7 năm 1945, hoặc sớm hơn.

 

Cho dù sau này tổ chức TNTP giải tán và gia nhập Việt Minh, sự kiện vẫn rõ ràng là ca khúc "Thanh Niên" đã trở thành tiếng nói của Đế Quốc Việt Nam vào tháng 7 năm 1945, hoặc sớm hơn, trước ngày Việt Minh cướp chính quyền vào tháng 8, 1945. Ngoài ra, cho dù Lưu Hữu Phước không đồng ý để ca khúc "Thanh Niên" là ca khúc chính thức của TNTP (một giả thiết hầu như không thể có được vì ông nằm trong ban lãnh đạo của tổ chức này), ông đã mất quyền sở hữu ca khúc này qua hành động im lặng và không phản đối của ông khi ca khúc đó được dùng rộng rãi khắp nơi, theo một học thuyết pháp lý trình bày sau đây.

 

b, "Học Thuyết Ngăn Chận" không cho phép Lưu Hữu Phước phản đối việc dùng nhạc của "Thanh Niên" là nhạc quốc ca VNCH:

 

Không có tài liệu nào cho thấy Lưu Hữu Phước phản đối việc các tổ chức này dùng ca khúc "Sinh Viên" hoặc "Thanh Niên" là ca khúc nghi lễ của tổ chức trong khoảng thời gian các phiên bản được lưu hành và trình diễn công cộng từ năm 1941 đến năm 1949. (Lưu Hữu Phước chỉ mới bắt đầu phản đối từ 1949.) Sự không phản đối, hoặc im lặng, của Lưu Hữu Phước trước biết bao nhiêu việc dùng công khai nhạc của ông, cho thấy ông đã nhường quyền về nhạc ca khúc này cho công chúng. Do đó, Lưu Hữu Phước đã hoàn toàn mất quyền sở hữu về ca khúc "Sinh Viên" trong khoảng năm 1940-1945. Khi một tác phẩm trở thành tác phẩm cho vùng công chúng, theo luật pháp hoặc do hành động của tác giả (rõ rệt hoặc hàm ý), ai cũng có quyền dùng tác phẩm đó mà không cần phải có sự thỏa thuận của tác giả.

 

Trong luật pháp, một học thuyết căn bản về việc bị mất quyền lợi là "Học Thuyết Ngăn Chận" (Doctrine of Estoppel). Chữ "estoppel" có nghĩa là bị chặn lại. Người Norman dùng từ ngữ Pháp "estoupail" có nghĩa là nút thùng, lọ (bung) hay nút chai (cork) dùng để ngăn chận cái gì không cho ra (Duhaime). Học thuyết này đã có từ thế́ kỷ 15 xuất pháp từ Anh (sđd.), được đặt ra để tránh bất công do lừa đảo hoặc không phù hợp, thống nhất. Tôi không thể đi sâu vào học thuyết này vì những lý thuyết phức tạp về luật pháp, nhưng có thể trình bày các điểm chính.

 

Một cách vắn tắt, Học Thuyết Ngăn Chận không cho phép một người chối bỏ cái gì đã được thiết lập là sự thật qua hành động của viên chức tư pháp hay lập pháp, hoặc qua ngay chính hành động của người đó, rõ rệt hoặc hiểu ngầm (Wikipedia 2015e). Khi học thuyết này áp dụng cho các vấn đề về tài sản hoặc sở hữu (kể cả tài sản trí tuệ), thường có ba nhánh dựa vào: im lặng (acquiescence), diễn tả (representation), và lời hứa (promise) (McFarlane 2014, 3). Nhánh dựa vào im lặng có lẽ thích hợp nhất trong trường hợp Lưu Hữu Phước vì ta chưa có bằng chứng rõ rệt cho sự diễn tả hoặc lời hứa của ông với các tổ chức liên hệ, nhưng ta có bằng chứng rõ rệt về sự im lặng của ông.

 

Học Thuyết Ngăn Chận dựa vào im lặng có thể được giải thích như sau. Khi B làm những hành động dựa vào sự tin tưởng lầm lẫn rằng quyền nào đó của A là thuộc về B; và A, biết đến hành động này của B, giữ im lặng và không đòi lại quyền của mình, thì A bị mất quyền đó nếu B chịu thiệt thòi khi phải trả lại A quyền đó (McFarlane 2014, 3).

 

Đem vào trường hợp của Lưu Hữu Phước, giả sử ông không có ý định cho Tổng hội Sinh Viên Đông Dương dùng ca khúc "Sinh Viên" hoặc tổ chức TNTP dùng ca khúc "Thanh Niên." (Nếu ông có ý định nhường quyền cho vùng công chúng và để các tổ chức tùy nghi dùng nhạc điệu hoặc ca khúc "Sinh Viên" thì không còn vấn đề bàn cãi nữa.) Tổng hội dùng ca khúc đó dựa vào sự tin tưởng lầm lẫn về quyền của hội là được ông cho phép. Lưu Hữu Phước là thành phần lãnh đạo trong Tổng hội Sinh Viên và TNTP. Do đó đương nhiên ông biết hành động này của hai tổ chức, nhưng ông không phản đối, và giữ im lặng trong suốt những năm từ 1941 (khi Tổng hội Sinh Viên Đông Dương công khai dùng ca khúc "Sinh Viên" là ca khúc nghi lễ của hội), qua năm 1945 (khi tổ chức TNTP dùng ca khúc "Thanh Niên" là ca khúc của tổ chức), qua năm 1948 khi chính phủ Nguyễn Văn Xuân sửa lại lời nhạc và dùng ca khúc "Công Dân" là quốc ca của Quốc Gia Việt Nam. Sự im lặng của ông là bằng chứng cụ thể cho thấy ông đã nhường quyền sở hữu cho Tổng hội và TNTP, và đã tước ông quyền sở hữu của nhạc điệu trong ca khúc "Thanh Niên" ngay từ năm 1941, hoặc ít nhất là năm 1945. Chỉ đến năm 1949, Lưu Hữu Phước mới bắt đầu phản đối việc ca khúc "Công Dân" là quốc ca của Quốc Gia Việt Nam. Lúc bấy giờ, mọi việc đã quá trễ. Các tổ chức này không thể trả lại quyền sở hữu đó cho ông vì họ sẽ bị thiệt thòi do sự đầu tư tài chánh, nhân sự, biểu tượng, tiếng tăm cho bài hát. Do đó, Lưu Hữu Phước đã mất quyền sở hữu bài hát và bị ngăn chận đòi lại quyền đó. và lời phản đối của ông trở nên vô giá trị. Tám năm trời im lặng là một khoảng thời gian quá dài.

 

Tuy Học Thuyết Ngăn Chận là học thuyết mới, các lý lẽ pháp luật và nguyên tắc công bằng hiện hữu từ hàng trăm năm. Vì không có vụ kiện nào liên hệ đến vấn đề này, ta không rõ tòa sẽ xử thế nào; nhưng điều chắc chắn là nếu có, một tòa án công minh sẽ dùng các nguyên tắc công bằng.

 

Vì nhạc điệu của "Thanh Niên" của Lưu Hữu Phước đã thuộc về Đế Quốc Việt Nam qua sự im lặng của ông, VNCH có quyền dùng nhạc điệu đó mà không cần sự thỏa thuận của ông. Ngoài ra, quốc gia VNCH có bản quyền trên lời ca "Công Dân" vì lời ca khác hẳn lời ca của "Thanh Niên" đến 85%. Do đó, sự phản đối của Lưu Hữu Phước sau này về nhạc điệu của "Công Dân" hoàn toàn vô giá trị, và lại còn vô giá trị hơn với lời ca.

 

2. Quốc Gia Việt Nam và VNCH không hề đạo nhạc của Lưu Hữu Phước vì tên ông luôn luôn được ghi nhận rõ rệt:

 

Một số người cộng sản kết tội một cách ngu xuẩn là chính phủ VNCH ăn cắp nhạc của Lưu Hữu Phước cho bài quốc ca. Những lời kết tội này không những vô căn cứ theo lịch sử nguồn gốc bài hát như trình bày ở trên, mà còn phản ảnh sự kém hiểu biết về ăn cắp văn chương và đạo văn.

 

Ăn cắp văn học hoặc văn chương (literary theft) là một hành động ăn cắp tác phẩm văn học của người khác. Ăn cắp văn học cũng có thể gọi là đạo văn (plagiarism), mặc dù ăn cắp văn học có thể có một phạm vi rộng hơn so với đạo văn. Trên thực tế, ăn cắp văn học và đạo văn được dùng thay thế lẫn nhau. Đạo văn tránh chữ "ăn cắp" hay "đánh trộm" nhưng nó có cùng nghĩa. "Plagiarism" có gốc từ chữ "plagiarus," một chữ Latin có nghĩa là "bắt cóc nô lệ" (Pappas 1998, 31). Các hành vi đạo văn tương tự như hành vi bắt cóc, hoặc ăn cắp, công trình người khác. Có nhiều định nghĩa cho đạo văn từ một số nguồn tài liệu (Xem, thí dụ như, Johnson, 1755, trích dẫn trong Mallon 1989, 11; từ điển tiếng Anh Oxford, trích dẫn trong Stearns 1999, 17; Stearns 1999, 7; Wikipedia 2015g). Đại khái, đạo văn là "cố ư lấy tài sản văn học của người khác mà không ghi công và mạo nhận nó là của riêng mình" (Stearns 1999, 7). Điểm chính của đạo văn là "mạo nhận là của chính mình" hay "trình bày như của chính mình," nghĩa là tạo ấn tượng cho người khác khiến họ tưởng thủ phạm là tác giả.

 

Đạo văn là một khái niệm đạo đức hay luân lý hơn là một khái niệm pháp luật. Tại Hoa Kỳ, không có luật liên bang chống lại hành vi ăn cắp văn học hoặc đạo văn. Các tổ chức tư nhân hoặc công cộng (thí dụ, cơ quan giáo dục, trường học) có thể đặt ra các quy tắc riêng và biện pháp kỷ luật đối với hành vi đạo văn dưới khuôn kh̀ổ của các tổ chức đó. Ngoài ra, đạo văn và vi phạm bản quyền là hai khái niệm khác nhau. Đạo văn có thể hoặc không thể dẫn đến vi phạm bản quyền, và ngược lại.

 

Thông thường, đạo văn dính líu chỉ vài đoạn văn, và nhiều khi chỉ vài câu. Một trường hợp đạo văn trở thành toàn diện hay tột độ là khi kẻ đạo văn ăn cắp toàn bộ tác phẩm của người khác và xưng là của mình. Trường hợp này rất hiếm có vì mức độ gian xảo cực độ và rất ít có người nào mặt dầy mặt dạn dám có gan làm những chuyện kinh khủng như vậy. Tuy nhiên, trong lịch sử nhân loại, có một kẻ đã làm chuyện đó. Đó là Hồ Chí Minh. Hồ đạo văn toàn diện ít nhất ba văn bản: "Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam" (Xem, thí dụ như, Quinn-Judge 2002, 18), "Bản Án Chế độ Thực Dân Pháp" (Xem, thí dụ như, Thụy 2012, 560-562), và "Nhật Ký Trong Tù" (Xem, thí dụ như, Lê 1990). Có thể cái "văn hóa đạo văn" này đã thấm nhuần trong thành phần cộng sản theo gương Hồ, nên nhiều người cộng sản tưởng ai cũng như họ, kết tội chính phủ VNCH đạo nhạc của Lưu Hữu Phước.

 

Quốc Gia Việt Nam và VNCH không hề mạo nhận tác giả, hoặc tạo ấn tượng cho người khác khiến họ tưởng tác giả quốc ca là người đang phục vụ trong miền Nam. Ngược lại, Quốc Gia Việt Nam ngay từ thời chính phủ Nguyễn Văn Xuân năm 1948 và VNCH luôn luôn ghi rõ tác giả ca khúc "Công Dân" là Lưu Hữu Phước. Việc ghi rõ tên tác giả Lưu Hữu Phước cho thấy Quốc Gia Việt Nam và VNCH không ăn cắp nhạc hoặc đạo nhạc của Lưu Hữu Phước. Không những thế, chính phủ VNCH lúc nào cũng cho Lưu Hữu Phước cái danh dự là tác giả của quốc ca VNCH cho dù ông chỉ là tác giả của nhạc điệu và không phải là tác giả của lời nhạc. Về việc bản quyền, như đã trình bày trên, cho dù Lưu Hữu Phước có bản quyền, ông đã bị mất bản quyền này và nhường quyền lại cho VNCH.

 

3. Việc dùng nhạc của Lưu Hữu Phước cho quốc ca của VNCH cho thấy tinh thần dân tộc của người miền Nam Việt Nam đối với toàn dân Việt:

 

Miền Nam không thiếu nhân tài viết nhạc cho quốc ca, như đã được chứng tỏ qua kho tàng nhạc vàng vô giá tại miền Nam trước năm 1975. Chính phủ Nguyễn Văn Xuân, Quốc hội thời Đệ Nhất Cộng Hòa, và chính phủ Đệ Nhị Cộng Hòa không câu nệ sự kiện tác giả nhạc điệu của bài quốc ca là người ở "phe bên kia" mà vẫn tiếp tục dùng nhạc điệu này, vì lúc ông sáng tác bản nhạc, "Lưu Hữu Phước cũng như bao nhiêu thanh niên yêu nước khác đứng lên tranh đấu giành độc lập cho đất nước chứ chưa phải là một đảng viên cộng sản" (trích lời Trần Văn Đôn, trong Hoàng 2002, 2177). Điều đó cho thấy người miền Nam không có sự đố kỵ, hận thù, lòng dạ nhỏ nhen, mà ngược lại còn cho thấy tinh thần dân tộc và thương yêu đồng bào. Tinh thần dân tộc này thể hiện bản chất nhân bản, khai phóng, và yêu thương đồng bào, không phân biệt Nam Bắc, của người miền Nam không cộng sản.

 

Ngược lại, chắc chắn nhóm cầm quyền cộng sản Bắc Việt không bao giờ dùng nhạc viết bởi nhạc sĩ của Quốc Gia Việt Nam hoặc VNCH, cho dù những bài đó không dính dáng gì đến chính trị hoặc đả kích cộng sản. Lòng dạ nhỏ nhen, bụng tiểu nhân, mặc cảm tự ti, và đầu óc chia rẽ hận thù của nhóm cầm quyền cộng sản Bắc Việt đã được biết rõ khi chúng cấm đoán nhạc miền Nam ngay cả sau khi chúng chiếm đoạt được miền Nam năm 1975.

 

Ta cũng nên hiểu Lưu Hữu Phước có thể bị nhóm cầm quyền cộng sản Bắc Việt bắt buộc lên tiếng phản đối, vì khó tin một nhạc sĩ, thay vì hãnh diện, lại có thái độ bực bội việc tác phẩm mình được dùng cho một mục đích cao cả là quốc ca của một quốc gia. Ngoài ra, Lưu Hữu Phước lên tiếng phản đối vào năm 1949, khi Ngô Đình Diệm chưa làm Thủ tướng, và Mỹ chưa đặt chân lên miền Nam. Do đó, bảo rằng Lưu Hữu Phước phản đối vì miền Nam phục vụ đế quốc Mỹ là hoàn toàn sai lầm.

 

C. "Tiếng Gọi Công Dân" có bố cục chặt chẽ, là lời kêu gọi toàn dân đứng lên tranh đấu cho quốc gia thoát khỏi cơn nguy biến.

 

Quốc kỳ và quốc ca là khí cụ hữu hiệu giúp dân ràng buộc với nhau và là hai biểu tượng quan trọng nhất cho một quốc gia. Vì là biểu tượng quốc gia, quốc kỳ và quốc ca có vai trò thiêng liêng và cao cả trong việc lôi kéo toàn dân vào nhau. Ngoài ra, quốc ca thường được trình bày trong những dịp long trọng hoặc nghiêm trang. Để tạo không khí nghiêm trang và nhấn mạnh tinh thần quốc gia, rất quan trọng là quốc ca có nhạc điệu hùng hồn, tha thiết, dễ hát, và lời ca khơi động lòng yêu nước của toàn dân. Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" có đầy đủ những tính chất đó ở mức độ cao, và là một bài quốc ca bất hủ.

 

Kelen (2015, 71) phân loại ra ba loại quốc ca dựa vào nội dung lời ca: (1) bài hát "hành khúc" hoặc thúc giục, thí dụ như "La Marseillaise" (Pháp); (2) hoạt cảnh tự chúc mừng (bức tranh của một quốc gia xứng đáng), như "Advance Australia Fair" (Úc) hoặc "The Star-Spangled Banner" (Hoa Kỳ); và (3) ca khúc cầu nguyện, tha thiết đến thần thánh, như "God Save the King/Queen" (Anh). Có nhiều quốc ca có chút ít mỗi phần, hoặc không thích hợp với các loại này. "Công Dân" có đủ cả ba loại đó. Là bài "hành khúc," "Công Dân" thúc giục người dân hy sinh cho tổ quốc và hiến thân dưới cờ. Là bài ca ngợi quốc gia xứng đáng, "Công Dân" ca ngợi tiếng tăm người Nam vang khắp nơi và cho đến muôn đời và nòi giống vẻ vang. Là bài tha thiế́t đến thực thể thiêng liêng, "Công Dân" nhắc nhở lịch sử mấy ngàn năm của giòng giống Lạc Hồng.

 

Một cách độc đáo, tuy lời ca "Tiếng Gọi Công Dân" được viết năm 1956, nội dung có một bố cục chặt chẽ, mạch lạc, và có luận lý, đi theo thể thức một bài phân tích pháp luật. Hầu hết các bài viết phân tích pháp luật, bài thi luật, hoặc bài tóm tắt phân tích các vụ kiện tố tụng đều theo một thể thức nào đó. Các thể thức này đặt ra để giúp bài viết sáng sủa, mạch lạc, và có những chú trọng thích hợp.

 

Tại Hoa Kỳ, có nhiều thể thức viết cho các bài luận pháp lý, như IRAC, CRRACC (Xem, thí dụ như, CUNY; Wikipedia 2015i). Đại khái, thể thức IRAC (Issue, Rule, Analysis, Conclusion) gồm có bốn phần: Issue (Đặt vấn đề), Rule (Phát biểu luật/ quy tắc), Analysis/ Application (Phân tích/ Áp dụng/ Diễn giải), và Conclusion (Kết luận). Sau đây là một thí dụ một bài viết về một vấn đề pháp luật theo thể thức IRAC (đây chỉ là một thí dụ đơn giản và không phải là một bài viết phản ảnh thực tế):

 

1) Đặt vấn đề: Vấn đề đặt ra là Nguyễn Văn X có phạm tội giết người không?

 

2) Phát biểu luật/ quy tắc: Theo luật hình sự California, luật 187(a), hình luật giết người là giết bất hợp pháp một người hay một bào thai với chủ ý phạm tội.

 

3) Phân tích/ Áp dụng/ Diễn giải: Nguyễn Văn X. mang dao giấu trong người và ngồi chờ nạn nhân đến quán ăn. Theo vụ California v. Trần Z., khi một người giấu vũ khí trong người và ngồi chờ, người đó có chủ tâm phạm tội. Ở đây, X. gói con dao trong bao ny lông, và nhét trong bụng, rõ ràng giấu giếm vũ khí. X. ngồi trong quán không ăn gì mà chỉ uống đá lạnh trong nửa tiếng, cho thấy X. chờ đợi nạn nhân. Do đó, X có ý định giết người với chủ ý phạm tội. Khi nạn nhân đến quán ăn, X bước tới bàn nạn nhân và móc dao ra chém nạn nhân liên tiếp cả chục nhát vào mặt, cổ, ngực, và bụng. Nạn nhân ngã xuống đất và chết ngay tại chỗ. Hành động của X giết chết nạn nhân một cách bất hợp pháp. Bào chữa cho X. có thể dựa vào lý thuyết cơn điên mãnh liệt vì nạn nhân là người tình của vợ X. Tuy nhiên, dựa vào vụ California v. John Smith, bào chữa này không có căn bản vì X. thiếu ít nhất hai yếu tố: bị thách thức đột nhiên và hành động nhất thời trong một giây phút nóng gíận quá độ.

 

4) Kết luận: Nguyễn Văn X. phạm tội giết người dựa vào hình luật 187(a).

 

Bài "Công Dân" có bố cục theo đúng thể thức IRAC ở trên như sau:

 

1) Đặt vấn đề: Người dân phải làm gì khi "quốc gia đến ngày gỉải phóng"?

 

2) Phát biểu luật/ quy tắc: Nhiệm vụ của người dân là bảo vệ "tương lai quốc dân" và "núi sông từ nay luôn vững bền."

 

3) Phân tích/ Áp dụng/ Diễn giải: Người dân phải biết hy sinh "dù cho thây phơi trên gươm giáo," và phải "lấy máu đào đem báo" cho "thù nước." Ngoài ra, người dân phải biết "giải nguy" cho đất nước "lúc biến," "vững bền tâm trí" và "hùng tráng quyết chiến đấu" để "tiếng người nước Nam" vang "khắp nơi" "cho đến muôn đời."

 

4) Kết luận: Hỡi dân chúng, hãy "mau hiến thân dưới cờ" và "mau làm cho cơi bờ thoát cơn tàn phá," cho "vẻ vang ṇi giống" và "xứng danh ngh́n năm gịng giống Lạc Hồng!"

 

Với bố cục chặt chẽ đó, ý tưởng trong "Công Dân" trôi chảy mạch lạc và rất dễ hiểu.

 

Bài hát mở đầu với lời xác định vấn đề nghiêm trọng của quốc gia khi đất nước đã đến thời kỳ thoát ly ra khỏi những gông cùm của nô lệ và tăm tối ("Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng"). Câu hỏi ngầm là người dân phải làm gì khi quốc gia đến ngày giải phóng. Câu trả lời nhanh là mọi công dân hãy cùng ra đi dấn thân và hy sinh cho quê hương ("Đồng ḷng cùng đi hy sinh tiếc ǵ thân sống").

 

Ngày phần mở đầu, câu "Này công dân ơi!" tương phản rõ rệt với câu "Đoàn quân Việt Nam đi" trong ca khúc "Tiến Quân Ca" của nhạc sĩ Văn Cao, và là quốc ca của cộng sản Bắc Việt và sau này gán đặt lên Việt Nam (Wikipedia 2015f). Trong khi "Này công dân ơi!" là lời kêu gọi êm ái tới đồng bào dân chúng cùng đứng lên bảo vệ non sông, câu "Đoàn quân Việt Nam đi" vẽ ra hình ảnh binh lính đi bắn giết quân thù nơi sa trường dưới lá cờ hình máu của chiến thắng. Chỉ với câu mở đầu này, ta thấy "Công Dân" xứng đáng là quốc ca của Việt Nam hơn "Tiến Quân Ca" vì "Công Dân" kêu gọi toàn dân, chứ không phải quân đội.

 

Ta phải hiểu "đến ngày" trong câu "Quốc gia đến ngày giải phóng" không có nghĩa là ngày đó đã được định trước mà có nghĩa là đã đến lúc giải thoát quốc gia ra khỏi tù túng. Cho dù tù túng, gông cùm, hay tăm tối, tình trạng đã chín mùi cho cuộc nổi dậy. Một cách tiên tri, câu "Quốc gia đến ngày giải phóng" nói lên thực trạng của Việt Nam hiện nay khi nhóm cầm quyền cộng sản đem chủ thuyết ngoại bang là gông cùm đặt lên đầu lên cổ người dân.

 

Có phiên bản dùng "Đứng lên đáp lời sông núi" thay vì "Quốc gia đến ngày giải phóng." Đây là sự sai lầm vô tình hay cố ý (có thể vì dị ứng với từ ngữ "giải phóng"). Câu "Đứng lên đáp lời sông núi" là câu trong "Sinh Viên" và không phải trong "Công Dân." Việc đó rất rõ ràng vì câu kế tiếp ".. thân sống" không vần với "sông núi" mà vần với "giải phóng." Sai vần thực sự không quan trọng. Cái sai lầm kế là cách dùng cú pháp lệch lạc. Như sẽ trình bày sau, chữ "này" trong tiếng Việt rất tinh tế. Khi bạn nói với ai với chữ mở đầu "Này ..." (thí dụ, "Này anh ơi,"), bạn không có ý định thúc giục hoặc kêu gọi người đó làm chuyện gì. Chữ "này" mở đầu một câu nói chuẩn bị cho lời giảng giải, cắt nghĩa, phân trần, nhắn nhủ, hoặc biểu lộ cảm nghĩ, tình trạng nào đó. Thí dụ, "Này anh ơi, bây giờ kinh tế khó khăn,..." Bạn không dùng "này" để thúc giục hoặc kêu gọi. Câu "đứng lên đáp lời sông núi" là một lời thúc giục, kêu gọi, và do đó không thể đặt sau câu "Này công dân ơi!" Quan trọng hơn, câu "Quốc gia đến ngày giải phóng" đóng vai trò một câu đặt vấn đề như trình bày ở trên. Nếu không có câu này, ta sẽ không hiểu vấn đề ở đâu mà ra, tại sao phải "đứng lên đáp lời sông núi" hoặc "hy sinh tiếc gì thân sống," v.v... Quan trọng nhất, ta không nên sửa đổi lời bài quốc ca đã được dùng trong suốt hai mươi năm của VNCH trước 1975, vì đó là một văn bản có giá trị lịch sử và quốc gia.

 

Vào năm 1960, cộng sản Bắc Việt tạo ra "Mặt trận giải phóng miền Nam" (MTGPMN) với mục đích xâm lăng miền Nam theo lệnh Tàu cộng, khiế́n "giải phóng" có ý nghĩa tang tóc, chém giết, cướp bức, đàn áp, và mang theo tính chất dã man, vô nhân đạo, và ngu xuẩn. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cộng sản chiếm đóng miền Nam dưới chiêu bài "giải phóng" và sau đó lại còn đem ý nghĩa đau thương, tang tóc, hận thù cho chữ "giải phóng." Tuy nhiên, ta không nên dị ứng với chữ "giải phóng" vì "giải phóng" có ý nghĩa cao cả vào lúc lời nhạc được ghi. (Xin các vị Chống-Chống Cộng đừng hăm hở nhào vô và kết tội tôi là cổ võ dùng từ ngữ cộng sản.) Lời nhạc cho ca khúc "Công Dân" được viết vào năm 1956, bốn năm trước khi MTGPMN được thành lập. Do đó ý nghĩa "giải phóng" phải được suy diễn trong tình huống thời cục lúc ấy. Bấy giờ, miền Nam Việt Nam là một quốc gia hoàn toàn độc lập và có chủ quyền trên khắp lãnh thổ miển Nam. Do đó, "giải phóng" không thể có ý nghĩa hạn hẹp là giành độc lập hoặc thoát khỏi cai trị của ngoại bang. "Giải phóng" theo ý nghĩa lúc lời nhạc "Công Dân" được viết lại vào năm 1956 hàm ý giải thoát khỏi gông cùm của bất cứ gì cản trở sự tiến hoá của con người trong hiện tại và tương lai, kể cả bảo thủ, độc tài, lệ thuộc ngoại bang, nô lệ, tăm tối, hoặc ngu si. Ta không nên "tẩy chay" từ ngữ "giải phóng" chỉ vì cộng sản lạm dụng và cho nó một ý nghĩa xấu xa. Nhóm cầm quyền cộng sản đã thao túng và làm suy đồi nền văn hóa Việt Nam qua sự ngu dốt, lạm dụng, và đã khiến một số từ ngữ bị "tai tiếng." Nhưng ta không thể để cộng sản giết chết những từ ngữ này.

 

Trở về bài hát, lời nhắn nhủ công dân tiếp tục. Cuộc hy sinh là vì tương lai của toàn dân nên mọi người hãy cùng nhau xông pha nơi lằn tên mũi đạn để giữ gìn non sông được bền vững ("V́ tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên/ Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền"). Câu "núi sông từ nay luôn vững bền" cho thấy ý chí bảo tồn lãnh thổ toàn vẹn. Theo đúng ý chí đó, quân lực VNCH (QLVNCH) đã luôn luôn tích cực chống trả mãnh liệt mưu đồ xâm lấn của ngoại bang. Cuộc chiến giữa QLVNCH và Tàu cộng tại Hoàng Sa năm 1974 cho thấy ý chí can trường đó.

 

Cho dù phải chết phơi thây trên gươm giáo nhưng vì thù nước, người dân phải lấy máu đổi máu, báo thù bằng chính máu đỏ của mình ("Dù cho thây phơi trên gươm giáo/ Thù nước, lấy máu đào đem báo"). Câu "Dù cho thây phơi trên gươm giáo" tương phản rõ rệt với câu "Đường vinh quang xây xác quân thù" trong bài "Tiến Quân Ca," quốc ca của cộng sản Bắc Việt và sau này gán đặt lên Việt Nam. Trong khi VNCH kêu gọi toàn dân hy sinh cho tổ quốc, cho dù phải hy sinh tánh mạng như cha ông tổ tiên đã làm, nhóm cầm quyền cộng sản chỉ kêu gọi binh lính họ chém giết quân thù, một hình ảnh khát máu khác hẳn với bản chất hiền hòa và ý chí hy sinh của dân Việt.

 

Câu "Thù nước, lấy máu đào đem báo" là một câu độc đáo.

 

Thế nào là "thù nước"?

 

"Thù nước" nhấn mạnh mối thù quốc gia, chứ không phải là mối thù cá nhân, như phe địch giết thân nhân mình. Đó là mối thù hại đến tổ quốc. Lúc bấy giờ, vào năm 1956, cộng sản Bắc Việt còn đang lo kinh tế ngoài Bắc nên chưa tăng cường xâm lấn mìền Nam. Cộng sản vẫn có trong miền Nam, khoảng chục ngàn cán bộ, nhưng hiểm họa cộng sản hoặc ngoại xâm không nặng nề lắm. Vậy tại sao "thù nước"?

 

Trong một giải thích, tác giả (nhân viên Đài phát thanh Sài Gòn) không có ý tưởng rõ rệt ai là kẻ thù của đất nước lúc bấy giờ, mà chỉ là lời kêu gọi tổng quát cho toàn dân báo thù cho bất cứ kẻ thù quốc gia nào, kể cả những kẻ trong nước cướp nước dâng cho ngoại bang hoặc quân xâm lăng ngoại bang. Tuy nhiên, giải thích đó không thỏa đáng vì "thù nước" và "máu đào đem báo" hàm ý một mối thù rõ rệt. Do đó, dưới một giải thích khác,"thù nước" là mối thù cộng sản Việt Minh lừa đảo dân, cướp chính quyền của quốc gia Việt Nam vào tháng 8 năm 1945, đặt gông cùm cộng sản tàn ác lên dân Việt, và cúi đầu làm nô lệ cho Tàu cộng và Liên Xô. Hành động phi pháp, cuộc thảm sát hơn 170.000 dân trong chiến dịch cải cách ruộng đất theo lệnh quan thầy Tàu cộng của họ, và phí phạm hàng vạn binh lính trong các trận chống Pháp nhất là trận Điện Biên Phủ, quả là một mối thù quốc gia. Người miền Nam, lúc nào cũng coi người dân miền Bắc không cộng sản là anh em, coi việc cộng sản đặt gông cùm lên đồng bào mình ngoài Bắc là mối thù quốc gia.

 

Một cách tiên tri, ý nghĩa của "thù nước" lại càng nổi bật rõ khi cộng sản Bắc Việt xâm lăng và chiếm đóng miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Từ đó, ngày 30 tháng 4 thường được gọi là ngày "quốc hận" để cho thấy mối thù nhóm cầm quyền cộng sản nghe lệnh quan thầy Tàu cộng, xé bỏ hiệp định, và xâm lăng miền Nam, dẫn đến cảnh hàng triệu người bỏ xứ định cư trên các nước tự do, và hàng trăm ngàn người bỏ mạng khi vượt biên hoặc bị hành quyết trong các trại tù cải tạo. Mối thù nước này lại càng được nung nấu trong suốt 40 năm qua khi nhóm cầm quyền cộng sản lôi kéo đất nước oai hùng ngày nào xuống bờ vực của ươn hèn và lụn bại, hủy hoại tài nguyên và của cải đất nước qua hành động bán nước và tệ trạng tham nhũng, tiêu diệt những tinh hoa đất nước qua những tuyên truyền và lừa đảo khiến các thế hệ trẻ bị chôn vùi trong ngục tù tăm tối, và phạm biết bao nhiêu tội ác với nhân dân và tổ quốc. Với ý nghĩa "thù nước" này, "Công Dân" nên được coi là quốc ca của nước Việt Nam hiện nay hoặc ít nhất là bài ca đại diện các phong trào đấu tranh giành tự do dân chủ cho Việt Nam.

 

Người dân Việt thuộc nòi giống Tiên Rồng phải biết giải tỏa nguy hiểm khi có cơn nguy biến xảy ra cho đất nước; và người dân lúc nào cũng phải vững tâm bền chí ("Ṇi giống lúc biến phải cần giải nguy/ Người công dân luôn vững bền tâm trí"). Người dân phải quyết chiến đấu hùng tráng chống lại quân thù để tiếng tăm dân Việt được vang vang khắp nơi trên thế giới cho đến ngàn năm ("Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi/ Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!"). Lời kêu gọi cho tiếng tăm nước Việt Nam vẻ vang khắp nơi trên thế giới và cả ngàn năm cho thấy tinh thần quốc gia độc lập cao độ, không chịu lệ thuộc ngoại bang.

 

Phiên khúc chót là lời kêu gọi tha thiết đến toàn dân. Hỡi người dân Việt, hãy nguyện hy sinh cho tổ quốc. Hãy cố gắng chiến đấu để đất nước thoát cơn tàn phá vì kẻ thù, và để vẻ vang xứng danh ngàn năm là con cháu Lạc Hồng ("Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!/ Công dân ơi! Mau làm cho cơi bờ/ Thoát cơn tàn phá, vẻ vang ṇi giống/ Xứng danh ngh́n năm gịng giống Lạc Hồng!"). Lời kêu gọi này là câu trả lời cho câu hỏi ngầm người dân nên làm gì khi quốc gia đến ngày giải phóng đặt ra trong phần đầu.

 

Nội dung toàn bài kêu gọi lòng yêu nước của toàn dân đứng lên bảo vệ non sông trong cơn nguy biến. Với lời kêu gọi hùng hồn tha thiết và đầy ý nghĩa, "Công Dân" nên được dùng là ca khúc cho các phong trào đấu tranh tự do dân chủ tại Việt Nam. Ngoài ra, như đã trình bày ở trên, "Công Dân" nên là quốc ca của nước Việt Nam khi chế độ cộng sản không còn hiện hữu.

 

D. "Tiếng Gọi Công Dân" có giai điệu trầm bổng hùng tráng, tiết tấu dồn dập, và lời ca phù hợp, cách diễn tả hữu hiệu kêu gọi lòng ái quốc và hy sinh cho tổ quốc

 

Kelen (2015, 107) cho rằng một nghịch lý của quốc ca là người hát và người nghe thường quên ý nghĩa lời ca. "Chúng ta quên chúng ta đang hát gì; chúng ta quên ý nghĩa của các chữ" (sđd.) Cái tác dụng mạnh mẽ được tạo ra tự động (sđd., 108) vì người ta tham gia trong một tình trạng biểu tượng chặt chẽ, thí dụ một nghi lễ tưởng niệm hoặc một hoạt động thể thao quốc gia. Tôi không đồng ý hoàn toàn với ý tưởng này, nhất là với "Công Dân." Một trong những lý do "Công Dân" là bài quốc ca bất hủ là lời ca rất đáng nhớ và gây tác dụng mạnh mẽ. Ít ai có thể quên được những từ ngữ mạnh như "giải phóng," "thây phơi," "thù nước," "máu đào," "hiến thân dưới cờ" và ý nghĩa của những chữ này. Ngoài ra, các khía cạnh âm nhạc của "Công Dân" cũng đóng góp rất nhiều trong việc tạo tác dụng lớn lao trên khán giả.

 

1. Bài hát có giai điệu trầm bổng hào hùng và thánh thót, tiết tấu thay đổi, giúp bài hát dễ hát và gây cảm xúc mạnh trên khán giả:

 

Một trong những đặc tính quan trọng cho quốc ca là bài hát phải dễ hát để ai cũng có thể hát được. Quốc ca là bài hát cho toàn dân và không phải là bài hát cho ca sĩ. Bản "Star-Spangled Banner," quốc ca của Hoa Kỳ, có tiếng là khó hát, ngay cả cho ca sĩ chuyên nghiệp vì không ngân nổi nốt nhạc cao hoặc quên lời nhạc (Wikipedia 2015d). Nhiều người nói bài "Star-Spangled Banner" khó hát vì âm vực (khoảng cách giữa nốt thấp nhất và nốt cao nhất trong bài) vượt quá mức của giọng người thường, khoảng một quãng tám rưỡi (an octave and a half) (Xem, thí dụ như, Klein 2013; Macko 2014). Tuy nhiên, âm vực một quãng tám rưỡi không đến nỗi khó lắm. Lý do chính khiến người hát vấp ngã là giai điệu thay đổi lung tung, nhảy lên nhảy xuống quá nhanh, như một "con cá giẫy đành đạch trong thuyền chèo" (Klein 2013). Thí dụ, đoạn khó nhất ("were so gallantly streaming? And the rockets’ red glare") có giai điệu thay đổi quá nhanh, từ nốt thấp nhất ("-ing" trong “streaming") tới nốt cao nhất ("red"), một quãng tám (octave) rưỡi, trong vòng khoảng bốn nốt đen với năm âm tiết (syllable). Người hát với giọng thường khó mà thay đổi cao độ nhanh như vậy. Đoạn khó thứ nhì xảy ra ở đoạn cuối ("the land of the free and the home of the brave"), khi mà người hát đã mệt nhoài vì hết hơi nên không thể lên cao được ở chữ "free" (Klein 2013). Như sẽ được trình bày sau, "Công Dân" có cùng âm vực khoảng một quãng tám rưỡi, nhưng cách sắp đặt giai điệu không tạo ra những khó khăn cho người hát như bài "Star-Spangled Banner."

 

Một khái niệm quan trọng trong giai điệu là chuyển động (movement, motion). Chuyển động là sự tiến triển của các nốt nhạc đi với nhau. Có hai loại chuyển động: liên kết (conjunct) và khác biệt (disjunct). Trong chuyển động liên kết, giai điệu tiến triển từ một nốt sang nốt kế tiếp từng nấc một (stepwise), tạo nên một nét nhẹ nhàng uyển chuyển. Loại giai điệu này thường thích hợp cho cách diễn tả tình cảm hoặc tả cảnh êm ả. Trong chuyển động khác biệt, giai điệu tiến triển từ một nốt sang nốt kế tiếp qua bước nhảy (leaps), tạo nên vẻ mạnh mẽ và "góc cạnh" (Mitchell).

 

"Công Dân" có giai điệu phối hợp giữa chuyển động liên kết và chuyển động khác biệt, giúp âm thanh có sắc thái trầm bổng hào hùng và thánh thót. Âm điệu vì thế trở nên linh động và lôi cuốn, rất thích hợp cho việc kêu gọi người dân hy sinh cho tổ quốc. Chuyển động liên kết xảy ra trong câu và chuyển động khác biệt xảy ra giữa một câu và câu kế tiếp. Thí dụ hai câu "Này Công Dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng" và "Đồng ḷng cùng đi hy sinh tiếc ǵ thân sống" có tiến triển lên xuống chậm chạp trong mỗi câu, nhưng có tiến triển đột ngột giữa hai câu (từ "phóng" trong câu đầu tới "Đồng" trong câu kế), nghe như hai lớp sóng vỗ lên nhau. Đặc biệt, từ câu "từ nay luôn vững bền" tới câu "Dù cho phơi thây trên gươm giáo" có chuyển động khác biệt và dấu lặng, giúp cho hòa âm được dễ dàng khi thay đổi hoặc nhấn mạnh một nhạc cụ khác.

 

Tiết tấu thay đổi, lúc thì nhanh dồn dập, lúc thì kéo dài tha thiết, thích hợp cho lời kêu gọi toàn dân. Những nốt kéo dài cuối câu giúp cho khúc đoạn có xác định rõ rệt, làm dễ dàng cho việc chuyển nhạc cụ trong hòa âm đem lại nhịp điệu thay đổi và kích động. Thí dụ, hai câu đầu có khí thế mạnh bạo dồn dập, nhưng chuyển tiếp giữa "tiếc gì thân sống" và "Vì tương lai quốc dân" đem lại một sắc thái trầm hùng thống thiết. Tất cả những chuyển động liên kết và khác biệt này theo một cấu trúc khá cố định khiến các câu ca vang lên như những đợt sóng nối tiếp nhau trên một con sông lớn cuồn cuộn chảy hoặc sóng vỗ lên đá trên bờ biển, để tạo nên một khí thế mạnh dần dẫn đến phiên khúc chót.

 

Phiên khúc chót là phiên khúc độc đáo nhất và là cực điểm của bài hát. Phiên khúc này bắt đầu bằng câu "Công Dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!" có các nốt cao dẫn đến nốt cao nhất vào chữ "dưới" được kéo dài để nhấn mạnh và tạo âm hưởng. Đoạn này khởi đầu sau một đoạn được chấm dứt bằng nốt nhạc thấp nhất của bài và một dấu lặng đơn ("Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời"), tạo nên một chuyển động khác biệt, dứt khoát để chuẩn bị cho lời kêu gọi hoành tráng với âm thanh vang vang cho các câu kế tiếp ("Công Dân ơi! Mau làm cho cơi bờ/ Thoát cơn tàn phá, vẻ vang ṇi giống") dẫn đến câu kết khởi đầu bằng nốt cao nhất và xuống chậm dần cho đến kết thúc toàn bài ("Xứng danh ngh́n năm gịng giống Lạc Hồng!").

 

Khác với bài "Star-Spangled Banner" của Hoa Kỳ, đoạn giữa nốt thấp nhất và nốt cao nhất được ngắt quãng bởi dấu lặng đơn, giúp người hát có dịp nghỉ "lấy hơi." Ngoài ra, đoạn này được kéo dài qua nhiều nốt với bảy âm tiết ("Công Dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!") giúp người hát có thì giờ chuẩn bị để lên cao giọng ở âm tiế́t "dưới" và kéo dài xuống âm tiết "cờ" sau đó. Với cách dùng dấu lặng và câu có nhiều âm tiết, tác giả giữ được sắc thái "góc cạnh" của giai điệu lên cao mà không tạo ra khó khăn cho người hát. "Tiếng Gọi Công Dân" do đó rất dễ hát, không đòi hỏi người hát phải có giọng bao trùm âm vực lớn, và cũng không đòi hỏi người hát phải luyện tập kỹ càng trước khi hát.

 

Để hiểu và cảm nhận giai điệu trầm bổng, phối hợp chuyển động liên kết và khác biệt, tiết tấu thay đổi giữa dồn dập mạnh mẽ và nhẹ nhàng uyển chuyển, ta hãy nghe phần trình bày nhạc hòa âm của dàn nhạc Ukraine, Ukrainia National Presidential Orchestra, tại Kiev vào ngày 16 tháng 8 năm 2012, do sự hòa âm và phối khí của nhạc sĩ Lê Văn Khoa (Buis 2012). Theo lời nhạc sĩ Lê Văn Khoa, phần trình diễn này của dàn nhạc Ukrainia National Presidential Orchestra là một trình diễn quốc ca VNCH xuất sắc nhất trong tất cả các trình diễn mà ông biết.

 

 

2. Lời ca phù hợp với nhạc điệu, có lối diễn tả có tính chất dân tộc, và cách dùng chữ hữu hiệu cho một bài kêu gọi toàn dân đấu tranh vì tổ quốc:

 

Tác giả lời nhạc của "Công Dân," nhân viên Đài phát thanh Sài Gòn, chỉ giữ lại vài từ ngữ trong phiên bản "Thanh Niên" và hầu như viết lại toàn bộ lời nhạc cho thích hợp là quốc ca của chính thể VNCH. Vì được viết cho một quốc ca, lời nhạc đượm màu sắc dân tộc và quốc gia. Tác giả lời ca biết cách phối hợp các kỹ thuật diễn tả và dùng chữ hữu hiệu, gây cảm xúc mạnh trên khán giả.

 

Ngay trong nhan đề và rải rác khắp bài, chữ "công dân" rất thích hợp cho lời kêu gọi toàn dân, và cũng tiện lợi vì là thanh không dấu, thuận với âm điệu của nhạc, thay thế thẳng cho "thanh niên" hoặc "sinh viên" cũng là các thanh không dấu.

 

Câu "Này công dân ơi!" chất chứa niềm thương yêu cho đồng bào. Như đã trình bày ở trên, câu này đi theo giai điệu có chuyển động liên kết, tạo nên nét nhẹ nhàng êm ả, thích hợp cho lời nhắn nhủ tâm tình, hoặc giải bày tâm sự. Chữ "ơi" (và các chữ khác như "à") là một chữ độc đáo trong tiếng Việt, hầu như không thể dịch được sang ngoại ngữ. Khi dùng với "anh," "em, "mình," v.v., chữ "ơi/à" bộc lộ một tình cảm nhẹ nhàng, kín đáo, và thương yêu cố hữu của người Việt. Khi dùng với các danh từ hoặc đại từ khác, chữ "ơi/à" có ý nghĩa tương tự tuy với chút giảm thiểu về tình cảm. Chữ "này" là một chữ chứa đựng niềm thân thiện, và cũng là một chữ độc đáo trong tiếng Việt khi dùng như thán từ. "Này" và "ơi," do đó nói lên lời nhắn nhủ chứa đựng tinh thần dân tộc, đồng bào, có tình thương yêu, và như là lời của người dân nói với người dân, trong lúc giải bày tâm sự, phân trần, hoặc biểu lộ cảm nghĩ cho một tình trạng nào đó.

 

Trong khi "Này công dân ơi!" ở phiên khúc đầu nghe như lời nhắn nhủ tâm tình, câu "Công dân ơi!" ở phiên khúc chót là lời kêu gọi, thúc giục người dân thi hành nghĩa vụ công dân của mình bảo vệ non sông. Như đã trình bày ở trên, lời kêu gọi này đi theo nhạc điệu hùng tráng, với giai điệu bay bổng lên cao, tạo nên khí thế mãnh liệt và kích động tâm thần khán giả. Lời ca và nhạc điệu (giai điệu, tiết tấu) do đó rất phù hợp nhau, tạo nên tác dụng mạnh vào cảm xúc khán giả.

 

Tác gỉả dùng chữ rất hữu hiệu. Những hình ảnh cụ thể được "cho thấy" bên cạnh những lời "kể" làm nổi bật ý tưởng và có tác dụng mạnh trên khán giả. Thí dụ, "xông pha khói tên," "thây phơi trên gươm giáo," "lấy máu đào," "hiến thân dưới cờ." Những nhóm chữ này vẽ lên hình ảnh linh động, cụ thể, và gợi ý mạnh mẽ. Câu "hiến thân dưới cờ" có nét độc đáo vì ngoài tác dụng cho thấy hình ảnh cụ thể, nó còn là một ẩn dụ tuyệt vời cho lòng miệt mài tận tụy dâng hiến cuộc đời ("hiến thân") cho tổ quốc ("dưới cờ"). Hình ảnh lá cờ tượng trưng cho tổ quốc là một hình ảnh thiêng liêng cao quý, và hành động "hiến thân dưới cờ" nói lên lòng yêu nước vô bờ bến của người dân Việt Nam.

 

Tác giả duy trì vần điệu cho lời ca trôi chảy, dễ nhớ. Một cách đặc sắc, tác giả tận dụng thanh vận cho cách gieo vần: dùng vần trắc cho lời lẽ mạnh bạo ("giải phóng/ thân sống," "gươm giáo/ đem báo") và vần bằng cho lời lẽ nhẹ nhàng gợi tình cảm ("khói tên/ vững bền," "khắp nơi/ muôn đời," "dưới cờ/ cơi bờ").

 

Tóm lại, lời ca trong "Công Dân" phù hợp với nhạc điệu, có lối dùng chữ hữu hiệu, mang nét dân tộc, gây tác dụng mạnh mẽ trên khán giả. Người nghe hoặc người hát khó quên ý nghĩa của từ ngữ vì chính những từ ngữ này tạo cảm xúc mạnh cho chính họ.

 

E. Kết Luận:

 

Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" kêu gọi toàn dân Việt Nam đứng lên đấu tranh và hy sinh cho tổ quốc để gìn giữ bờ cõi. Đây không phải chỉ là một bài quốc ca của VNCH mà nên được coi là bài quốc ca của toàn thể nước Việt Nam. Toàn dân Việt Nam, từ Nam ra Bắc, nên hãnh diện vì bài quốc ca hùng hồn, đầy màu sắc dân tộc, và tha thiết kêu gọi toàn dân hy sinh cho tổ quốc. Lịch sử nguồn gốc ca khúc này cho thấy nước VNCH có toàn quyền sở hữu bản nhạc, và nói lên tinh thần đồng bào dân tộc của người miền Nam Việt Nam không tị hiềm việc tác gỉả điệu nhạc sau đó trở thành một đảng viên cộng sản.

 

Với giai điệu trầm bổng có các chuyển động thích hợp, tiết tấu thay đổi, và lời ca có bố cục chặt chẽ, phù hợp với điệu nhạc, và diễn tả hữu hiệu lời kêu gọi toàn dân trong tinh thần yêu nước thương nòi, "Tiếng Gọi Công Dân" là một bản quốc ca bất hủ. Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" là biểu tượng độc đáo của toàn dân và quốc gia Việt Nam, và nên được tôn trọng và duy trì mãi mãi trong và ngoài nước Việt Nam.

 

Lá cờ vàng ba sọc đỏ đã phất phới bay cao trên nóc nhà Nguyễn Viết Dũng tại Nghệ An. Chẳng bao lâu, ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" sẽ được hát vang vang tại Sài Gòn, Hà Nội, Huế, hoặc một thành phố đông dân nào đó tại Việt Nam.

 

CẢM TẠ

 

Tôi xin có lời cám ơn các bạn trên trang mạng Dân Làm Báo đã có lời khích lệ trong các bài về âm nhạc trước và giúp tôi có ý định viết bài này, đặc biệt là lời yêu cầu của bạn Babui.

 

15/05/2015

 

 

 

Cao-Đắc Tuấn

danlambaovn.blogspot.com

 

______________________________________

 

Tài Liệu Tham Khảo:

 

1. Bạch Diện Thư Sinh. 2014. Tại sao Quốc Ca VNCH lại là một bài hát của một Đảng viên CS? 26-1-2014.

http://tuxtini.com/2014/01/26/tai-sao-quoc-ca-vnch-lai-la-mot-bai-hat-cua-mot-dang-vien-cong-san/ (truy cập 2-5-2015).

 

2. Ban Kỹ Thuật Khóa 10A. 2009. Chào quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa. 14-2-2009.

http://lhccshtd.org/LHCCSHTD_VT/NMH/NH/CQK/LHCCSHTD_VT_NMH_NH_CQK.htm (truy cập 11-5-2015).

 

3. Biển Nhớ. Không rõ ngày. Bài Quốc Ca Việt Nam Cộng Ḥa Ra Đời Như Thế Nào? Không rõ ngày.

http://www.dactrung.com/Bai-bv-351Bai_Quoc_Ca_Viet_Nam_Cong_Hoa_Ra_doi_Nhu_The_Nao.aspx (truy cập 29-4-2015).

 

4. Buis, Francois. 2012. The National Anthem of the Republic of Vietnam. 30-12-2012.

https://www.youtube.com/watch?v=w5Fvuhf3Q0g (truy cập 9-5-2015).

 

5. Buttinger, Joseph. 1967. Vietnam: A Dragon Embattled. Volume I – From Colonialism to the Vietminh. Frederick A. Praeger, New York, U.S.A.

 

6. Cao-Đắc, Tuấn. 2014. Những lừa đảo lịch sử của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam. 2-10-2014. http://danlambaovn.blogspot.com/2014/10/nhung-lua-ao-lich-su-cua-ho-chi-minh-va.html (truy cập 2-5-2015).

 

7. ConHoiThoConDauTranh. 2011. Tiếng Gọi Thanh Niên. 2-3-2011.

https://www.youtube.com/watch?v=Cj73q8aTc2Y (truy cập 9-5-2015).

 

8. CUNY School of Law. Không rõ ngày. IRAC/CRRACC Format. Không rõ ngày.

http://www.law.cuny.edu/legal-writing/students/irac-crracc/irac-crracc-1.html (truy cập 13-5-2015).

 

9. Hoàng Cơ Thụy. 2002. Việt Sử Khảo Luận Cuốn 4, từ Đế quốc Việt Nam đến trận Điện Biên Phủ (3-1945 / 7-5-1954). Nam Á (Sudasie). Paris, France.

 

10. Kelen, Christopher (Kit). 2015. Anthem Quality – National Songs – A theoretical survey. Intellect, Bristol, U.K.

 

11. Klein, Randy. 2013. The Star Spangled Banner Is Not A Song, or Is It? 3-7-2013.

http://www.americansongwriter.com/2013/07/star-spangled-banner-is-not-a-song-or-is-it/ (truy cập 9-5-2015).

 

12. Lê Hữu Mục.1990. Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật Kư. Văn-Bút Việt-Nam Hải Ngoại.

 

13. Macko, Kathryn Mary. 2014. Why is the national anthem so hard to sing? 14-5-2014. http://americanhistory.si.edu/blog/2014/05/why-is-the-national-anthem-so-hard-to-sing.html (truy cập 9-5-2015).

 

14. Mallon, Thomas. 1989. Stolen Words. Updated with a new afterword about the Internet. Hartcourt, Inc., Florida, U.S.A.

 

15. Marr, David G. 1995. Vietnam 1945 - The Quest for Power. University of California Press, Berkeley and Los Angeles, California, U.S.A.

 

16. McFarlane, Ben. 2014. The Law of Proprietary Estoppel. Oxford University Press, Oxford, United Kingdom.

 

17. Mitchell, Danlee. Không rõ ngày. Elements of Music - Part 3 and Part 4. Không rõ ngày. http://trumpet.sdsu.edu/M345/Elements_of_Music3.html và

http://trumpet.sdsu.edu/M345/Elements_of_Music4.html (truy cập 9-5-2015).

 

18. Nguyễn Ngọc Huy. Không rõ ngày. Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam. Không rõ ngày.

http://www.lyhuong.net/uc/index.php/covang/309-309 (truy cập 4-5-2015).

 

19. Nguyễn Lưu Viên. Không rõ ngày. Những kỷ niệm với Bài Quốc Ca của VNCH. Không rõ ngày.

http://namkyluctinh.org/a-lichsu/quochieuvn/nlvien-kyniemvoiquoccavnch.htm (truy cập 11-5-2015).

 

20. Pappas, Theodore. 1998. Plagiarism and the Culture War: The Writings of Martin Luther King, Jr., and Other Prominent Americans. Revised and expanded edition. Hallberg Publishing Corporation, Florida, U.S.A.

 

21. Quinn-Judge, Sophie. 2002. Ho Chi Minh: the Missing Years, 1919 – 1941. University of California Press, California, U.S.A.

 

22. Stearns, Laurie. 1999. Copy Wrong: Plagiarism, Process, Property, and the Law, in “Perspectives on Plagiarism and Intellectual Property in a Postmodern World,” Lise Buranen and Alice M. Roy (Eds.), 5-17. State University of New York Press, New York, U.S.A.

 

23. Thụy Khuê. 2012. Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc (Nhân Văn Giai Phẩm and the issue of Nguyễn Ái Quốc). Tiếng Quê Hương, Virginia, U.S.A.

 

24. Trần Trọng Kim. 1969. Một Cơn Gió Bụi. Vĩnh Sơn. Sài gòn. Việt Nam.

 

25. Vu Ngu Chieu. 1986. The other side of the 1945Vietnamese Revolution: The Empire of Vietnam (March - August 1945). Journal of Asian Studies XLV, No. 2 (Feb. 1986), 293-328.

 

26. Wikipedia. 2015a. Quốc gia Việt Nam. 16-3-2015.

http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c_gia_Vi%E1%BB%87t_Nam (truy cập 29-4-2015).

 

27. _________. 2015b. Thanh Niên Hành Khúc. Thay đổi chót: 9-4-2015.

http://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh_ni%C3%AAn_h%C3%A0nh_kh%C3%BAc (truy cập 29-4-2015).

 

28. _________. 2015c. Thanh niên Tiền phong. Thay đổi chót: 1-3-2015.

http://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh_ni%C3%AAn_Ti%E1%BB%81n_phong (truy cập 2-5-2015).

 

29. _________. 2015d. The Star-Spangled Banner. Thay đổi chót: 28-4-2015.

http://en.wikipedia.org/wiki/The_Star-Spangled_Banner (truy cập 29-4-2015).

 

30. _________. 2015e. Estoppel. 26-4-2015. http://en.wikipedia.org/wiki/Estoppel (truy cập 2-5-2015).

 

31. _________. 2015f. Tiến Quân Ca. 24-3-2015.

http://en.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFn_Qu%C3%A2n_Ca (truy cập 2-5-2015).

 

32. _________. 2015g. Plagiarism. Thay đổi chót: 26-4-2015.

http://en.wikipedia.org/wiki/Plagiarism (truy cập 3-5-2015).

 

33. _________. 2015h. Lưu Hữu Phước. Thay đổi chót: 1-4-2015.

http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0u_H%E1%BB%AFu_Ph%C6%B0%E1%BB%9Bc (truy cập 3-5-2015).

 

34. _________. 2015i. IRAC. Thay đổi chót: 22-4-2015.

http://en.wikipedia.org/wiki/IRAC (truy cập 13-5-2015).

 

© 2015 Cao-Đắc Tuấn

 

https://www.scrollmagazine.net/

https://scroll.in/magazine/

https://www.smashingmagazine.com/articles/

https://www.thescrollmag.co.uk/

https://abovethelaw.com/

 

Vô Tổ Quốc Mất Danh Dự Vô Trách Nhiệm

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative

 

THÁNG 11

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative

 

THÁNG 10

 

THÁNG 9/2020

 

VĂN HÓA - LỊCH SỬ

 

TỔNG HỢP BÀI VỞ CÁC DIỄN ĐÀN

 

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative

 

VẤN ĐỀ TÔN GIÁO

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


VIETNAMESE COMMANDOS

  1. Một Trang Lịch Sử

  2. Viết Lại Lịch Sử  Video

  3. Secret Army Secret War Video

  4. Đứng Đầu Ngọn Gió Video

  5. Con Người Bất Khuất Video

  6. Dấu Chân Biệt Kích Video

  7. Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

  8. Huyền thoại về:"Những người lính một thời bị lăng quên" Kim Âu

  9. Phản Bội Kim Âu

  10. Tiếng Nói Công Lư Kim Âu

  11. Vietnam’s ‘Lost Commandos’ Gain Recognition in Senate

  12. President Unit Citation at Fort Bragg

  13. Vietnamese Commando never knew U.S. declared him dead

  14. Back from the dead

  15. Bill of Compensation

  16. Miami! Gian Hùng Lộ Mặt  Kim Âu 

  17. Honoring Vietnamese Commandos

  18. Honoring South Vietnamese Army

  19. Vietnamese Commandos Win Last Battle

  20. Uncommon Betrayal

  21. Go to congress

  22. Trong Gịng Lịch Sử Kim Âu

  23. Oplan 21 Kim Âu

  24. Biệt Kích Gỉa, Biệt Kích Thật Kim Âu

  25. Xuyên Tạc Lịch Sử Kim Âu

  26. Cảm Nghĩ Đầu Xuân (2011)

  27. Những Tên Miệng Hùm Gan Sứa Kim Âu

  28. Loretta Sanchez Không Hề Gian Dối Kim Âu

  29. Ăn Qủa Nhớ Kẻ Trồng Cây Kim Âu

  30. The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.

  31. Lá Thư Tự Thú

  32. Người Tù Kiệt Xuất

  33. Hồi Chuông Báo Tử I

  34. Hồi Chuông Báo Tử II

  35. Hồi Chuông Báo Tử III

  36. Hồi Chuông Báo Tử IV

  37. Thư Trả Lời Mai Nhuệ Anh

  38. Thánh Nhân Vô Phí Vật

  39. Đặc Biệt Cho Nhóm 10%

  40. Phân Định Chính Tà

  41. Phân Định Chính Tà 1

  42. Phân Định Chính Tà 2

  43. Phân Định Chính Tà 3

  44. Hư Danh - Hư Cấu

  45. Kim Âu Trả Lời Phỏng Vấn Hồng Phúc

  46. Hồng Phúc Phỏng Vấn Tourison. Lê Ngung

  47. Sư Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  48. Tri Nhân Tri Diện Bất Tri Tâm

  49. Nguyên Uỷ Một Vụ Kiện

  50. Trả Lời Câu Hỏi Của Một Vi Hữu


 

 

Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn * Một Trang Lịch Sử

Vietnamese Commandos' History * Vietnamese Commandos vs US Government * Lost Army Commandos

Bill of Compensation * Never forget * Viết Lại Lịch Sử  Video * Secret Army Secret War Video

Đứng Đầu Ngọn Gió Video * Con Người Bất Khuất Video * Dấu Chân Biệt Kích Video * Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.* Gulf of Tonkin Incident * Pentagon Bạch Hóa * The heart of a boy

U.S Debt Clock * Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton * None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) * Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

The World Order Eustace Mullin * Trăm Việt trên vùng định mệnh * Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis * Lyndon Baines Johnson Library Musuem

Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn * Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

Nghi Thức Ngoại Giao * Lễ Nghi Quân Cách * Sắc lệnh Cờ Vàng * Quốc Tế Cộng Sản

How Does a Bill Become Law? * New World Order * Diplomacy Protocol. PDF

The World Order Eustace Mullin * Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

Vietnam War Document * American Policy in Vietnam

Foreign Relations Vietnam Volum-1 * The Pentagon Papers * Pentagon Papers Archives

Vietnam and Southeast Asia Doc * Vietnam War Bibliogaphy * Công Ước LHQ về Luật Biển

CIA and NGOs * CIA And The Generals * CIA And The House Of Ngo * Global Slavery

Politics of Southeast Asia * Bên Gịng Lịch Sử

Dấu Binh Lửa * Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

Bách Việt  * Lược Sử Thích Ca  * Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

Douglas Mac Arthur 1962 * Douglas Mac Arthur 1951 * John Hanson, President of the Continental Congress

Phương Pháp Biện Luận * Build your knowledge

To be good writer * Ca Dao -Tục Ngữ * Chùa Bái Đính * Hán Việt

Top 10 Crime Rates  * Lever Act * Espionage Act 1917 * Indochina War * Postdam * Selective Service Act

War Labor Board * War of Industries * War Production Board * WWII Weapon * Supply Enemy * Wold War II * OSS

Richest of The World * Truman Committee   * World Population * World Debt * US Debt Clock *

An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email * Public Holiday * Funny National Days

Oil Clock * GlobalResearch * Realworldorder * Thirdworldtraveler * Thrivemovement *Prisonplanet.com *Infowars

Rally protest *Sơ Lược VềThuyền Nhân  *The Vietnamese Population in USA *Lam vs Ngo

VietUni * Funny National Days  * 1DayNotes   

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 


 

 

MINH THỊ

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG. KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI, XĂ HỘI VÀ ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM CƯỜNG THỊNH PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu