CHÍNH NGHĨA

 

   

Chính Nghĩa Tự Có Tính Thuyết Phục - Nhân Nghĩa Tự Có Tính Cảm Hoá

Sự Thật về Cái Chết Của

Tướng Lê Văn Hưng

 

 

 

 

Ngày 21/4/1975, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, tôi c̣n nhớ rơ lời ông Thiệu nói: "Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội c̣n Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào c̣n một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ." Lời tuyên bố của ông Thiệu đă gây cho tôi sự xúc động. Thế rồi lời tuyên bố ấy cũng đă bay theo gió, khi số lớn cấp chỉ huy trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đă vỗ cánh chim bay sang ngoại quốc, t́m nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà, dân tộc và quân đội đang chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời, Thiếu Tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ, Phú. Nhắc đến đây tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào.

Ôi tiếng súng nổ rền vang trên khắp lănh thổ. Mùa hè năm 1972, nhà văn Phan Nhật
Nam đă mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè cuối đày yêu đương. Mùa hè tận cùng vực thẳm. C̣n mùa hè 30/4/1975 bi thương thê thảm ngần nào? Chúng ta c̣n đủ ngôn từ để diễn tả tận cùng nỗi thương tâm kinh hoàng của sinh ly, từ biệt, cuống cuồng ấy không ? Tin thất trận từ các Vùng 1,2,3 bay về dồn dập. Có những nơi chưa đánh đă bỏ cho địch tràn vào. Cũng có nơi quyết liều tử chiến. Thảm thương thay, cuộc rút quân hỗn loạn bi đát chưa từng có trong lịch sử và quân sử.

Đài VOA và BBC tuyên bố những tin thất bại nặng nề về phía QLVNCH khiến ḷng dân càng thêm khiếp đảm. Những đoàn quân thất trận, tả tơi manh giáp, không người chỉ huy, cuống quưt chạy như đàn vịt bị săn đuổi. Tinh thần binh sĩ rối loạn hoang mang tột độ. Họ th́ thào bảo nhau: "Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Đại Tướng Viên đă cao bay xa chạy, c̣n đánh đấm ǵ nữa. Ông Tướng này, ông Tỉnh nọ, đă trốn đi ngoại quốc, chúng ta c̣n đánh làm ǵ." Họ c̣n hỏi nhau: "Bao nhiêu năm chúng ta chiến đấu cho tổ quốc, hay chiến đấu cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá nhân của ai đây?" Mất người chỉ huy, những quân nhân như rắn không đầu, rối rít, tan ră. Lại có những câu hỏi: "Quân không Tướng chỉ huy th́ sao?" Có những kẻ chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê bai: "Có những ông Tướng mà biết đánh giặc cái ǵ! Chỉ có lính đánh để các ông Tướng hưởng."

Lời phê b́nh của những kẻ bất măn hay những kẻ có tâm địa hạn hẹp, thật chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho dù có những vị Tướng bê bối, làm cho quân đội bị nhục, th́ cũng có những vị Tướng trong sạch đức độ, lỗi lạc, tài ba, đáng cho dân quân khâm phục. Những phần tử bất măn ấy đă vô t́nh hay cố ư không thấy việc tối quan hệ của sự hỗ tương, hỗ trợ, giữa các Tướng Lănh, Sĩ Quan, và Binh Sĩ thật cần thiết cho quân đội và quốc gia như thế nào. Đối với những vị cao minh, hiểu biết giá trị hy sinh của những người tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu cảm tạ, tri ân.

 

Có nhiều người đă nêu lên câu hỏi với tôi: "Tại sao Tướng Nam, Tướng Hưng chết làm chi cho uổng? Tại sao các ông Tướng ấy không tiếp tục chiến đấu? Tại sao các ông không trốn sang ngoại quốc?" Lại có người nghiêm khắc trách tôi: "Bà thật dở. Nếu là tôi, tôi quyết liệt can ngăn không để cho các ông ấy chết. Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành bỏ vợ con lại sao?" Ngay cả vài vị phu nhân của các Tướng Lănh, hoặc c̣n ở trong tù, hoặc đă an nhàn nơi xứ người, cũng thốt ra những lời chỉ trích tôi. Nghe những lời phê b́nh ấy, tim tôi đau nhói. Tôi tôn trọng sự nhận xét "theo tầm hiểu biết của họ". Tôi ngán ngẩm không trả lời, chỉ mỉm cười lắc đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng. Lên tiếng để tạ ân những người đang âm thầm chiến đấu ở Việt Nam, để tạ ân những người hùng can đảm đă, đang, và sẽ tiếp tục đánh đuổi Cộng Sản cứu quê hương, để trả lời những người đă nêu lên nhiều câu hỏi đó. Tôi trân trọng xin những vị nào đă có những lời chỉ trích nên b́nh tâm suy nghĩ lại, trước khi phán đoán v́...những vị Tướng Lănh bách chiến bách thắng lại lẽ nào chịu xuôi tay nhục nhă trước nghịch cảnh, trước kẻ thù? Những vị Tướng đă từng xông pha trong mưa đạn, bao lần thử thách với tử thần, với nhiều chiến công từ cấp bậc nhỏ lên tới hàng Tướng Lănh, đă từng khắc phục gian nguy, xoay ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng trên khắp mặt trận, lẽ nào những vị Tướng ấy chỉ nghe hai tiếng "buông súng" rồi giản dị xuôi tay tự sát hay sao?

Viết đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: "Thưa toàn thể quư vị sĩ quan QLVNCH. Ngày quư vị nhận lănh chiếc mũ sĩ quan của trường
Vơ Bị, quư vị c̣n nhớ sáu chữ ǵ trên chiếc mũ ấy không? Sáu chữ mà quư vị trịnh trọng đội lên đầu là: "Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm." Ngày măn khóa sĩ quan với những lời tuyên thệ, quư vị hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm niệm ai lại chẳng thuộc ḷng? Những vị bỏ nước ra đi trước binh biến, những vị ở lại bị sắp hàng vào trại tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, v́ thật t́nh tôi không dám có lời phê phán nào. Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về cái chết của hai vị Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng. Hai vị Tướng này đă ba lần từ chối lời mời di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ, cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên cố vấn Mỹ hối thúc, đợi chờ không được, sau cùng chán nản và buồn bă bỏ đi.

Trước đó, vào ngày 29/4/1975, lời tuyên bố của Vũ Văn Mẫu và Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sài C̣n ra lệnh tất cả người Mỹ phải rời Việt Nam trong ṿng 24 tiếng đồng hồ, th́ chính lúc "kế hoạch hành quân mật của hai Tướng Nam Hưng đă hoàn tất."

Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người thay thế Tướng Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối tới tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông Hạnh đă dùng t́nh cảm chiến hữu, dùng nghĩa đàn anh thân thuộc, khẩn khoản yêu cầu Tướng Hưng về hợp tác với Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh. Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc đó muốn đ̣ xét thái độ của hai Tướng Vùng 4 như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc điện đàm với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tướng Hưng đă luôn khẳng định: "Không hợp tác với Dương Văn Minh. Không đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến cùng."
 

Khi Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi v́ hoàn cảnh đắm ch́m của vận mệnh đất nước, trước nhiều áp lực nên cụ Hương đă trao quyền lại cho Dương Văn Minh, để rồi "ông Tướng hai lần làm đổ nát quê hương, ố hoen lịch sử này, hạ ḿnh kư tên đâng nước Việt Nam cho Cộng Sản." Vị Tướng Lănh trấn thủ một vùng, tùy hoàn cảnh đất nước, và t́nh h́nh chiến sự địa phương, trọn quyền quyết định, xoay chuyển thế cờ, không cần phải tuân lệnh một cách máy móc theo cấp chỉ huy đầu năo đă trốn hết, th́ c̣n chờ lịnh ai? Phải tuân lịnh ai? Tóm lại, lúc đó lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh và lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Hạnh đă không được Tướng Nam và Tướng Hưng đáp ứng.

Viết đến đây, tôi xúc động lạ thường. Tôi nghẹn ngào rơi lệ khi nhớ đến một số sĩ quan binh sĩ đă bật oà khóc lên khi nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Anh em đă ôm lá cờ tổ quốc, ôm khẩu súng vào ḷng nức nở. Có những chi khu trưởng và những đồn trưởng nhất định đă không chịu đầu hàng. Họ đă tử thủ đến viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để kết liễu đời ḿnh. Cấp bậc của những anh em ấy không cao, chỉ chỉ huy khu nhỏ, hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh thần tranh đấu của anh em cao cả và hùng thế đấy.

Trong khi Sài G̣n bỏ ngỏ đầu hàng th́ Cần Thơ vẫn an ninh tuyệt đối. Kế hoạch hành quân đă thảo xong. Vũ khí lương thực đạn dược sẵn sàng. Tất cả đều chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ đưa về các tuyến chiến đấu. Kế hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong lịnh mật quân hành đó. Vùng 4 có nhiều địa thế chiến lược, có thể kéo dài cuộc chiến thêm một thời gian. Bởi lúc đó, cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa có một đồn nào, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh ở Vùng 4 đă lọt vào tay giặc Cộng.

Nhưng, Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1974, dân chúng nhốn nháo hoang mang. Đă có một số binh sĩ bỏ ngũ. Tại thị xă, cảnh náo loạn đáng buồn chưa từng có đă xảy ra. Từng nhóm đông đảo bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu đă ra tay cướp giật tài sản ở các cơ sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân nào đă bỏ trống, bất chấp tiếng súng nổ can thiệp của cảnh sát duy tŕ an ninh trật tự công cộng. Chúng cướp giật, đập phá, ḥ hét như lũ điên. Chắc chắn trong số này có bọn Cộng Sản nằm vùng có ư đồ gây rối loạn áp đảo tinh thần binh sĩ.

Lúc ấy Tướng
Nam và Tướng Hưng vẫn c̣n liên lạc với các cánh quân chạm địch. Nhiều cánh quân nồng cốt được đưa về thị xă Cần Thơ để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn, nằm chung quanh ṿng đai Alpha. Từ 2 giờ đến 4 giờ chiều ngày 30 tháng 4, giờ đă điểm. Đúng theo kế hoạch lệnh hành quân bắt đầu. Nhưng hỡi ôi, khi liên lạc đến các cấp chỉ huy của các đơn vị th́ mới hay họ chưa biết tư ǵ về kế hoạch, chưa rục rịch chi hết, ngoài việc thay đổi các cuộc bố trí từ sáng đến giờ phút này.

 

T́m kiếm Đại Tá anh ninh, người mà đă lănh nhiệm vụ phân phối phóng đồ và lệnh hành quân mật đến các đơn vị, th́ mới vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đă đưa vợ con t́m đường tẩu thoát sau khi ném tất cả mật lệnh vào tay vị Đại Úy dưới quyền. Ông này cũng đă cuốn gói trốn theo ông Đại Tá đàn anh, cho có thầy, có tṛ. Các phóng đồ và lệnh hành quân mật cũng đă biến mất. Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng tức uất không sao tả nổi. Tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào khi hồi tưởng lại vẻ bối rối của Thiếu Tướng và sự đau khổ thất vọng của Hưng. Những đường gân trán nổi ṿng lên, răng cắn chặt, biểu lộ sự đau đớn và chịu đựng kinh hồn. Người đập tay đánh ầm xuống bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp thật tinh vi bị kẻ phản bội hèn nhát làm găy đổ bất ngờ. Hưng ngước mắt nh́n tôi như muốn hỏi : "Có đồng ư đem con lánh nạn không?" Tôi cương quyết từ chối. Tôi không cầu an ích kỷ, t́m sống riêng, bỏ mặc người trong cảnh dầu sôi lửa đỏ. Tôi nhất định ở lại, cùng chịu hoạn nạn, cùng liều chết. Hưng hỏi tôi: "Thành công là điều chúng ta mong ước, nhưng rủi thất bại, em định liệu lẽ nào?" Tôi đáp: "Th́ cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không muốn một ai trong chúng ta lọt vào tay Cộng Sản."

Và để khỏi phải sa vào tay giặc Cộng, tôi b́nh tĩnh thu xếp cho cái chết sắp tới cho mẹ con tôi, đường giải thóat cuối cùng của chúng tôi. Bốn giờ 45 chiều ngày 30/4/75, Tướng Hưng rời bỏ văn pḥng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, về bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi tạm trú. Hưng không muốn chứng kiến cảnh bàn giao ơ nhục sắp tới giữa Thiếu Tướng Nam và tên Thiếu Tá Việt Cộng Hoàng Văn Thạch. Năm giờ rưỡi chiều ngày 30 tháng 4, khi Hoàng Văn Thạch tiến vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn là lúc Hưng gọi máy liên lạc với Tướng Mạch Văn Trường, ra lệnh đưa hai chi đội thiết giáp tới án ngữ ở dinh Tỉnh Trưởng để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 21 mới về đóng nơi đây. Sau đó Hưng tiếp tục liên lạc với các đơn vị đang tiếp tục chạm súng ở các tiểu khu. Đồng thời Hưng mời Tướng Mạch Văn Trường cùng các đơn vị trưởng ở
chung quanh ṿng đai thị xă Cần Thơ về họp.

Sáu giờ 30 chiều ngày 30 tháng 4, khi các vị sĩ quan vừa ra đến cổng, có một toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ đang chực sẵn. Họ gồm khoảng 10 người. Họ xin gặp Tướng Hưng, với tư cách đại diện dân chúng thị xă, yêu cầu: "Chúng tôi biết Thiếu Tướng không bao giờ chịu khuất phục. Nhưng xin Thiếu Tướng đừng phản công. Chỉ một tiếng lệnh của Thiếu Tướng phản công, Việt Cộng sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xă. Cần Thơ sẽ nát tan, thành b́nh địa như An Lộc. Dù sao, vận nước đă như thế này rồi, xin Thiếu Tướng hăy v́ dân chúng, bảo toàn mạng sống của dân, dẹp bỏ tánh khí khái, can cường..." Nghe họ nói, tôi cảm thấy đau ḷng lẫn khó chịu. Tôi cũng không ngạc nhiên về lời yêu cầu đó. Bởi mới tuần lễ trước, Việt Cộng đă pháo kích nặng nề vào khu Cầu Đôi, cách Bộ Tư Lệnh không xa, gây thiệt hại cao về nhân mạng và tài sản của đồng bào. Dân chúng Cần Thơ c̣n khiếp đảm. Hưng như đứng chết lặng trước lời yêu cầu ấy. Một lát sau, Hưng cố gượng nở nụ cười trả lời: "Xin các ông yên ḷng. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh gây thiệt hại cho dân chúng." Toán người ấy ra về. Hưng quay sang hỏi tôi: "Em c̣n nhớ tấm gương cụ
Phan Thanh Giản? Bị mất ba tỉnh miền đông, rồi cũng v́ dân chúng mà cụ Phan Đă nhún ḿnh nhường thêm ba tỉnh miền tây cho quân Pháp. Cụ Phan không nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng không để mất tiết tháo, không thể bó tay làm nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh Giản đăn nhịn ăn rồi uống thuốc độc quyên sinh." Trầm ngâm vài giây, Hưng tiếp: "Thà chết chứ đâu thể bó tay trơ mắt nh́n Việt Cộng tràn vào."

 

Sáu giờ 45 chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện thoại cho Hưng, hỏi t́nh h́nh các nơi. Hưng báo với Tướng Nam về việc đại diện dân chúng thị xă đến yêu cầu thẳng với Hưng. Hưng cũng cho Tướng Nam biết đặc lệnh truyền tin mới nhất sẽ giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng Nam cho Hưng hay là ông đă cho thu băng lời lêu gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ cho đài Cần thơ phát thanh. Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thêm một lần nữa, sự gây đổ đau ḷng. Đài Cần Thơ bị nội ứng trước đó, khoảng một giờ, viên giám đốc đài bị uy hiếp, thay v́ phát thanh cuốn băng của Thiếu Tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có lời kêu gọi của Thiếu Tá Cộng Sản Hoàng Văn Thạch. Khoảng mười phút sau, đài mới phát thanh cuốn băng của Tướng Nam. Muộn màng rồi. Không c̣n níu kéo được sự tin tưởng nơi dân chúng và binh sĩ được nữa. Hàng ngũ các đơn vị đă thưa thớt lại càng thêm thưa thớt.

Bây giờ 7 giờ 30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn pḥng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe hết sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh: "Hoàng, em đă hiểu sự thất bại do các nguyên nhân sau đây: Vị Đại Tá không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến lược, trù liệu
theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của Tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xă Cần Thơ. Quắc đôi mắt sáng, Hưng nh́n tôi dằn giọng: "Em phải sống ở lại nuôi con." Tôi hoảng hốt: "Ḱa ḿnh, sao ḿnh đổi ư?" "Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con." "Nhưng không thể để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay ḿnh làm chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho con. Chờ em một chút, chúng ta cùng chết một lúc." "Không thể được. Cha mẹ không thể giết con. Anh van ḿnh. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quư vinh hoa địa vị hăy đề pḥng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng chịu cúi ḷn, nhục nhă để nuôi con và cũng nuôi luôn ư chí để có ngày c̣n phục hận cho đất nước chúng ta." "Nếu v́ con, ḿnh thương con, sao ḿnh không đi ngoại quốc?" Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nh́n tôi trách móc: "Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?" Biết ḿnh vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi: "Xin ḿnh tha thứ. Chẳng qua v́ quá thương ḿnh nên em mới nói thế."

Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh: "Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không gao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ t́m sống riêng ḿnh sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ th́ rút cũng không kịp nữa, v́ vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực th́ không cầm cự được lâu. Đă muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, th́ gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào." Tôi phát run lên hỏi: "Nhưng ḿnh ơi, c̣n em? em phải làm ǵ trong lúc này?" Nắm chặt tay tôi, Hưng nói: "Vợ chồng t́nh nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em tuy chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ư chí ḱnh ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhă để nuôi con, để phục hận cho quê hương. Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. V́ anh, v́ con, v́ nợ nước, t́nh nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van ḿnh, anh van ḿnh."

Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết ấy: "Vâng, em xin nghe lời ḿnh." Hưng sợ tôi đổi ư, tiếp lời thúc giục: "Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi." "Em xin hứa. Em xin hứa ḿnh ơi. Nhưng xin cho em hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát
theo ḿnh chứ?" Hưng suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ư, và ra lệnh cho tôi: "Em mời má và đem các con lên lầu gặp anh."

Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ vẫn dựng ở góc pḥng. Tôi vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói: "Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ ḿnh hăy giữ nó." Chúng tôi nh́n nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi: "Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên." Khi mẹ tôi và các con lên văn pḥng, Hưng nói rơ cho mẹ tôi hiểu v́ sao người phải chết và tôi phải sống.

Vâng lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ c̣n tụ họp dưới nhà lên văn pḥng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ phút từ biệt sanh ly giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau. Hưng dơng dạc nói: "Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh đă biết, cuộc hành quân chưa chi đă bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là v́ dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích bừa băi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đă từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa là ghét bỏ. Rầy la để mến thương nhau, để xây dựng nhau. Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm, nếu có. Tôi bằng ḷng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, th́ phải chết
theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân, bỏ nước, trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hăy về với gia đ́nh, vợ con. Nhớ rơ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung dưới bất cứ h́nh thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh."

 

Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Đến bên Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi gấm: "Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả." Mọi người đều đứng yên không ai nói lên được lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi. Yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra ngoài.

Không ai chịu đi. Hưng phải sô từng người ra cửa. Tôi van xin: "Ḿnh cho em ở lại chứng kiến ḿnh chết." Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn pḥng đóng chật cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa: "Nghĩa trở lại với tôi." Tôi bảo Giêng t́m dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ. Tiếng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8 giờ 45 phút tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời của chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đă chết. Giêng run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách ḿnh nhường tôi chạy vào pḥng trước. Hưng ngả người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay dang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rảy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi: "Ḿnh, ḿnh ơi! Ḿnh c̣n lời ǵ dặn ḍ em nữa không?" Hưng không c̣n trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở: "Thiếu Tướng! Trời ơi, Thiếu Tướng!" Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường.
Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào khóc: "Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!"

Tôi bảo Giêng: "
Nói Ḥa đưa Hải, Hà, Quốc lên nh́n xác ba lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào chũng phải ngăn chận Việt Cộng." Tôi đi t́m đầu đạn và đuôi đạn. C̣n khẩu súng, lạ lùng thay không biết khẩu súng ở đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap dấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lià xác, với ư chí cuối cùng, người c̣n b́nh tĩnh nhét khẩu súng, dấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc dộng, quên lời hứa, tự sát theo. Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân ba, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở tṛn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi.

Nghĩa điện thoại khắp nơi t́m Thiếu Tướng
Nam, không thấy trả lời. Tôi vội vă mở đặc lịnh truyền tin, lên máy gọi liên lạc với Thiếu Tướng. Lúc ra máy, chỉnh tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói rặc mùi Cộng Sản trên các tần số thuộc đơn vị của chúng ta. Lũ Việt cộng, ngày 30 tháng 4, tràn vào nhà. Phương cương quyết chận chúng ở cầu thang. Chín giờ rưỡi, 30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang: "Alô, Alô, ai đây?" "Dạ thưa chị đó à? Hồ Ngọc Cẩn đây." Tôi bàng hoàng: "Anh Cẩn! Có chuyện chi cần không?" Tôi cố gắng giữ giọng nói cho b́nh thường, để Cẩn không nhận biết sự việc xảy ra. Trong điện thoại, về phía Cẩn, tôi có nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm ầm. Cẩn hỏi: "Thiếu Tướng đâu chị? Cho tôi gặp ông một chút." Tôi lúng túng vài giây: "Ông đang điều động quân ngoài kia." "Chị chạy ra tŕnh Thiếu Tướng, tôi cần gặp. Trung Úy Nghĩa đâu chị?" "Nghĩa đang ở bên cạnh Thiếu Tướng. Cẩn chờ một chút nhé." Tôi áp chặt ống điện thoại vào ngực. Mím môi, nh́n xác Hưng rồi nh́n sang Nghĩa tôi hỏi: "Đại Tá Cẩn đ̣i gặp Thiếu Tướng, làm sao bây giờ Nghĩa?" Nghĩa lúng túng: "Cô nói Thiếu Tướng chết rồi." "Không thể nói như vậy được. Đại Tá Cẩn đang cự chiến với Việt Cộng."

Trí óc tôi chợt lóe sáng phi thường. Tôi muốn Cẩn chiến đấu anh hùng. Sống anh hùng. Chết anh hùng. Tôi đưa máy lên giọng quyết liệt: "Thiếu Tướng không thể vào được. Cẩn cần ǵ cứ nói. T́nh h́nh ở Chương Thiện ra sao? Anh c̣n đủ sức chiến đấu không? Tinh thần binh sĩ thế nào? Địch ra sao?" "Tụi nó dần tụi tui quá. Tinh thần anh em vẫn cao. Chị hỏi Thiếu Tướng c̣n giữ y lịnh không?" "Cẩn vui ḷng chờ chút." Tôi lại áp chặt ống điện thoại vào ngực. Cắn chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu lời Cẩn hỏi. Trong tích tắc tôi biết khó cứu văn t́nh thế. Nhưng tôi muốn Hồ Ngọc Cẩn phải luôn hiên ngang hào hùng. Tôi quyết định: "Alô. Cẩn nghe đây: Lịnh Thiếu Tướng. Ông hỏi Cẩn có sẵn sàng tử chiến?" Cẩn đáp thật nhanh; "Lúc nào cũng sẵn sang, chớ chị!" "Tốt lắm, vậy th́ y lịnh." "Dạ, cám ơn chị." Tôi buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước mắt trào ra, tôi kêu nho nhỏ: "Vĩnh biệt Cẩn. Vĩnh biệt Cẩn!"
 

Bảy giờ sáng ngày 1 tháng 5, năm 1975. Vừa tụng dứt đoạn kinh Sám Tỉnh Thế trong nghi thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng nấc sau lưng. Quay lại, chính là Trung Tá Tùng, bác sĩ trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho biết phải trở lại Quân Y Viện ngay v́ Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đă tự sát, xác c̣n nằm tại Quân Y Viện. Tướng Nam đă bắn vào thái dương, lúc 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975. cho đến chết, mắt Tướng Nam vẫn mở trừng trừng, uất hận, miệng người há hốc, đớn đau. Sau cuộc điện đàm với người, tôi đă linh cảm, biết trước chuyện ǵ sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng báo tin, tôi xúc động vô cùng, tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y Viện, nơi Tướng Nam c̣n nằm đó, cầu nguyện: Xin Thiếu Tướng tha thứ. Tôi không dám bỏ xác Hưng để đến vuốt mắt Thiếu Tướng và lo việc tẩm liệm cho Thiếu Tướng. Bây giờ linh hồn của Thiếu Tướng đă gặp Hưng, xin linh thiêng pḥ hộ cho mẹ con tôi thoát khỏi tay Cộng Sản. Xin thương xót cho quê hương, cho dân tộc chúng ta. Xin thương xót cho toàn thể anh em binh sĩ.

Trung Úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người. Trung Úy Thành, vị ân nhân can đảm đặc biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan đó. Thành đă mời được Trung Tá Bia đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân nhân trong cơn biến loạn ấy, trọn đời tôi xin ghi khắc ơn sâu. Tám giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975, các sĩ quan quân đoàn, mặc thường phục, đến viếng xác Hưng. Mầu nhiệm thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ, trong thoáng chốc, mắt Hưng hé mở, nh́n lên. Và từ trong đôi mắt người chết, có hai gịng lệ chảy. Mặt người chợt đỏ bừng lên.

Người khóc cho quê hương đất nước bắt đầu đắm ch́m trong điêu linh. Người khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho lúc đến chết, hai Tướng
Nam và Hưng chỉ phân tách nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch của hai người. Chớ không ai lên tiếng nặng lời trách móc vị Đại Tá kia. Xin quư vị hiểu rơ giùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự của hai ông, vợ con và gia đ́nh hai ông. Trong hoàn cảnh căng thẳng của đất nước, khi ḷng người mất niềm tin, hai ông cũng như nhiều người khác, thật sự đáng thương hơn đáng trách. Không hiểu hai ông có đi thoát, hay bị bắt ở lại.

Vận nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người dù đánh đổi cả vận mệnh cũng không nâng đỡ nổi ṭa nhà Việt
Nam đang sụp đổ tang thương. Nhưng, một ngày chúng ta c̣n mang trong người ḍng máu của dân tộc Lạc Hồng, c̣n hít thở được khí trời, là một ngày chúng ta c̣n nợ nần quê hương. Đó là món nợ thiêng liêng và cao quư mà ngôn từ loài người chưa thể diễn tả được sát nghĩa, và thật đúng ư. Sao chúng ta không noi gương oanh liệt của tổ tiên, của cha ông, nối tiếp ư chí bất khuất của tiền nhân, để trang trải món nợ ân t́nh đó? Sao chúng ta cứ lo chê bai, công kích, hăm hại, đạp chà nhau, để rồi vô t́nh làm lợi cho bọn cướp nươc Cộng Sản?

Đọc những ǵ tôi kể ở đoạn trên, những vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đă hiểu tất cả sự thật v́ sao Tướng Nam và Tướng Hưng đă phải tự sát để bảo tồn tiết tháo. Không ai đem việc thành bại luận anh hùng. Cũng chớ bao giờ lấy tâm địa tiểu nhân để đo ḷng người quân tử. Chúng ta, những người c̣n sống, những người Việt
Nam ở trong nước hay lưu vong khắp bốn phương trời, chúng ta phải tự nêu lên câu hỏi: "Chúng ta đă làm được ǵ cho đừng hổ thẹn với những người đă nằm xuống? Họ đă nằm xuống không phải là v́ họ hèn nhát! Họ đă nằm xuống là v́ muốn bảo toàn sâu chữ mà họ từng mang trên đầu: Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm. Nếu chưa làm được ǵ cho quê hương, xin hăy thận trọng lời phê phán vô ư thức. Đừng vô t́nh thành tàn nhẫn sỉ nhục những người dám chết cho tổ quốc.

Bà Lê Văn Hưng
nhũ danh Phạm Thị Kim Hoàng

 

 

            

Tướng Lê Văn Hưng - Tử Thủ An Lộc 1972 -tuẩn tiết 1975

                 

Cách nay tṛn 30 năm, Cộng Sản Bắc Việt đơn phương xóa bỏ hiệp định Ba Lê mà chúng đă kư kết, xua quân chiếm trọn miền nam, đưa toàn thể dân tộc vào cảnh "THIẾU NHÂN

QUYỀN, DƯ TÙ TỘI, THIẾU CƠM NO, THỪA BỆNH HOẠN". Thế hệ trẻ Việt Nam tại hải ngoại, qua vô số tài liệu ngoại quốc (tŕnh bày cuộc chiến Việt Nam theo cái nh́n chủ quan một chiều hay thiển cận của người viết), có thể sẽ không tránh khỏi một vài nhận định sai lạc về thế hệ cha anh và về Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa . Không ! người

lính Việt Nam Cộng Ḥa đă không hèn! Họ đă chiến đấu rất dũng mănh, "rất tới". Họ đă làm đồng minh khâm phục. Họ đă làm kẻ thù khiếp sợ ! Dù sứ mạng giữ nước đă không

tṛn. Không tṛn chỉ v́ họ đă không may sinh không nhằm thời nên bị đặt dưới sự chỉ huy của một vài cấp lănh đạo "bất tài vô đức" (xin miễn bàn đến yếu tố chính trị thế

 giới và quyền lợi ngoại nhân). Họ đă bẻ gảy Tổng Công Kích Mậu Thân. Họ đă cao ngạo đứng vững trong Mùa Hè Đỏ Lửa. Phải! Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa - xin được viết

hoa - đă không hèn. Không bao giờ đủ bút mực để viết về gương hào hùng và chiến công đầy dẫy của họ . Chỉ xin góp nhặt một vài trang sách cũ về một địa danh đă đi vào

chiến sữ thế giới: An Lộc.

Để vinh danh Người Lính Cộng Ḥa và đặc biệt để tưởng niệm tướng Lê Văn Hưng, người hùng An Lộc, một trong những vị tướng lănh tài đức của QLVNCH, đă chấp nhận tự chọn cái chết vào ngày 30-4-1975 để giử tṛn tiết tháo của người dũng tướng. An Lộc cũng đă cho phép người cựu chiến binh VNCH được ngửng mặt với đời, dù phải lưu lạc

xứ người v́ sứ mạng giữ nước vẫn chưa tṛn. Một thông tín chiến tranh trẻ của Nga, Konstantine Simonoff từng chứng kiến chiến trận Stalingrad giữa lúc thành phố này

bị công hăm đă viết lại rằng "quả đất như lay chuyển dọc chiến tuyến dài 40 dậm kéo dài ngang thành phố Stalingrad. Đường phố Stalingrad tắt nghẽn. Phụ nữ trẻ em không di tản được khỏi thành phố đă phải trú ẩn trong những hầm hố đào sâu trong các ḷng suối dẫn đến con sông Volga. Các oanh tặc cơ của Đức rơi chất đống trên thành phố...

Không có thời gian để chôn người chết... Các bộ chỉ huy trú pḥng Stalingrad được đặt sâu dưới ḷng đất... Những ngôn từ diễn tả trận chiến Stalingrad cách đây 30 năm bây giờ lại được người ta mô tả chiến trường An Lộc. Nếu bút mực, phim ảnh trong 30 năm qua vẫn chưa nói lên hết thảm trạng chiến tranh ở Stalingrad, th́ An Lộc cũng vậy . An Lộc nhỏ bé, nhưng chiến thắng An Lộc quá vĩ đại. An Lộc điêu tàn nhưng chiến thắng An Lộc là một hào quang rực rỡ. Vĩ đại đến nỗi một cựu tướng lănh pháp tại Đông Dương, tướng Paul Vanuxem, đă tạm gác công việc tại Paris để bay ngay sang Việt Nam thăm cho được thành phố nhỏ bé này, và sau đó đă ca ngợi trên tờ Carefour xuất bản tại Ba Lê như sau: "Chiến thắng An Lộc là chiến thắng lịch sử vĩ đại hơn bất cứ một chiến thắng nào trên thế giới. An Lộc đúng ra phải thất thủ ngay từ lúc đầu của cuộc tấn công. Nhưng hai tháng sau An Lộc vẫn c̣n đứng vững. Trừ Stalingrad người ta có thể coi một cách

vẻ vang rằng trong lịch sử chiến tranh cận đại không có một chiến thắng nào tương tự như thế. An Lộc đă trở nên một biểu tượng của sự chịu đựng anh hùng. An Lộc đă đứng

vững dưới những trận băo lửa là nhờ ở sự can đảm của chiến sĩ VNCH... An Lộc đă đứng vững cho chúng ta, cho sự tự do của chúng ta, và cho tương lai của chúng ta..." Càng ngẩn ngơ trước cảnh đổ nát của An Lộc, tướng Vanuxem càng ngưỡng mộ người lính VNCH, ngưỡng mộ đến nỗi ông ta nói lên ư định đưa con cháu sang đầu quân dưới cờ Việt Nam .

An Lộc, tỉnh lỵ của B́nh Long anh dũng, trước đây là một thị trấn nhỏ gọi là Hớn Quản thuộc tỉnh Thủ Dầu Một. Thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, v́ nhu cầu hành chánh, tỉnh B́nh

Long được thành lập gồm 3 quận Chơn Thành, Hớn Quản, Lộc Ninh. Từ ngày đó, quận Hớn Quản mang tên mới là An Lộc. Quận An Lộc gồm cả thành phố tỉnh lỵ rộng 740 cây số vuông với khoảng 44 ngàn dân, đa số tập trung vào xă Tân Lập Phú. Tỉnh B́nh Long nằm sát biên thùy Kampuchea với diện tích 2,240 cây số vuông, gồm trên 76 ngàn dân .

Chung quanh tỉnh lỵ và quận lỵ là những đồn điền cao su ngút ngàn, vài ngọn đồi thoai thoải . Đồi Gió, Đồi 100, Đồi Đồng Long là những cứ điểm quân sự quan trọng bảo vệ

thị trấn An Lộc. Cộng Sản Bắc Việt nhắm vào An Lộc là v́ tỉnh B́nh Long nằm sát biên giới Kampuchea nơi che dấu những căn cứ địa của Cộng Sản Bắc Việt. Thị trấn này về

mặt chiến lược c̣n nắm vai tṛ chủ yếu pḥng thủ cho B́nh Dương và sau đó là thủ đô Sài G̣n. Do đó, tuy An Lộc chỉ là một thị trấn nhỏ bé, nơi đặt cơ sở hành chánh điều hành tỉnh B́nh Long, nhưng đă được Cộng Sản Bắc Việt chọn làm mục tiêu tấn công hy vọng đạt một chiến thắng dễ dàng đồng thời tạo một kinh hoàng, đe dọa thủ đô.

Rạng ngày 5-4-1972, vào lúc b́nh minh, Bộ Chỉ Huy Hành Quân của CSBV ban ra một mệnh lệnh khô khan: "Phải chiếm được An Lộc bằng mọi giá trước ngày 20-4" với ư đồ sẽ tŕnh diện chính phủ lâm thời của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vào ngày 8-6 tại đây. Để dứt điểm An Lộc, CSBV tung vào 4 công trường (tương đương với sư đoàn) gồm các công trường 5, 7, 9, tăng cường thêm công trường B́nh Long, được yểm trợ bởi 2 trung đoàn 202, và 203 Thiết Giáp và hằng hà sa số pháo đội 105, 155, 130, 107, 122

và các pháo đội pḥng không đủ loại. Tính ra, với quân số ít nhất cũng trên 40,000 quân với hỏa lực pháo binh hùng hậu, CSBV tin chắc sẽ nuốt trững An Lộc chỉ được sư

đoàn 5 bộ binh bảo vệ Để duy tŕ áp lực trên thành phố An Lộc, hoặc ngay cả trước khi mở cuộc "hậu xung", Cộng Sản Bắc Việt đă dành cho thị trấn nhỏ bé này những trận

pháo kích chưa từng thấy trong lịch sử chiến cuộc thế giới.

Không c̣n danh từ nào tượng h́nh hơn danh từ "mưa pháo" mà người dân và chiến sĩ ở đây đă gọi. Một sĩ quan cao cấp, đại tá Mạnh Văn Trường, đă ví những trận pháo kích

của Cộng Sản Bắc Việt như một chiêu thức vơ hiệp "Măn Hoa Thên Vũ" (mưa hoa bay đầy trời). Diện tích An Lộc chừng vài cây số vuông trong 2 tháng trời đă lănh đủ mọi

thứ đạn của Cộng Sản Bắc Việt có lúc đến gần 8,000 quả trong 1 ngày như ngày 11-5. Tính chung hơn 2 tháng trời bi. pháo liên tục, thành phố An Lộc đă chịu đựng hơn

200,000 quả đạn đủ loại . Ít người được dịp chứng kiến tận mắt thành phố An Lộc hoang tàn sau những cơn mưa pháo bất tận, nhưng ai ai cũng có thể h́nh dung những đổ nát của thị trấn nhỏ bé này với một tưởng tượng rằng cứ chừng 20 thước vuông đất th́ bị tàn phá bởi một quả đạn pháo kích của Cộng Sản Bắc Việt. Với "mật độ" này, không có một vật ǵ ở thị trấn An Lộc không ghi nhận dấu vết tàn phá của đạn pháo kích. Từ cột điện, cây cối cho đến chiếc lon sữa ḅ vứt ngoài đường phố cũng ít nhất bị trúng miểng pháo, đừng nói ǵ đến nhà cửa ....

An Lộc c̣n có những bi thảm mà thế giới văn minh không ai có thể tin là sự thật. Dưới trận mưa pháo kinh hoàng của đoàn quân xâm lược, thật ít người được chết chỉ 1 lần. Vắng tiếng pháo, người sống vội vă lo cho người chết, đào tạm cái hố, gom vội thi hài để người chết được 1 nơi yên giấc và cũng để tránh cảnh xác người śnh thối trước mặt người sống. Thế nhưng giấc ngủ của kẻ chết cũng không yên dưới tay giặc Cộng. Mộ mới đắp vài phút, đạn pháo kích của quân thù lại rơi vào. Xác người chết vốn không c̣n nguyên vẹn lại bị sát hại thêm một lần nữa bởi mộng xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt .

Người dân c̣n kẹt ở An Lộc, người lính quyết tâm tử thủ bảo vệ thành phố này đă cố gắng chịu đựng đến tột cùng của sự cố gắng trước cái kinh hoàng của mưa pháo để

thành phố không thất thủ. Những tiếng nổ khủng khiếp liên hồi hàng chục ngày rồi cũng trở thành những âm thanh dịu vợi v́ quen quen thuộc. Cái kinh hoàng bây giờ không c̣n phải ở hai tai mà đôi mắt khi nh́n thấy những người đi thu lượm chấp nối để thi hài của thân nhân bạn hữu được đầy đủ trước khi vùi sâu dưới ḷng đất lạnh. Ngày 15-4 hơn 10 ngàn dân chúng chạy vô khu nhà thờ và nhà thương An Lộc, hy vọng cộng quân không tấn công 2 địa điểm này, bởi nếu c̣n có chút ḷng người không một cấp chỉ huy quân sự nào có thể ra lệnh bắn vào nhà thương và nhà thờ. Chữ "thương" và chữ "thờ" với sự

tượng trưng đặc thù, tự nó đă nói lên tất cả ư nghĩa của sự việc dân chúng t́m hai nơi này lánh nạn.

Tuy nhiên cộng quân vẫn tập trung hỏa lực để pháo kích vào hai nơi này. Gần 2 tháng sau, khi kể lại vụ nhà thờ 15-4 cho chúng tôi, người lính tử thủ vẫn c̣n kinh hoàng

và sự kinh tởm cho dă tâm của Cộng Sản Bắc Việt. Anh nói : "Cả chục ngàn người đang ở khu vực nhà thờ, họ cùng các vị lănh đạo tinh thần chỉ c̣n biết cầu xin đấng duy linh tối thượng, thương xót cho một đám dân lạc loài qua cảnh đao binh Không ai có thể h́nh dung cảnh hỗn loạn, thảm khốc khi hơn 10 ngàn người đạp lên nhau chạy thoát khỏi khu nhà thờ. Số thương vong không biết sao kể xiết". Một thành phố nhỏ như An Lộc dễ dàng trở thành mục tiêu tốt cho bất cứ pháo thủ nào chỉnh súng để pháo vào đó, bởi vậy An Lộc đă chẳng c̣n ǵ sau hơn 60 ngày bị pháo kích. Điều may mắn c̣n lại cho những người tử thủ là đạn rơi trúng hầm th́ mới chết chứ cách hầm vài thước ít ăn thua ǵ, v́ cộng quân không có nhiều loại đầu đạn delay, loại đạn nổ chậm, chui sâu khoảng 10

thước mới phát nổ gây tàn phá hầm trú ẩn rất khủng khiếp.

Kể cả căn hầm của tướng Hưng, ở An Lộc hầu như không có công sự nào chịu nổi một phát 130 hay hỏa tiển 122, có điều thượng đế c̣n "ngó lại" nên phần trên của căn nhà

của tướng Hưng chỉ bị mấy trái cối 82. Đạn 82 không xuyên phá, khi nổ văng nhiều mảnh nhưng chỉ có thể làm xập mái nhà mà thôi. Một vài trái hỏa tiển 122, 107 và cả đạn delay đă rơi chung quanh bộ chỉ huy của tướng Hưng, rất may mắn không có trái nào trúng hầm và chỉ làm hư hại phần ngoài của khu vực này. Đă nói tới pháo kích tức nhiên phải nghĩ đến những tàn phá và thảm cảnh, những điều này mới chính là biểu trưng vĩ đại nhất cho

sự chịu đựng tinh thần kiên quyết của người tử thủ cho dù đó là quân nhân hay những thường dân hoàn toàn không vơ trang. Với 200 ngàn trái đạn trong hơn 2 tháng, cộng

quân đă làm An Lộc sụp đổ toàn diện, 4 ngàn binh sĩ và thường dân VNCH thiệt mạng bên trong thị trấn nhỏ bé. Nhưng tại sao thành phố anh hùng này vẫn đứng vững và trở thành biểu tượng cho tinh thần chiến đấu của tất cả mọi công dân Nam Việt Nam hay nói 1 cách không thậm xưng, một biểu tượng của thế giới tự do trước làn sóng đỏ xâm lăng .

Sau mỗi đợt "mưa pháo", Cộng Sản Bắc Việt tung chiến xa, những chiếc T-54 bề thế, vừa lầm ĺ tiến tới, vừa nả đạn NHƯ mưa vào tuyến trú pḥng, mở đường cho các đơn vị bộ

binh Cộng Sản Bắc Việt "tùng thiết" theo sát phía sau. Người lính An Lộc, không có chiến xa, không c̣n đại pháo, chỉ c̣n biết trông cậy vào những khẩu M-72 chống

chiến xa với tầm hiệu quả không quá 150 thước. Học núp ḿnh dưới giao thông hào, chờ tăng địch đến gần, đến thật gần, mới đứng lên khai hỏa. Từng chiếc tăng địch bốc cháy, lựu đạn tung ra, lưỡi lê tuốt trần, người lính VNCH đă phải cận chiến để đánh bật từng đơn vị cộng quân đă xâm nhập vào thị trấn. Cộng quân dùng xa luân chiến để vùi dập quân trú pḥng, nhất định không cho quân ta nghĩ ngơị Thiếu đạn, thiếu súng, thiếu ăn, thiếu ngủ, người lính An Lộc, sau này được tăng phái thêm Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, đă giử vững tuyến pḥng thủ qua bao ngày vây hăm.

Ngày 8-6, Tiểu Đoàn 6 Dù, sau khi bị tan nát tại Đồi Gió và được tái lập với 3/4 lính mới, những người lính chưa kịp được học tác xạ M-16, đă rửa hận, đánh thật tuyệt vời, mở được đường vào "bắt tay" với An Lộc, sau khi vượt qua trùng trùng điệp điệp các đơn vị Bắc Quân, chấm dứt 68 ngày vây hăm An Lộc của quân Cộng Sản Việt Nam. Quân pḥng thủ An Lộc tung ra mở rộng pḥng tuyến, chiếm lại từng điểm chiến lược trong thị trấn, tạo an toàn bải đáp cho quân tăng viện. Ngày 9-6, lần đầu tiên từ hơn 2 tháng nay, một đoàn trực thăng 23 chiếc đă đáp xuống An Lộc, vừa đổ quân, vừa tiếp tế, vừa bốc thương binh về hậu cứ.

Ngày 12-6, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù chiếm lại Đồi Đồng Long, một cao điểm chiến lược bên ngoài thị xă. Khi lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ phất phơ trên đỉnh Đồng Long, tướng

Hưng ngắn gọn tuyên bố với thông tín viên đài VTVN: "Thành phố An Lộc đă được hoàn toàn giải tỏa". Về sự nhiệm mầu đă giúp cho An Lộc đứng vững. Tướng Lê Văn Hưng người hùng tử thủ An Lộc đă viết như sau : "An Lộc đă đứng vững suốt 3 tháng cam go nhờ vào tinh thần chiến đấu kiên cường của toàn thể quân dân anh hùng nơi thị xă nhỏ bé thân yêu của đất nước".

 

Tác giả: Sơn Tùng

 

 

lên web ngày 18 - 4 - 2006