|
|||||||
|
Ngày Tàn Của Cuộc Chiến
Những tràng đại liên chính
xác là 4 chiếc trực thăng vơ trang thuộc Sư Đoàn 4 Không Quân đổ lên đầu
toán tiền thám thuộc Trung Đoàn Cộng Sản D1 miền Tây Nam Bộ đang vượt kinh
Thác Lác với ư đồ mở đường cho Trung Đoàn này xâm nhập ṿng đai bao quanh
thị trấn Cần Thơ và phi trường Trà Nóc. Tiếng gào thét ran trời. Từng xác
người tung lên...đêm dần dần phủ kín lớp sông dài.
Khoảng trung tuần tháng 4
năm 1975, Thiếu Tướng Nam cùng tôi qua Mỹ Tho họp với các Tư Lệnh Sư Đoàn và
các Tỉnh Trưởng miền Hậu Giang để thảo luận về kế hoạch ngăn chận hoạt động
của Cộng Sản gây ảnh hưởng tới t́nh h́nh an ninh Quân Khu 4. Tướng Ngô Quang
Trưởng từ Bộ Tổng Tham Mưu xuống tham dự buổi họp, tôi có tŕnh bày tường
tận về nghị quyết "Tổng Tấn Công", "Tổng Khởi Nghĩa" để đi đến dứt điểm
chiến trường của Cộng Sản. Một số sĩ quan tham dự buổi họp tỏ vẻ hoài nghi
về khả năng của Cộng Sản để thực hiện nghị quyết ấy ở miền Tây. Vào cuối
tháng 4, tại các vùng khác quân ta phải triệt thoái liên miên, riêng vùng 4
cho đến ngày cuối cùng vẫn giữ được sự toàn vẹn lănh thổ. Cuộc pḥng thủ Bộ
Chỉ Huy cuối cùng của quân đội vẫn được ráo riết thực hiện. Các đà sắt làm
cầu được xuất kho để hoàn thành những nhà hầm kiên cố, có thiết trí hệ thống
truyền tin, chuẩn bị đón tiếp Bộ Tổng Tham Mưu nếu Sài G̣n thất thủ.
Sáng sớm ngày 30 tháng Tư,
không khí Bộ Tư Lệnh Quân Khu 4 có vẻ khẩn trương v́ sự ra đi của Chuẩn
Tướng TMT và một số sĩ quan trong đêm trước. Tiếp theo đó, qua đài phát
thanh Sài G̣n, Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh toàn bộ QLVNCH buông súng
đầu hàng địch và chuẩn bị bàn giao căn cứ cho chúng. Mọi người đều rung động,
không khí căng thẳng đến cực độ, có người c̣n hy vọng Dương Văn Minh lên làm
Tổng Thống để sửa soạn một giải pháp trung lập, ḥa giải chứ đâu có ngờ ông
ta lên làm Tổng Thống để đầu hàng địch.
VDA
------------------------------------------------------------------------------------------------------
Published: Sunday, 10-Apr-2005
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam: Những Phút Tâm T́nh Cuối Cùng
Lê Chu, Arlington - Texas **************
Cuối năm 1973, tôi được lệnh bổ nhiệm về Liên đoàn 67 Truyền tin tại Cần Thơ. Lúc đầu, Thiếu tướng Nam không đồng ư cho tôi rời khỏi Sư đoàn 7 Bộ binh. Ông bảo: "Anh ở đó chứ đi đâu". Tôi thưa với ông rằng: "Thưa Thiếu tướng, tôi đă phục vụ ở Sư đoàn ṛng ră 7 năm trời. Trong binh chủng Truyền tin chỉ có 3 Liên đoàn. Thiếu tướng giữ tôi lại SĐ7BB, e sau này tôi mất cơ hội". Suy nghĩ một chốc, ông đồng ư và hỏi ai là người thay thế tôi. Tôi tŕnh rằng nếu ông đồng ư th́ Cục Truyền tin sẽ cử anh Bùi Văn Hạp, trung tá hiện đang giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Truyền tin SĐ7BB (người cùng khóa 3, cùng trung đội với thiếu tướng Nam) thay thế tôi. Tướng Nam đồng ư. Tôi về Cần Thơ được 6 tháng th́ thiếu tướng Nam cũng về Cần Thơ nhận chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV. Một người bạn bảo tôi chạy trời không khỏi nắng. Buổi lễ bàn giao chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV được tổ chức tại sân cờ Bộ Tư lệnh. Sau khi một sĩ quan tuyên đọc lệnh bổ nhiệm Tân Tư lệnh - Trung tướng cựu Tư lệnh trao quân kỳ Quân đoàn IV cho tân Tư lệnh. Không có thượng cấp chủ tọa, không diễn văn, không huấn thị. Một buổi lễ bàn giao "ngắn, gọn" và "độc đáo". Buổi lễ tuy vắng bóng cấp trên của Quân đoàn nhưng thân hào, nhân sĩ, các vị lănh đạo tinh thần dự lễ rất đông. Sau buổi lễ bàn giao, ông bắt tay vào công việc mới. Từ nay, công việc của ông không c̣n hoàn toàn thuần túy quân đội mà c̣n liên hệ đến các lănh vực khác như hành chánh, ngoại giao, chính trị. Tuy rất bận nhưng thỉnh thoảng ông cũng đến thăm Liên đoàn của tôi, đóng tại gần cầu B́nh Thủy. Lần thăm viếng đầu tiên, sau phần thuyết tŕnh, ông muốn đi thăm doanh trại và cơ sở. Ông hài ḷng và có ư định dùng bản doanh Liên đoàn 67 Truyền tin làm bản doanh Bộ Tư lệnh Đặc nhiệm để chỉ huy và điều hợp các tiểu khu Kiến Phong, Sadec, Long Xuyên, Châu Đốc. Do gợi ư của ông, những hôm sau, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó và Đại Tá Nguyễn Đ́nh Vinh, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn đến thăm đơn vị tôi. Công việc chỉ mới dự định, chưa thực hiện th́ mất nước. Một hôm, ông đến thăm, ghé vào cư xá, tôi sống một ḿnh v́ vợ con tôi vẫn c̣n ở Mỹ Tho. Trông thấy trong pḥng khách có tượng Phật Quan Âm và tượng Đức Mẹ bằng thạch cao. Ông hỏi tượng Phật ở đâu mà đẹp vậy, thỉnh cho ông một chiếc được không. Tượng Phật Quan Âm do vợ tôi mua tại một cửa hàng mỹ thuật tại Sài G̣n. Đơn vị tôi có trách nhiệm cung cấp các mạch liên lạc điện thoại và viễn ấn cho các thành phố, các căn cứ quân sự của Hải, Lục, Không Quân thuộc 15 tỉnh miền Tây. Tháng nào cũng có anh em trong đơn vị bị thương vong do bị ḿn, bị bắn sẽ, bị trúng đạn pháo nên vợ tôi thỉnh tượng Phật Quan Âm để cầu an. C̣n tượng Đức Mẹ th́ do các bà xơ thuộc một tu viện trước mặt Liên đoàn tặng làm kỷ vật. Tôi thiết trí một bàn thờ, mẫu mă đơn giản nhưng gọn đẹp, một bộ đèn bằng gỗ trắc và thỉnh tượng Phật về đặt tại pḥng khách dinh Tư lệnh. Ngày an vị Phật, ông mời thầy Tuyên úy Phật Giáo và một số quan khách đến cầu an và dự cơm chay tại tư dinh. Ngờ đâu, sau ngày 30-4-1975, ông đă kết liễu cuộc đời tại pḥng khách, trước bàn thờ Phật. Đêm 29 tháng 4, Cộng Sản tấn kích Rạch Sỏi, Sóc Trăng, Trà Vinh. Các mạch liên lạc với Sài G̣n bị trở ngại v́ đài viễn thông Núi Lớn ở Vũng Tàu bị pháo gây thiệt hại. Tôi nhận được điện thoại của Thiếu tướng, ông hỏi lư do v́ sao liên lạc với Sài G̣n bị khó khăn. Tôi tŕnh cho ông biết lư do và báo đă chuyển mạch liên lạc Cần Thơ - Sài G̣n qua ngă Đồng Tâm. Sáng 30-4-1975, lúc 6 giờ rưỡi sáng, Quân đoàn mời các đơn vị trưởng hay phụ tá đến họp tại Bộ Tư lệnh. Các đơn vị trưởng phần lớn đều c̣n ở lại. Đại tá Nguyễn Đ́nh Vinh được chỉ định làm quyền Tham mưu trưởng Quân đoàn IV. Tôi ngồi cạnh anh Huỳnh Ngọc Diệp (khóa 3 Thủ Đức), đại tá Tỉnh trưởng Cần Thơ, anh Lê Nguyên B́nh, đại tá Trưởng Pḥng 2 Quân đoàn và anh Nguyễn Bá Trang, đại tá Hải Quân. Anh Trang và tôi cùng học chung khóa Chỉ huy Tham mưu năm 1972. Tôi hỏi anh Trang rằng anh sẵn tàu sao không đi? Anh trả lời: "Bậy nào - Để chờ xem Tư lệnh quyết định thế nào đă - Mặt mũi nào mà bỏ chạy". Sau này tôi gặp lại anh và cả người anh của anh là đại tá Nguyễn Bá Trước, gốc Dù, cựu tỉnh trưởng Phước Tuy và có thời kỳ làm Tham mưu trưởng SĐ7BB. Các anh đều bị đưa ra cải tạo ở miền Bắc như chúng tôi. Tướng Nam vừa bước vào pḥng họp th́ tùy viên báo cho ông là Tổng Thống Dương Văn Minh muốn nói chuyện với Tư lệnh Quân đoàn IV qua điện thoại. Tướng Nam rời pḥng họp. Liền sau đó Trung tâm Hành quân Quân đoàn mở đài Sài G̣n. Đài phát đi lời kêu gọi của ông Dương Văn Minh: "Quân đội VNCH ngưng chiến đấu để chờ bàn giao". Đại tá Hiền vật vă khóc: "Đầu hàng rồi tụi bây ơi! Nhục ơi là nhục!" Thật thấm thía, đau khổ không thể nào kể xiết. Rồi đây, bản thân và gia đ́nh sẽ ra sao? Đất nước, dân tộc đi về đâu? Tướng Nam trở lại pḥng họp, nét mặt ông lộ vẻ buồn, rất buồn. Giọng nói c̣n xúc động, ông nói với chúng tôi: "Chúng ta là quân nhân. Quân nhân phải thi hành lệnh thượng cấp. Nay Tổng Thống ra lệnh ngưng chiến đấu, ở vị trí tại chỗ, chờ bàn giao. Thôi chào anh em và anh em trở về đơn vị". Ông lại nói tiếp: "Tôi không chủ trương ra đi. Với cương vị của tôi, ra đi lúc nào cũng được, nhưng nghĩ đến anh em chiến sĩ ngoài mặt trận, gia đ́nh vợ con binh sĩ và đồng bào nên tôi không ra đi." Đây là lần chót tôi gặp ông. Tôi lên xe trở về đơn vị, tâm thần bất định, nửa muốn chết nửa tham sinh. Lời vợ tôi vẫn c̣n văng vẵng: "Anh đi đi, ở lại tụi nó giết cho bây giờ". Giữa đường, tôi có thấy hai anh Huỳnh Ngọc Diệp và Lê Nguyên B́nh. Khi ra Bắc cải tạo, không thấy các anh ấy, tôi biết rằng các anh đă vượt thoát và tôi mừng cho các anh ấy. Sáng 1-5-1975, lính gác bảo là "cách mạng" muốn gặp đơn vị trưởng. Tôi vẫn mặc quân phục đầy đủ ra tiếp họ. Một nhóm bộ đội, trong đó có vài người mang túi vải trên vai, cán bộ chỉ huy, một người trạc dưới 50 tuổi, nói giọng Huế, giới thiệu là Tám Thanh. Đơn vị anh ta đến tiếp quản khu vực Liên đoàn của tôi. Họ tập họp binh sĩ các cấp lại, cấp giấy tờ cho về nhà, trừ cấp chỉ huy, lấy lư do họ cần chúng tôi để "bàn giao". Hai hôm sau, cũng chính ông cán bộ tên Tám Thanh này cho biết trong đơn vị có người tự sát. Khi mở cửa nhà kho, chúng tôi thấy thi thể một hạ sĩ quan đă tự sát bằng lựu đạn. Đang dự tính tháo ván trên vách đóng thành quan tài để chôn ngay tại đơn vị th́ một hạ sĩ quan tài xế xuất hiện, thấy chúng tôi bị giữ tại đơn vị, anh ta mua ít bánh ḿ tặng chúng tôi làm lương thực. Anh ta báo rằng, ở Trung đội Chung sự c̣n bốn quan tài, người ta lấy một chiếc để chôn Thiếu tướng Nam, c̣n 3 chiếc có thể xin mấy ông cách mạng viết giấy giới thiệu, lănh quan tài về chôn bạn ḿnh. Nghe tin, tôi bàng hoàng xúc động. Thượng cấp đă đi rồi và thuộc cấp cũng lấy cái chết để bảo toàn danh dự. Sau 5 ngày bị lưu giữ tại đơn vị, bộ phận tiếp quản thấy không có ǵ xẩy ra, họ cấp cho tôi giấy trở về nhà. Trước khi trở về Mỹ Tho, tôi ghé lại nhà một người quen và được biết sau khi tự sát, thi hài Thiếu tướng Tư lệnh được đưa về Quân y viện Phan Thanh Giản Cần Thơ. Đêm hôm ấy, hai bác sĩ, một trung tá thuộc Trung tâm Tiếp huyết,và một đại úy cháu của tướng Nam đến viếng thi hài của ông th́ bị lính Việt Cộng bắn, Trung tá chết và Đại úy bị thương nặng. Anh Hoàng Như Tùng, trung tá Bác sĩ, giám đốc Quân y viện Phan Thanh Giản đích thân giải phẩu và điều trị cho vị sĩ quan, sau này tôi mới biết là bác sĩ Nguyễn Khoa Lai. Anh Hoàng Như Tùng, nay định cư ở Houston - Texas là bạn học của tôi khi chúng tôi c̣n học trung học ở trường Khải Định - Huế. Chính anh Hoàng Như Tùng đứng ra chôn cất thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Thi hài ông được an táng ở Nghĩa trang Quân đội Cần Thơ. Việt Cộng xóa ḍng chữ "Nghĩa trang Quân đội" và viết lên đó những ḍng chữ "Mồ chôn quân giặc". Thân nhân các người quá cố thấy tủi thân nên chờ ban đêm, họ lén đào các mộ người thân đem đi cải táng nơi khác - Việt Cộng đă xả súng bắn vào nhóm người đó gây thêm một số thương vong. Khi tôi c̣n ở trại cải tạo số 8 đoàn 776 Hoàng Liên Sơn, bỗng một hôm gặp bác sĩ Hoàng Như Tùng. Anh từ một trại cải tạo ở Sơn La được chuyển xuống Yên Bái. Lẽ ra các bác sĩ chỉ bị cải tạo ở trong Nam. Trường hợp của bác sĩ Tùng, anh phải ra Bắc là v́ Cộng Sản nghi các chết của thiếu tướng Nam có "vấn đề". Họ nghi xác đó là Nguyễn Khoa Nam giả. Hơn nữa, khi tiếp nhận thi hài của thiếu tướng Nam, trong hoàn cảnh đó, anh dám nói lên một câu: "Đời ông ấy để lịch sử phê phán". Sau khi được tha từ trại cải tạo về, đời sống gia đ́nh quá khó khăn. Kinh tế gia đ́nh kiệt quệ, nhà cửa và tài sản đều bị tước sạch, tôi th́ bị Công An theo dơi ngày đêm, các con tôi mang một lư lịch chính trị của cha nó đen x́. Chúng tôi từ một trại tù nhỏ được chuyển về một nhà tù lớn. Và không cứ ǵ gia đ́nh tôi phải gánh chịu cuộc sống bi đát đó. Cả một dân tộc sống trong đau thương. Tôi nghe người ta bàn tán rằng tướng Nguyễn Khoa Nam hiện đang ở trên một chiếc tàu ngoài biển khơi, chỉ huy đoàn quân phục quốc. Rồi c̣n để thuyết phục ḷng tin của mọi người, người ta c̣n bảo đài BBC loan tin như vậy. Tôi biết Thiếu tướng đă mất, nhưng khi mọi người chỉ c̣n dựa vào tên ông như là một hy vọng vào niềm tin để sống, tôi chia xẻ và cảm thông với họ. Shakespeare, qua các nhân vật của một vở kịch, có viết rằng, mỗi người xuất hiện trên sân khấu một lần, diễn xuất một cách vụng về rồi biến mất. Điều này có thể đúng với tôi, với nhiều người khác nhưng không đúng với Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Ông không diễn xuất vụng về, trái lại, ông diễn xuất rất đạt, rất thành công. Ông không biến mất - Ông vẫn trường tồn. Ông được nhiều người ca tụng là anh hùng. Theo tôi, ông có những cái ǵ khác hơn anh hùng. Anh hùng dựa vào dân tộc, dựa vào lịch sử mà trường tồn, được xem như người chiến thắng, được bỏ qua những lổi lầm. C̣n ở ông c̣n toát ra những ǵ thanh cao, khí tiết. Ông là kết tụ của tinh thần bất khuất Trần B́nh Trọng, Nguyễn Biểu - ninh thọ tử bất ninh thọ nhục - thà chết chứ không chịu nhục. Ông là tiếp nối của truyền thống hào hùng tiết tháo của Vơ Tánh, Hoàng Diệu - tướng chết theo thành. Cái chết của ông thật lặng lẽ, âm thầm và cô đơn nhưng lại chuyển vào mạch sống của dân tộc. Ông đă để lại cho lịch sử khúc ca chính khí. Tôi viết lên những ḍng này vào giữa đêm khuya, trong pḥng vắng. Đến đây, tôi ngừng viết, đọc lại những ǵ ghi trên giấy, nước mắt bỗng tuôn tràn trên g̣ má. Tôi khóc cho ông, người thầy của tôi và cho những người nằm xuống. Nhưng tôi cũng khóc cho tôi, cho những người thân, cho những bạn bè đă hứng chịu những hệ lụy bi đát sau ngày tàn cuộc chiến. Tôi khóc v́ cảm động trước đắng cay mà đồng bào tôi đang sống trong màn đêm bạo tàn ở ngay chính trên quê hương của ḿnh. Tôi viết những ḍng này, trước ngày húy nhật thứ 30 của ông để dâng lên ông ḷng kính trọng. Tôi không ca tụng ông v́ danh ông lớn quá, ca tụng cũng bằng thừa. Tôi chỉ ghi lại vài mẩu chuyện rất người của một con người b́nh thường, nhưng đă vươn lên cao, nếu không nói là vĩ đại.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Thương Tiếc Viết VềTướng Nguyễn Khoa NamNguyễn Khoa Phước
Cuối tháng 3 năm 1998, anh Thời, cựu SVSQ khóa III Thủ Đức đến nhà tôi mượn tấm ảnh của Tướng Nguyễn Khoa Nam và tặng tôi một số đặc san NKN do các anh đồng khóa ấn hành từ mấy năm nay. Anh Thời đă yêu cầu tôi viết vài hàng về anh Nam, người anh ruột của tôi. Tôi xúc động vô cùng! Từ mấy năm nay, tôi không muốn viết về anh Nam nữa, tôi muốn để cho tâm tư lắng xuống và nỗi buồn chia cắt ruột thịt sẽ vơi theo thời gian, nhưng với anh Thời và cũng như tất cả các anh cựu khóa III Thủ Đức, tôi không thể từ chối được v́ các anh là bạn của anh tôi. Đến giờ phút này, các anh đă ngoài 70, c̣n ngồi lại với nhau để viết cho nhau và cho các chiến hữu QLVNCH những tâm t́nh, những kinh nghiệm. Đó là điều đáng quư. Tôi kính trọng các anh là ở chỗ đó. Những ǵ tôi viết ở đây về Thiếu Tướng Nguyễn Văn Nam là của chính tôi biết, những ǵ do anh em sĩ quan hay bạn kể lại, nhất là suốt 12 năm trong lao tù Cộng Sản, có lẽ tôi muốn kể ra. Thời gian Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam ở trong quân ngũ, từ 1953 đến 1975, tôi rất ít biết v́ anh em tôi phải xa nhau, mỗi người một lănh vực, mỗi người một hoàn cảnh. 1. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam gốc Làng An Cựu Tây, Huyện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, sinh tại Thành phố Tourane (Đà Nẵng) ngày 23 tháng 9 năm 1927. Gia đ́nh chúng tôi có nhiều anh em nhưng các anh lớn đều mất sớm, đến năm 1975, chúng tôi c̣n một bà chị là Nguyễn Khoa Diệu Khâm, năm nay 82 tuổi đang ở Sài G̣n, anh Nam và tôi là em út. Anh Nam lớn hơn tôi 8 tuổi, đúng hơn là 7 năm, 7 tháng. Ông thân sinh chúng tôi trước là Thanh Tra Học Chánh tại Đà Nẵng thường gọi là Cụ Thái Thường Nguyễn Khoa Túc, về hưu năm 1941 và về nghỉ hưu tại Huế. Mẹ chúng tôi là bà Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc ḍng Tuy Lúy Vương. 2. Anh Nam học Tiểu học tại Trường École des Garcons thành phố Đà Nẵng, từ năm 1933 đến năm 1939 ra Huế tiếp tục học Lycée Khải Định và ở nội trú. Anh đậu bằng Thành Chung năm 1943 và tiếp tục học lên đến Nhị Cấp. Đến năm 1946, chiến tranh bùng nổ, cả gia đ́nh chúng tôi phải tản cư, lúc bấy giờ anh đă 19 tuổi, định theo kháng chiến trong hàng ngũ Thanh Niên Tiền Phong nhưng Mẹ tôi giữ lại. Năm 1947, hồi cư, anh Nam tiếp tục học lớp Đệ Nhị Toán nhưng sau đó theo học lớp Hành Chánh tại Huế. Năm 1951 anh giữ chức chủ sự Tài Chánh cho đến năm 1953 th́ được gọi nhập ngũ Khóa III Thủ Đức. Lúc đó tôi có giấy gọi v́ đă đủ 18 tuổi được miễn v́ c̣n vài tháng nữa tôi phải thi Tú Tài 2. 3. Tháng 9 năm 1953, tôi vào Sài G̣n theo học Faculté des Sciences (Université de Saigon) th́ gặp anh Nam. Chủ nhật nào hai anh em chúng tôi cũng gặp nhau. Chiều Chủ Nhật, tôi đưa anh lên nhà thương Grall, ở đó có xe của quân trường chở về Thủ Đức. Tháng 10 năm 1953, anh ra trường t́nh nguyện vào binh chủng Nhảy Dù, đi học chuyên nghiệp rồi theo đơn vị ra Bắc luôn, tôi không hề hay biết ǵ cả (lúc này cha mẹ tôi mất rồi nên anh làm theo ư thích của ḿnh). Măi đến khi nhận được thư anh từ một KBC ngoài Bắc, tôi mới biết anh ở trong đơn vị Nhảy Dù đang hành quân ngoài đó. Tôi không có ư kiến ǵ v́ biết tính anh tôi khi quyết định rồi th́ không thay đổi được. Tháng 8 năm 1954, sau hội nghị Genève, anh theo đơn vị vào Sài G̣n, tôi đến thăm thấy anh mang lon Trung Úy, tôi có hỏi anh năm nay 27 tuổi rồi, ḥa b́nh rồi, có tính chuyện vợ con không. Anh cười và nói: "Ḿnh nhảy dù, lấy ai th́ người đó dễ trở thành quả phụ, tội lắm." Tôi biết anh không muốn lấy vợ. Về sau này, bà con, cô bác làm mai mối cho anh nhiều nơi xứng đáng, rồi anh cũng lờ đi. Năm 1955, anh làm Đại Đội Trưởng thuộc TĐ7ND và hành quân đánh B́nh Xuyên tại Sài G̣n. Sau đó anh được thăng Đại Úy và Sư Đoàn cử anh đi học kỹ thuật ở Pau (Pháp) khoảng 8 tháng. Lúc này anh có mua được một căn phố nhỏ, một pḥng ngủ, một pḥng khách ở Cư Xá Nhảy Dù trước Trường Đua Phú Thọ. Anh vẫn ở căn nhà này, không sửa sang cho đến 30-4-1975. Thật ra th́ ít khi về đây, phần lớn thời gian ở trong đơn vị, vả lại về nhà một ḿnh cũng buồn lắm, có lẽ ở đơn vị vui hơn. Tháng 5 năm 1975, tôi có xuống thăm căn nhà này, nhưng thấy hai thằng quân quản đứng đó nên tôi bỏ đi luôn. Năm 1956, anh Nam ở Pháp về làm Đại Đội Trưởng kỹ thuật Dù trong trại Hoàng Hoa Thám. Anh mang lon Đại Úy từ 1955-1964. Qua đầu năm 1965 anh giữ chức Tiểu Đoàn Trưởng TĐ5ND, tôi mới thấy anh lên Thiếu Tá. Từ lúc nắm TĐ5ND, anh đi hành quân khắp bốn Vùng Chiến Thuật. Năm 1966, khoảng tháng 3, TĐ5ND tham dự cuộc hành quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngăi do Sư Đoàn 22 BB tổ chức, anh có về thăm gia đ́nh tôi. Anh rất thương các cháu con tôi và có th́ giờ rảnh là về nhà tôi tắm rửa, ăn cơm và thăm các cháu. Thời gian này, tôi là Hiệu Trưởng Trường Trung Học Đệ Nhất Cấp Trần Quốc Tuấn, Quảng Ngăi. Đây là lúc anh em chúng tôi gặp nhau nhiều nhất cả thời gian sau này. Thấy anh có vẻ buồn dù ta đang thắng, tôi hỏi anh, anh nói: "Chiến tranh đem lại chết chóc và đau thương, hàng trăm xác Việt Cộng 15, 16 tuổi phơi thây trên núi Tṛn, bên đơn vị ḿnh có mười mấy bạn phải hy sinh, tội quá. Vợ con họ ở nhà chắc đau khổ lắm. Kỳ này về phải lo cho gia đ́nh tử sĩ." Lần đó, anh được ân thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Sau đó tháng 5 năm 1966, TĐ5ND đi Huế về vụ Phật Giáo, cũng là điều bất đắc dĩ. Năm 1967, thăng cấp Trung Tá và được bổ nhiệm làm Lữ Đoàn Trưởng LĐ3ND. Lữ Đoàn được nổi danh với trận đánh đồi Ngok Van ở Kontum. Cuối năm 1967, anh được thăng cấp Đại Tá với Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Năm 1968, LĐ3ND về Sài G̣n tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Đô Thành Sài G̣n Chợ Lớn. Năm 1969, được cử giữ chức Tư Lệnh SĐ7BB kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Tháng 11 năm 1969, được vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức tại Mặt Trận. Đến tháng 10 năm 1971 được thăng chức Chuẩn Tướng Thực Thụ. Năm 1972, được thăng cấp Thiếu Tướng nhiệm chức. Tháng 10 năm 1973, được thăng cấp Thiếu Tướng thực thụ. Tháng 11 năm 1974, được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV Vùng IV Chiến Thuật cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Chiều ngày 1 tháng 5 năm 1975, Trung Úy Danh, Sĩ Quan Tùy Viên của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam lên Sài G̣n tin cho chị tôi là bà Diệu Khâm biết là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đă tuẫn tiết. Trung Úy Danh nói thêm Thiếu Tướng tự sát vào khoảng nửa đêm 30-4-75 rạng 1-5-75. Ông ngồi trên chiếc ghế bành, mặc quân phục đại lễ với đầy đủ huân chương. Ông dùng tay mặt cầm khẩu Colt 45 bắn vào màng tang bên phải, máu thấm đầy quân phục, đầu ngă sang bên trái. Trên bàn giấy, chiếc cặp của Thiếu Tướng có một số giấy tờ và khoảng 40.000 đồng tiền Việt Nam. Bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng và một số Chiến Hữu lo tẩm liệm và đưa ra an táng tại Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ ngày 1 tháng 5 năm 1975. Sáng ngày 2 tháng 5 năm 1975, chị tôi là bà Diệu Khâm và cô con gái xuống Cần Thơ làm mộ bia Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Tháng 3 năm 1994, người em dâu là bà Nguyễn Khoa Phước từ Sài C̣n về Cần Thơ xin hốt cốt, lúc này tôi (Phước) đang ở tù tại trại Nam Hà - Ba Sao). Khi hài cốt được đưa lên, nhà tôi thấy c̣n nguyên bộ xương, đặc biệt hàm răng c̣n rất tốt chưa trám và hư hỏng cái nào, một thẻ bài quân nhân có tên Nguyễn Khoa Nam, một quyển kinh Phật đựng trong bao nylon và một khẩu Browning. Bộ xương đă được thiêu liền khi đó. Khi thiêu xong tro hài cốt được gia đ́nh đựng trong b́nh xứ, đem về Sài G̣n ngay hôm đó. Vài ngày sau lễ phục tang được tổ chức tại Chùa Già Lâm với sự tham dự đông đủ thân nhân và bà con nội ngoại. Hiện nay tro hài cốt của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được đặt thờ tại chùa Già Lâm, đường Lê Quang Định, quận G̣ Vấp, Tỉnh Gia Định. Nếu nói về con người của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là một chuyện rất khó v́ anh em tôi tuổi cách xa nhau. Trong gia đ́nh, Tướng Nguyễn Khoa Nam là một người ít nói, thích sống riêng một ḿnh, nhiều lúc có tâm sự ǵ cũng không nói với ai nên có vẻ khó hiểu. Thời kỳ c̣n làm công chức cũng như khi nắm quyền chỉ huy trong quân đội, tôi thấy Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam sốt sắng với mọi người nhưng lạnh nhạt với bà con thân thuộc, nhiều bà con đă chê trách khi cần nhờ vả việc ǵ. Tôi nghĩ Thiếu Tướng Nam có t́nh cảm, nhưng t́nh cảm san sẻ đồng đều cho mọi người nhất là những người nghèo khổ như gia đ́nh binh sĩ. Bà con đến nhờ vả việc ǵ, ông không tiếp. Là một quân nhân thuần túy, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam không muốn chính trị, tôn giáo xen vào quân đội. Hồi c̣n làm Tư Lệnh SĐ7BB, có một lần một vị Thượng Tọa đến nhờ một việc mà Thiếu Tướng Nam không tiếp. Các Cha, các Thày cũng vậy thôi. Thiếu Tướng Nam là một nghệ sĩ. Hồi nhỏ, lúc c̣n học ở bậc trung học, đă là một họa sĩ. Năm 1945, tranh vẽ đă được trưng bày ở triển lăm. Trong các năm tản cư 1946-1947, suốt ngày ông say mê bên khung vải, tranh vẽ đủ loại: sơn dầu, sơn bột, ch́. Cũng là một người có khiếu về âm nhạc và có tŕnh độ kư âm khá. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam từ nhỏ luôn luôn thích sống cô đơn, thấm nhuần tư tưởng Khổng giáo và Phật giáo. Ông luôn luôn lẩm bẩm "Sắc Sắc, Không Không", làm việc có trách nhiệm và chịu khó học hỏi. Nguyễn Khoa Phước-------------------------------------------------------------------------
Người Anh Trong Khóa
Published: Thursday, 21-Apr-2005
Lê Chu Trung Tá Truyền Tin QLVNCH, là bạn cùng khóa với Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Đă 30 năm trôi qua kể từ ngày Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam từ giă cơi trần. Thế nhưng, mỗi khi nhớ lại những năm tháng phục vụ trong Quân Đội dưới quyền chỉ huy của ông, tôi có cảm tưởng những sự việc đó dường như mới xẩy ra ngày nào, rất gần đây thôi. Kỷ niệm về khoảng thời gian sống cạnh ông vẫn c̣n in đậm trong tâm trí tôi. Chúng tôi cùng nhập ngũ một ngày - 1/4/1953 - cùng một nơi, Huế - theo lệnh động viên, thuộc tài nguyên Sĩ Quan Trừ Bị Khóa 3 Thủ Đức. Khi tŕnh diện Bộ Tư Lệnh Đệ Nhị Quân Khu, tôi đă gặp ông và một số các anh khác mà tôi đă biết từ trước như các anh Lê Liêm, Phạm Đ́nh Chi, Vơ Sum, Lê Cao Phan, Trần In, Phan Cảnh Tuân, Lê Quang Thị v.v... Tôi xem các anh ấy như những người anh - lúc ấy, tôi là người trẻ tuổi nhất - 22 tuổi. Vào những năm 1950 đến 52, thỉnh thoảng tôi có gặp Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam ở Huế. Lúc nào ông cũng ăn mặc gọn ghẽ nhưng rất chỉnh tề, dáng điệu khoan thai, lời ăn tiếng nói dịu dàng, từ tốn, ḥa nhă. Trông ông, tôi không thấy nét khắc khổ của các bậc tu hành, cũng không thấy nét trầm tư của một triết gia. Ông vui vẻ nhưng không bộc lộ sự tinh nghịch của tuổi trẻ như chúng tôi. Từ Huế, đoàn chúng tôi trên 100 người, đáp tàu hỏa vào Đà Nẵng. Chúng tôi dừng chân ở đây hai hôm để chờ tàu Gascogne cập bến Đà Nẵng đưa chúng tôi vào Sài G̣n. Thị Trưởng Đà Nẵng lúc bấy giờ là ông Lê Tá đă tiếp đoàn chúng tôi một cách chân t́nh và niềm nở. Khi chúng tôi nhập trường, ở đấy đă có mặt các anh miền Nam. Và hai hôm sau, các anh từ miền Bắc, đông nhất trong khóa, đáp tàu Saint Michel từ Hải Pḥng mới vào đến Sài G̣n. Chúng tôi được phân phối đi các đại đội. Khóa 3 Thủ Đức chia làm 5 đại đội, gồm 21 trung đội. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam thuộc Đại Đội 4 c̣n tôi ở Đại Đội 5, học ngành Truyền Tin. Tuy khác đội, nhưng sau những giờ luyện tập ở băi tập và học lư thuyết, tôi vẫn thường gặp ông ở nhà ăn và câu-lạc-bộ nhà trường, chuyện tṛ vui vẻ. Cuối tuần, chúng tôi được nghỉ học, có xe đưa rước về Sài G̣n thăm thân nhân. Tôi có vài dịp đi dạo phố Sài G̣n, xem chiếu bóng và đi ăn nhà hàng với ông. Qua giai đoạn một, xong phần huấn luyện tổng quát, chúng tôi bắt đầu vào giai đoạn hai, học vào từng ngành. Tuy không được rảnh rỗi như trước, nhưng tôi vẫn c̣n gặp ông. Măn khóa, tôi ở lại trường tiếp tục học phần chuyên môn. Ông chọn binh chủng Nhảy Dù. Trước ngày măn khóa, mỗi khi gặp nhau, anh em chúng tôi thường trao đổi ư kiến, xem nên chọn nơi nào. Những lúc ấy, ông không hề tiết lộ ư định của ḿnh. Thế nên khi thấy ông chọn binh chủng Nhảy Dù, anh em chúng tôi rất ngạc nhiên. Bởi v́ chúng tôi cứ nghĩ rằng gia nhập binh chủng Dù phải là những người xông xáo, có tí máu liều - xin lỗi quư vị bên Nhảy Dù. Đằng này, con người ông vốn quá mực thước. Nhưng dự đoán của chúng tôi sai. Ông đă thành công trong binh nghiệp, từ Tiểu Đoàn Trưởng đến Lữ Đoàn Trưởng Dù cho đến chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh và Tư Lệnh Quân Đoàn IV. Năm 1956, hai năm sau khi chúng tôi giă từ quân trường, tôi gặp lại ông ở Huế. Trông ông vẫn như trước, tuy da có xậm, nét mặt rắn rỏi, bớt đi phần nào dáng thư sinh ngày trước. Tôi tháp tùng phái đoàn các đơn vị ở Huế đến Phú Bài đón chào ông Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Pḥng Trần Trung Dung đến viếng thăm Bộ Tư Lệnh Đệ Nhị Quân Khu. Trước khi máy bay ông Bộ Trưởng đáp xuống Phú Bài, có vài chiếc máy bay vận tải DC3 chở binh sĩ Nhảy Dù từ Sài G̣n đáp xuống. Trung Úy Nguyễn Khoa Nam có mặt trong đoàn quân ấy. Đơn vị Nhảy Dù đến Huế biểu diễn nhảy dù trên sông Hương cho bà con cố đô xem. Chúng tôi mừng rỡ khi gặp lại nhau. Đang chuyện tṛ vui vẻ th́ máy bay ông Bộ Trưởng đáp xuống, chúng tôi tạm chia tay. Cuối năm 1968, tôi gặp lại ông sau mười hai năm xa cách. Ông đang chỉ huy một đơn vị Dù hành quân giải tỏa áp lực địch sau cuộc tấn kích đợt 2 Mậu Thân. Ông đóng bản doanh tại Phú Lâm, đang bận rộn với công tác hành quân, thành thử không có th́ giờ chuyện tṛ lâu dài. Đầu năm 1970, lần thứ ba sau khi chúng tôi rời quân trường, tôi gặp lại ông ở mặt trận đồng bằng sông Cửu Long. Tôi đă thay đổi cách xưng hô với ông lúc nào không biết. Không c̣n gọi ông thưa Anh mà thưa Đại Tá và sau cùng thưa Thiếu Tướng. Tôi là sĩ quan tham mưu và kỹ thuật phục vụ tại Sư Đoàn 7 Bộ Binh và Quân Đoàn IV-Quân Khu 4 và ông là cấp chỉ huy. Tuy cùng xuất thân một khóa ở Thủ Đức, ông là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi ṛng ră sáu năm, nhưng trước hết và trên hết ông là bậc thầy của tôi. Ông đă để cho chúng tôi, những người có cơ hội phục vụ dưới quyền chỉ huy của ông - những tấm gương sáng về cung cách phục vụ Quân Đội và Đất Nước. Qua ông, chúng tôi đă thấy được những nét nhân dũng cao quư của một người chiến sĩ, một cấp chỉ huy. Qua cung cách điều quân cũng như đối nhân xử thế, chúng tôi kính phục ông. Trong quân đội, thuộc cấp tuân hành lệnh của thượng cấp là do quân kỷ nhưng sự kính phục th́ nó đến từ con tim và khối óc. Cấp chỉ huy có thể đạt được sự vâng lời của thuộc cấp nhưng chưa hẳn đă thu được sự cảm mến và kính phục của người dưới quyền. Tướng Nguyễn Khoa Nam, lúc sinh thời, không thích ai nói về ông, nhất là những lời khen. Ông vốn rất mực nhu ḿ và phần nào kín đáo. Thế nên, cho dù qua năm tháng dài sống cạnh ông, tôi có một số kỷ niệm về ông, tôi vẫn giữ kín không hề thổ lộ. Nhưng nay, gần đến ngày 30 tháng 4, ngày đen tối của đất nước và cũng là ngày ông từ giă cuộc đời, nghĩ rằng ông đă thuộc về lịch sử, tôi viết vài gịng để tưởng nhớ đến ông.
Kính mong hồn thiêng của ông tha thứ cho tôi về việc làm trái ư của ông lúc sinh thời.
------------------------------------------------------------------------------------------------------
Những Mẩu Chuyện Về Người Bạn Cùng Khóa
Published: Saturday, 16-Apr-2005
Nguyễn Văn Phong Trung Tá QLVNCH, giữ chức vụ Đổng Lư Văn Pḥng bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa trong thời điểm Bộ này yểm trợ SĐ7BB của Tướng Nam. Trong thời gian thụ huấn tại Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, các E.O.R (Elève Officier de Réserve, Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, SVSQTBTĐ) khóa 3 đa số chỉ biết những người bạn cùng trung đội, đại đội v́ tiểu đoàn khóa sinh khá đông, tổng số lên tới lối 750 người. V́ tôi thuộc đại đội 5, ở xa các đại đội khác và trung đội của tôi học riêng một ngành chuyên môn cho nên ít tiếp xúc với các anh em đồng khóa trong bốn đại đội 1 đến 4 phần lớn là được huấn luyện về bộ binh. Tôi chỉ biết đến danh tính của E.O.R. Nguyễn Khoa Nam sau khi anh đă xung phong chọn binh chủng Nhảy Dù, một kỳ tích trong đám E.O.R. Theo truyền thống của Quân Đội Pháp, sĩ quan tốt nghiệp, với điểm cao, thường thường t́nh nguyện vào hai binh chủng Nhảy Dù và Thiết Giáp, nhưng ở Thủ Đức, đă có một trung đội được huấn luyện chuyên ngành Thiết Giáp nên chỉ c̣n Nhảy Dù để chọn lựa khi muốn xung phong vào các đơn vị chiến đấu. Các E.O.R. là các sĩ quan động viên, đa số gốc công tư chức và sinh viên, không chủ ư theo binh nghiệp nên chỉ có ít người xin sang Nhảy Dù. Khi anh Nam chọn sự nghiệp "mũ bê-rê đỏ," anh em đều khâm phục, nhất là hồi đó anh c̣n vẻ thư sinh nghệ sĩ không có dáng vóc của một vị chỉ huy đơn vị chiến đấu. Thật quả tài lănh đạo của anh là một kho tàng ẩn dấu, "trésor caché" như người Pháp thường nói. Sự lựa chọn con đường khó khăn và hiểm nguy tự nó là một kỳ tích trong số sĩ quan trừ bị, không phải là sĩ quan chuyên nghiệp (officier de carrière), số người như anh thật là hiếm có. Sau khi tốt nghiệp, tôi vẫn nghe nói đến anh và trong những kỳ họp khóa, anh có ghé thăm bạn đồng học nhưng vốn dĩ anh là người không thích khoe khoang nên anh thường âm thầm đến rồi đi, không la cà, không huyên náo. Nhưng anh em trong khóa ai cũng công nhận anh là người tốt bụng, quả cảm và khiêm cung. Tôi có hân hạnh tái ngộ anh trong một dịp may khá đặc biệt. Khoảng năm 1970-71, để yểm trợ binh sĩ và gia đ́nh, các bộ phủ của chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa chọn bảo trợ các đại đơn vị quân đội. Cơ quan tôi phục vụ lúc đó là bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa và vị tổng trưởng là một cựu sĩ quan, v́ thế, ông muốn giúp đỡ một sư đoàn đồn trú trong một khu vực có tiềm năng về nông nghiệp. Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa đă tuyển lựa Sư Đoàn 7 Bộ Binh để bảo trợ, xử dụng các ty Nông Nghiệp tại địa phương đễ hướng dẫn kỹ thuật, Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp (cũng do một sĩ quan điều khiển) để tài trợ và tôi được giao việc liên lạc với Sư Đoàn 7 ở Đồng Tâm, Khu Tiền Giang. V́ lư do đó, tôi thường xuống thăm sư đoàn, gặp lại Thiếu Tướng Nam nhiều lần, chứng kiến tận mắt những công tŕnh chăn nuôi trồng trọt của các trại gia binh. Anh thường phái trực thăng của anh lên đón tôi và hướng dẫn tôi đi cùng khắp các trại, các nông trường, tŕnh bày chi tiết về việc xử dụng các số tiền tài trợ. Khi cạn ngân khoản, anh lại điện thoại cho tôi và rồi tôi mang chi phiếu xuống đưa anh, thông thường vào khoảng hai, ba triệu mỗi lần. Anh hiếu khách, dù bận rộn hành quân, anh cũng mời tôi ăn cơm nhà bàn với anh, kể lể tâm sự. Có lần anh hỏi tôi có mấy đứa con, tôi nói là đă có hai cháu ngoại. Anh cười nói lớn: -Anh mới hơn bốn chục tuổi mà đă có cháu gọi bằng ông ngoại, tôi cỡ tuổi anh mà vẫn c̣n mồ côi vợ. Anh thiệt có phước. Tôi cám ơn anh và chúc anh mau hết mồ côi. Anh trầm ngâm kết luận là anh đă qua tuổi lập gia đ́nh, hơn nữa anh không có th́ giờ nghĩ đến việc ǵ khác ngoài sứ mạng chiến đấu và chăm sóc cho gia đ́nh binh sĩ và tử sĩ. Anh chỉ cho tôi chiếc giường picot cạnh bàn giấy, nơi anh ngủ nếu không đi hành quân đêm. Đấy là lần duy nhất tôi thầy anh đùa cợt. Thông thường anh thân mật nhưng giữ lễ nghi lắm. Đến năm 1973, tôi chuyển qua một nhiệm vụ khác nên không xuống thăm anh được. Ít lâu sau, tôi nghe tin anh lên nắm Quân Đoàn IV nên có gởi lời chúc mừng anh. Đầu tháng 5 năm 1975, tôi bị kẹt lại Sài G̣n, nghe tin truyền khẩu là một số tướng lănh đă tự vẫn chứ không đầu hàng địch, lúc đầu tôi không biết đó là những tướng nào. Đến khi tôi phải tŕnh diện ở đường Trần Hoàng Quân, anh em mới cho hay có tướng Nam trong số các tướng anh hùng đă tuẫn tiết. Tôi thật bàng hoàng và thao thức suốt đêm hôm đó. Tôi ngậm ngùi thương tiếc một người tài ba, một tư lệnh chiến trường chưa để mất một thành tŕ nào trong khu vực trách nhiệm của ḿnh... ---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tiểu Sử Tướng Nguyễn Khoa Nam
Published: Tuesday, 26-Apr-2005 Tướng Nguyễn Khoa Nam sinh tại Đà Nẵng ngày 23 tháng 9 năm 1927, gốc Làng An Cựu Tây, Huyện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, xuất thân từ một gia đ́nh văn học, tôn sùng đạo Phật. Thân phụ ông là cụ Nguyễn Khoa Túc, Thanh Tra Học Chánh thời Pháp thuộc tại Đà Nẵng, hồi hưu năm 1941. Thân mẫu ông là cụ Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc ḍng Tuy Lư Vương. Trong nhiều khía cạnh, ông được thừa hưởng tất cả tinh anh của hai bên nội, ngoại. Ông là con trai giữa trong gia đ́nh có năm anh em, nhưng hai anh lớn mất sớm, đến năm 1975 chỉ c̣n lại ba chị em. Chị ông là bà Nguyễn Khoa Diệu Khâm, phục vụ trong ngành Y Tế tại Sài G̣n và đă hồi hưu. Em trai là ông Nguyễn Khoa Phước, phục vụ trong ngành Giáo Dục và cũng là cựu Nghị Sĩ dưới chế độ Việt Nam Cộng Ḥa. Tướng Nguyễn Khoa Nam đậu bằng Thành Chung Pháp năm 1944 sau đó bằng Tú Tài I năm 1946. Ông tốt nghiệp Trường Hành Chánh Huế, làm việc tại Sở Ngân Sách Trung Việt cấp bậc Chủ Sự Pḥng từ năm 1951. Cũng như nhiều thanh niên cùng lứa tuổi, ông đă bị gọi động viên, gia nhập Khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào tháng 4 năm 1953. Măn khóa hồi tháng 10 năm 1953, ông đă gia nhập binh chủng Nhảy Dù với cấp bậc Thiếu Úy. Trong suốt thời gian từ tháng 12 năm 1953 cho đến ngày chia đôi đất nước vào tháng 7 năm 1954, trên cương vị một Trung Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Thiếu Úy Nam đă tham gia nhiều cuộc hành quân trên chiến trường Bắc Việt. Vào mùa hè năm 1955, là Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Trung Úy Nam đă tham gia chiến dịch hành quân tảo thanh lực lượng B́nh Xuyên ra khỏi Thủ Đô Sài G̣n. Cuối năm 1955, ông được bổ nhiệm chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội Kỹ Thuật Dù. Trong thời gian này ông được cử đi viếng thăm các trung tâm huấn luyện Nhảy Dù tại Pau (Pháp) và tại Nhật. Đầu năm 1961, ông được thăng cấp Đại Úy. Năm 1962, Đại Úy Nam được đề cử tham dự khóa học về Chiến Tranh Rừng Rậm tại Fort Braggs rồi năm sau, khóa Bộ Binh Cao Cấp tại Fort Benning, Hoa Kỳ. Cuối năm 1965, ông được thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Tháng 2 năm 1966, đơn vị ông tham dự cuộc Hành Quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngăi do Sư Đoàn 2 Bộ Binh tổ chức nhằm tấn công một đơn vị của Sư Đoàn 2 Bắc Việt và do chiến công này Thiếu Tá Nam được trao tặng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Sau đó, ông được vinh thăng Trung Tá và được đề cử giữ chức vụ Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù. Cuối năm 1967, chiến đoàn Dù do ông chỉ huy đă chiến thắng trận đánh đồi Ngok Van 1416 ở Kontum, tiêu diệt một trung đoàn chủ lực Bắc Việt. Ông được ân thưởng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và là sĩ quan thứ hai của Sư Đoàn Nhảy Dù, sau Trung Tướng Đỗ Cao Trí, được trao tặng huy chương cao quư này lúc c̣n mang cấp bậc trung tá. Ông cũng được gắn huy chương Distinguished Service Medal của tổng thống Hoa Kỳ. Đầu năm Mậu Thân 1968, các chiến đoàn Dù được nâng cấp thành các lữ đoàn. Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù được điều động về Sài G̣n tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Đô Thành Sài G̣n - Chợ Lớn và ông được vinh thăng Đại Tá trong thời gian này. Đầu năm 1970, ông được đề cử giữ chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Giữa năm 1970, ông được vinh thăng Chuẩn Tướng Nhiệm Chức tại mặt trận, cho đến tháng 10 năm 1971 th́ được vinh thăng Chuẩn Tướng Thực Thụ. Năm 1972, ông được vinh thăng Thiếu Tướng Nhiệm Chức và tháng 10 năm 1973 được lên Thiếu Tướng Thực Thụ. Vào tháng 11 năm 1974, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV - Quân Khu 4. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam, với tư cách là Tư Lệnh Quân Đoàn IV - Quân Khu 4, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đă quyết định không đầu hàng địch và đă tuẫn tiết vào sáng ngày 1 tháng 5 để bảo toàn khí tiết một vị tướng lănh của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Ông tự sát khi mới 48 tuổi.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Danh tướng Nguyễn Khoa Nam - mặt trời tháng 4-
Published: Monday, 26-Apr-2004
Việt sử ghi rằng khi Pháp chiếm đóng 3 tỉnh miền Tây Nam Phần, cụ Phan Thanh Giản không giữ được thành đă uống thuốc độc tự tử. Về sau Cần Thơ thành lập trường trung học lấy tên là Phan Thanh Giản. 30 tháng 4-1975, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Khu IV nhận trách nhiệm không giữ được miền Tây đă dùng súng lục tự vẫn. Trước đó Tư Lệnh đă đi một ṿng lần cuối thăm những người lính của ông tại Quân Y Viện Phan Thanh Giản. Bên giường bệnh, một thương binh mà vết thương c̣n chảy máu đă nắm lấy tay vị tư lệnh mà nói rằng: - Xin Thiếu Tướng đừng bỏ tụi em. Nước mắt chảy dài trên mặt vị Thiếu Tướng của Quân Đoàn IV. Ông nói: - Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em. Đó là lời của ông Nam nói với anh thương binh và đồng thời ông nói với cả QLVNCH. Ông đă ở lại vĩnh viễn. Ông là Mặt Trời Tháng 4. Nguyễn Khoa Nam không phải là con người của huyền thoại. Ông là con người rất gần gũi với chúng ta. Sinh năm 1927 tại Thừa Thiên, đă đỗ tú tài và đi làm công chức tại Huế từ 1951. Sau đó động viên Khóa 3 Trừ Bị Thủ Đức 1953 và đeo lon Thiếu Úy tham dự các cuộc hành quân miền Bắc trong hàng ngũ Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù. Năm 1965, ông đă lên Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, đánh trận Quảng Ngăi nhận đệ tứ đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Năm 1967, ông thăng cấp Trung Tá chỉ huy Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù thắng trận Kontum với đệ tam đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Trong quân đội không có sĩ quan cấp Trung Tá nào có Bảo Quốc Đệ Tam ngoại trừ người đầu tiên là Trung tá Đỗ Cao Trí và người thứ hai là Nguyễn Khoa Nam. Năm 1970, với cấp bậc Đại Tá ông làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh tại Mỹ Tho. Năm 1974, ông lên làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV với cấp bậc Thiếu Tướng. Cho đến tháng 4-1975, ông vẫn sống cuộc đời độc thân và gần như dâng hiến tất cả cuộc đời cho quân đội và đất nước. Trong suốt hơn 20 năm chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam, Hà Nội luôn luôn xưng tụng các anh hùng vô sản nhưng trên thực tế trong hàng ngũ các tướng lănh của phe cộng sản chưa hề có cấp lănh đạo nào nêu gương dũng liệt. Phần lớn là các huyền thoại về cấp dưới đă hy sinh trong gian khổ. Ngay cả khi bị bắt bởi quân đội Pháp thời trước hay QLVNCH sau này th́ chính sách của đảng luôn luôn là hy sinh đàn em và bảo vệ cán bộ. Phía Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa qua ngày 30 tháng 4-1975, các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai đă ghi tên trong quân sử bằng hành động tuẫn tiết rất can trường. Do những t́nh cờ của lịch sử, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă dâng hiến cho đất nước những người con uy dũng của cả ba miền: Lê Nguyên Vỹ của đất Thăng Long, Nguyễn Khoa Nam của Phú Xuân, và Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai của Thành Gia Định. Sau cuộc chiến, hàng chục ngàn sĩ quan các cấp đă bị lùa đi cải tạo nhưng sau nhiều năm, gần như không một ai của pḥng tuyến quốc gia bị khuất phục theo cộng sản. Nhân ngày 30 tháng 4 của 29 năm sau, chúng tôi xin giới thiệu với quư vị câu chuyện về những giờ phút cuối cùng của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Con người dù đă chết nhưng gương sáng vẫn chói lọi như Mặt trời tháng 4. Bài viết này được trích đoạn từ bút kư đặc biệt của Trung úy Lê Ngọc Danh, sĩ quan tùy viên của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Giao Chỉ San Jose Tôi là Trung úy Lê Ngọc Danh, xuất thân Thủ Đức, đă tham dự các cuộc hành quân tại Trung Đoàn 10 Bộ Binh, bị thương nhiều lần. Cơ duyên t́nh cờ về làm tùy viên cho ông Tư Lệnh từ lúc c̣n ở Sư Đoàn 7 vào năm 1973 rồi đến cuối năm 1974 th́ theo ông về Quân Khu IV tại Cần Thơ. Trong suốt thời gian làm việc gần tướng Nguyễn Khoa Nam, ông xem tôi như người nhà, đứa con trong gia đ́nh, không bao giờ la rầy hay nặng tiếng. Tôi đă ở với ông cho đến giây phút cuối và xin kể lại từ tháng 4-1975 như sau: Tháng 4-1975 T́nh h́nh chiến sự vào tháng 4-1975 rất căng thẳng. Vùng 1, Vùng 2 đang đánh lớn c̣n Vùng 3 và 4 vẫn c̣n nguyên vẹn. Tư Lệnh đi họp liên tục, lúc th́ ở Tổng Tham Mưu, ở Dinh Độc Lập gặp Tổng Thống, lúc ở Dinh Phó Tổng Thống. Thời gian c̣n lại, Tư Lệnh thường đến thăm các tiểu khu và sư đoàn trực thuộc, nhiều nhất là các tiểu khu Long An, Định Tường, Kiến Tường và Châu Đốc. Vào đầu tháng 4, Việt cộng tấn công mạnh, nhằm vào Quốc Lộ 4 thuộc hai tiểu khu Định Tường và Long An. Sư Đoàn 7 Bộ Binh chịu trách nhiệm khu vực Tiểu Khu Định Tường c̣n Sư Đoàn 22 Bộ Binh rút từ Vùng 2 về chịu trách nhiệm khu vực Tiểu Khu Long An. Vào buổi trưa, Tư Lệnh đến Tiểu Khu Long An để thị sát t́nh h́nh tại đây, VC đă pháo một quả hỏa tiển 122 ly rơi xuống giữa cầu Long An nhưng không gây thiệt hại ǵ. Địch càng ngày càng tấn công mạnh dọc Quốc Lộ 4, Tư Lệnh ngày đêm đến các đơn vị hay gọi điện thoại khích lệ tinh thần chiến đấu của tất cả sĩ quan cùng binh sĩ. Tư Lệnh đă khen thưởng các đơn vị thuộc Vùng 4 v́ không hề bỏ chạy trước địch quân, không để mất một căn cứ nên cho tới bây giờ VC vẫn không chiếm được một vị trí nào cả. Vào một đêm, địch pháo kích trên 10 hỏa tiễn 122 ly vào thành phố Cần Thơ, mục tiêu chính là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV và tư dinh Tư Lệnh. Pháo địch xuất phát từ hướng Đông của Chi Khu B́nh Minh thuộc Tiểu Khu Vĩnh Long, bay qua dinh Tư Lệnh rớt bên xóm nhà đèn cách dinh độ 300 thước, kết quả tổn thất nhẹ về phía dân chúng. T́nh h́nh càng ngày càng căng thẳng, dân chúng di tản bằng tàu thủy hay máy bay có nhiều chuyến chở về Quân Đoàn IV đổ dân xuống vùng Tri Tôn, Sa Đéc. Trong lúc này, công việc của Tư Lệnh rối bời v́ lớp lo pḥng thủ, lớp lo thăm viếng an ủi dân đă di tản về vùng ngoại ô. Thiếu Tướng ra lệnh các tiểu khu ra sức cứu trợ nạn nhân chiến cuộc. Tư Lệnh chỉ thị các đơn vị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Quân Đoàn IV và nhất là giữ ǵn Quốc Lộ 4 đừng để VC cắt đứt. Tư Lệnh đặc biệt đến thăm Tiểu Khu Châu Đốc, đi bộ thăm ṿng đai pḥng thủ quy mô của tiểu khu. Những ngày kế tiếp, Tư Lệnh họp liên tục với các tiểu khu và sư đoàn. Trong lúc t́nh h́nh hỗn loạn, nhiều máy bay trực thăng từ hướng Sài G̣n lũ lượt bay về phi trường Trà Nóc và một số bay ra hướng Phú Quốc. Sáng ngày 24 tháng 4, Tư Lệnh đi họp ở Bộ Tổng Tham Mưu. Qua sáng 25 tháng 4, họp ở Tiểu Khu Định Tường, trong phiên họp này có tướng Trưởng tham dự. Ngày 27 tháng 4, Tư Lệnh ra lệnh giới nghiêm, các đơn vị ở thế sẵn sàng chiến đấu, không được rời vị trí. Sáng 28 tháng 4, Tư Lệnh tiếp cố vấn Mỹ tại văn pḥng Tư Lệnh. Sáng ngày 29, Tư Lệnh vẫn đi bay thị sát, buổi chiều 29 về họp với tương Mạch Văn Trường ở Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh gần phi trường Trà Nóc. Trên đường về, tôi thấy dân chúng lao xao, nhớn nhác, chạy lung tung. Có người đi hôi của tại Ṭa Tổng Lănh Sự Mỹ rút đi bỏ lại, giấy vương văi đầy mặt Đại Lộ Ḥa B́nh, quần áo, ly tách, đồ hộp, lon bia vất tứ tung. Áp lực địch vẫn đè nặng ở Quốc Lộ 4, Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Long An xin gặp Tư Lệnh báo cáo t́nh h́nh nguy ngập và xin giật sập cầu Long An. Tư Lệnh không cho và ra lệnh các đơn vị tiếp tục pḥng thủ. Tư Lệnh viết nhật lệnh đưa Thiếu tá Đức, Chánh Văn Pḥng chuyển đến pḥng Chiến Tranh Chính Trị để đọc trên Đài Phát Thanh và Đài Truyền H́nh Cần Thơ để trấn an dân chúng và anh em binh sĩ. Vào buổi chiều, tôi thấy được h́nh Tư Lệnh và kèm theo là bản nhật lệnh của ông, nội dung ngắn gọn nhằm trấn an dân chúng không được bạo động. Sau khi nghe đọc nhật lệnh trên TV, Tư Lệnh buồn buồn chấp tay sau lưng, tư tới đi lui trong pḥng làm việc ở Bộ Tư Lệnh. Sau đó, tướng Hưng, Tư Lệnh Phó vào gặp Tư Lệnh bàn luận về thời cuộc. Đêm 29, VC tấn công mạnh ở phi trường thuộc Tiểu Khu Vĩnh B́nh. Địch đă nhiều lần đánh rát vào phi trường nhưng bị đẩy lui và thiệt hại nặng. Tư Lệnh bảo tôi gọi Trung tá Sơn, Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Vĩnh B́nh để ông nói chuyện. Trong lúc VC tấn công mạnh vào phi trường, tiểu khu xin máy bay yểm trợ nhưng không có máy bay. Sáng sớm 30 tháng 4, Tư Lệnh bay xuống họp ở Tiểu Khu Định Tường. Cuộc họp chấm dứt nhanh chóng xong ông bay về Cần Thơ. Thành phố Cần Thơ sáng ngày 30 tháng 4 rất vắng vẻ, dân chúng và xe cộ thưa thớt. Mặc dù địch tăng cường những cuộc tấn công mạnh và t́nh h́nh chung đang rất bất lợi cho Chính Phủ Việt Nam Cộng Ḥa, tinh thần chiến đấu của binh sĩ thuộc Quân Đoàn IV vẫn hăng say, các đơn vị không nơi nào bỏ vị trí, không nơi nào bị địch chiếm đóng. Bất chợt, tiếng của Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng cộng sản vang lên trên đài phát thanh. Lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện có đại ư như sau: “Tất cả các đơn vị trưởng và anh em binh sĩ ở yên tại chỗ, bàn giao vị trí cho Chính Phủ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.” Tôi vội xô cửa vào pḥng làm việc của Tư Lệnh và nói: - Tổng thống Dương Văn Minh đă... Chưa hết câu, Tư Lệnh nhỏ nhẹ cắt ngang lời tôi: - Qua đă nghe rồi. Tôi lặng người, quay lưng chầm chậm bước ra ngoài. Từ lúc này, Tư Lệnh Phó thường vào gặp Tư Lệnh trong văn pḥng qua lối cửa chánh. Lần thứ hai, Đại Tá Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Long An xin gặp gấp Tư Lệnh trên điện thoại. Ông muốn xin giật sập cầu Long An để cắt đường tiến quân của VC về Vùng 4. Một lần nữa, Tư Lệnh bảo tôi chuyển lời: “Cầu để yên không được phá sập.” Khoảng gần trưa 30 tháng 4, tôi được báo cáo là Thiếu Tá Chánh Văn Pḥng rời văn pḥng bỏ đi theo Đại Tá Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Phong Dinh cùng một số sĩ quan theo lộ tŕnh dọc sông Hậu Giang ra biển. Tôi vội xuống hầm làm việc mới của Tư Lệnh để báo cho ông rơ. Căn hầm này là pḥng làm việc thừ hai của Tư Lệnh, nằm ngay dưới chân pḥng làm việc chính thức, được xây lúc Vùng 1 và 2 đang xảy ra việc đánh lớn. Hầm rộng và cao, thiết trí giống như phong làm việc ở tầng trên, có lối đi xuống từ văn phong Tư Lệnh. Bước vào hầm, tôi thấy Tư Lệnh đang ngồi viết tại bàn làm việc. Tư Lệnh, như thường lệ, đưa tay kéo lệch cặp mắt kính trề xuống sống mũi, ngước nh́n tôi hỏi: - Có ǵ không? - Tŕnh Thiếu Tướng, Thiếu Tá Chánh Văn Pḥng và Đại Tá Tỉnh Trưởng Phong Dinh đă bỏ đi cùng với một số sĩ quan bằng tàu theo sông Hậu. Tư Lệnh vẫn điềm nhiên, không tỏ chút ǵ giận dữ, ông nói: - Đi hả? Đi làm chi vậy? Nói xong, Tư Lệnh tiếp tục xem giấy tờ, thái độ trầm tĩnh như không có ǵ quan trọng xảy ra. Tôi bước lên cầu thang về pḥng làm việc của ḿnh, lúc này tôi mở Radio 24/24 để theo dơi t́nh h́nh ở Sài G̣n. Đang lắng nghe Radio, Tư Lệnh bấm chuông gọi tôi vào và bảo: - Gọi Đại tá Thiên gặp tôi. - Dạ. Rồi Tư Lệnh chỉ định Đại tá Thiên nhận chức vụ Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Phong Dinh kể từ sáng hôm đó. Tức là sau khi đă có lệnh đầu hàng. Trưa 30 tháng 4, sau khi đi ăn cơm trưa ở Câu Lạc Bộ Cửu Long về, Tư Lệnh đi thẳng vào pḥng làm việc. Qua lỗ kiếng nhỏ thông qua pḥng làm việc, tôi thấy Tư Lệnh đang soạn một số giấy tờ để trên bàn. Tư Lệnh nh́n từng trang một, rồi từ từ xé nhỏ bỏ vào sọt rác. Khoảng 2 giờ chiều, Tư Lệnh xuống hầm làm việc. Tôi không biết Tư Lệnh làm ǵ bởi v́ pḥng làm việc này kín mít. Tư Lệnh bấm loa gọi tôi: - Danh, xuống đây tôi bảo. Tôi xuống cầu thang vào gặp Tư Lệnh. Ông đang ngồi ở Sofa nh́n về hướng bản đồ Vùng 4, thấy tôi, Tư Lệnh nói: - Danh tháo bỏ tất cả ranh giới và những mũi tên trên bản đồ. Những đường ranh và những mũi tên làm bằng những băng keo màu xanh đỏ. Tôi từ từ tháo bỏ, nh́n tổng quát, tôi thấy bản đồ chia ra từng ô nhỏ, những mũi tên xanh đỏ châu đầu vào nhau, những răng bừa màu xanh với những mũi tên đỏ chĩa vào. Có thể đây là bản đồ về Hành Quân Mật sẽ thực hiện vào giờ chót theo như tin đồn. Tôi tháo gỡ tất cả những mẩu băng keo bỏ vào sọt rác, tháo xong tôi nói: - Tŕnh Thiếu Tướng, em đă tháo xong. - Được rồi.
+ + +
Vào khoảng 4 giờ chiều, viên Quân Cảnh ở pḥng chờ đợi lên gặp tôi nói: - Có hai ông VC mặc đồ thường phục, trên dưới 50 tuổi xin vào gặp Tư Lệnh. Tôi nói: - Anh bảo họ chờ một chút để tôi tŕnh Tư Lệnh. Tôi gơ cửa vào gặp Tư Lệnh và nói: - Tŕnh Thiếu Tướng, có hai VC mặc thường phục xin vào gặp Thiếu Tướng. - Được, mời họ vào. Xuống pḥng khách, tôi thấy hai người Việt cộng đang chờ ở đây, một người cao ốm nước da trắng, tóc hoa râm độ trên 50 tuổi, ăn mặc thường phục giống như thầy giáo. Một người hơi thấp, nước da ngăm đen cũng mặc thường phục. Họ đi tay không, không mang giấy tờ và vũ khí. Tôi hướng dẫn hai người này lên bậc tam cấp vào pḥng làm việc của Tư Lệnh. Tư Lệnh chào hỏi và mời ngồi nơi Sofa, tôi bước nhanh ra pḥng làm việc gọi người hạ sĩ quan mang trà vào. Tôi mang vội khẩu súng Colt 45 và lấy khẩu AR15 lên đan và bước nhanh vào pḥng làm việc Tư Lệnh. Tôi đứng sau hai ông VC này cách khoảng 4 thước, với tư thế sẵn sàng nổ súng. Tôi sợ hai ông này ám sát Tư Lệnh nên gườm tay súng chuẩn bị nếu thấy hai ông này có hành vi lạ là tôi bắn liền. Tư Lệnh ngồi đối diện với họ, đang nói chuyện rất nhỏ tôi không nghe được. Bất chợ Tư Lệnh ngước lên, nh́n tôi và bảo: - Danh đi ra ngoài để tôi nói chuyện. Tôi ấp úng trả lời: - Dạ... em ở đây với Thiếu Tướng. - Được rồi, không sao đâu. Em ra ngoài đi. - Dạ. Tôi ra lại pḥng làm việc, súng vẫn gườm thủ thế, mắt nh́n về hướng văn pḥng theo kẽ hở của cánh cửa đang hé mở. Tôi thấy Tư Lệnh với họ vừa uống trà vừa nói chuyện. Cuộc nói chuyện kéo dài trên 10 phút. Tư Lệnh và hai người chỉ nói chuyện không đưa ra sổ sách hay giấy tờ ǵ cả. Sau đó, hai người VC đứng dậy từ giă, Tư Lệnh bắt tay, rồi hai người theo cửa trước xuống bậc tam cấp ra về. Tư Lệnh ngồi trên ghế, gương mặt thật buồn. Một lát sau, ông đứng dậy đi qua đi lại trong phong. Thời gian trôi qua thật chậm, căng thẳng và ngộp thở. Tôi suy nghĩ lung tung: Nếu VC chiếm được Vùng 4 th́ Tư Lệnh sẽ ra sao? Tại sao Tư Lệnh vẫn b́nh thản như không có chuyện ǵ xảy ra? Bây giờ c̣n đi ngoại quốc kịp không? C̣n máy bay không? Hay là Thiếu Tướng có người thân phía bên kia? Những câu tự hỏi đă xoay trong óc tôi. Bất chợt, tôi nghe tiếng la ó vang dậy ở ngoài đường. Nh́n ra ngoài đường, tôi thấy một đoàn người rất đông chạy ngang qua cửa Bộ Tư Lệnh, xuống cầu Cái Khế. Họ vừa chạy vừa la hét vui mừng, th́ ra đó là những người tù vừa được thoái trại giam. Tôi tḥ đầu ra cửa sổ nh́n cho kỹ, tôi thấy bọn tù trên dưới 50 người, quần áo xốc xéch, có người mặc quần cụt, có người cởi trần vừa chạy vừa nhảy lên vừa reo ḥ vui vẻ nhưng họ không phá phách. Khoảng 6 giờ rưỡi, Tư Lệnh sửa soạn về tư dinh, Thiếu Tướng nói với tôi: - Danh chuẩn bị xe để đi thăm bệnh viện Phan Thanh Giản. - Dạ. Xe chở Tư Lệnh từ văn pḥng đi thẳng vào bệnh viện. Tư Lệnh dến từng giường hỏi thăm thương binh, kẻ nằm người ngồi, băng tay băng đầu, có người mất một chân, chân c̣n lại quấn dây băng treo lên trên giá. Tư Lệnh đến bên thương binh này hỏi: - Em tên ǵ? - Dạ em tên... - Em ở đơn vị nào? Có khỏe không? - Dạ khỏe, em là Địa Phương Quân ở Tiểu Khu Vĩnh B́nh.” Tư Lệnh nói tiếp: - Em nằm nghỉ dưỡng bệnh. Tư Lệnh đi từ đầu pḥng đến cuối pḥng hỏi thăm từng bệnh nhân, rồi Tư Lệnh đi qua dăy kế bên và tiếp tục hơn một giờ thăm viếng thương, bệnh binh buồn tẻ và nặng nề. Gần giường một thương binh, anh cụt hai chân, vải băng trắng xóa, máu c̣n rịn ra lốm đốm đỏ cuối phần chân đă mất. Tư Lệnh đứng sát bên và hỏi: - Vết thương của em đă lành chưa? - Thưa Thiếu Tướng, vết thương mới mấy ngày c̣n ra máu, chưa lành. Với nét mặt buồn buồn, Tư Lệnh nhíu mày lại làm cặp mắt kiếng đen lay động. Tư Lệnh chưa kịp nói thêm th́ anh thương binh này bất chợt chụp tay Tư Lệnh mếu máo: - Thiếu Tướng đừng bỏ tụi em nhé Thiếu Tướng. - Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em. Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư Lệnh đưa ta nâng sửa cặp kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương của ông. Tư Lệnh cố nén xúc động, nhưng người đă khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư Lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào: - Em cố gắng điều trị... có Qua ở đây. Tư Lệnh bước nhanh ra cửa bệnh viện, khi ra đến ngoài sân Tư Lệnh dừng lại quay mắt nh́n về bệnh viện. Tư Lệnh đứng yên bất động khoảng một phút rồi bước vội ra xe không nói ǵ nữa cả. Trên suốt đường về tư dinh, Tư Lệnh không nói một lời nào khiến tôi cảm thấy sự im lặng quá nặng nề. Về đến tư dinh, tôi thấy Quân Cảnh vẫn c̣n gác ở cổng, tôi đi một ṿng xung quanh, những vọng gác vẫn c̣n người gác, tuy nhiên tôi thấy ít lính đi tới đi lui như mọi hôm, có lẽ họ đă bỏ đi bớt. Sau khi cất khẩu Colt đeo trên người, tôi xuống nhà bếp gặp Trung sĩ Hộ quản gia xem hôm nay anh nấu món ǵ v́ hôm nay thăm bệnh viện về trễ. Gặp anh Hộ, tôi nói: - Anh Hộ, bắt một con gà làm thịt và luộc để Thiếu Tướng dùng! - Dạ con gà nào Trung Úy? - Đàn gà ṇi Thiếu Tướng nuôi đó! Anh chọn một con! Lúc này đă hơn 8 giờ tối, về hướng Cồn Cát cách một con sông phía sau dinh, thỉnh thoảng VC bắn bổng những loạt AK đạn lửa bay đỏ xé màn đêm đen nghịt, càng lúc VC bắn càng nhiều. Con gà, anh Hộ làm thịt và nấu xong. Tôi đích thân ra sau Trailer mời Thiếu Tướng vào ăn cơm. Tư Lệnh ngồi vào bàn ăn và nói: - Danh ngồi ăn cơm cho vui. Đi các đơn vị hay tiểu khu, tôi ăn cơm chung với Tư Lệnh c̣n ở dinh, Tư Lệnh thường ăn cơm một ḿnh, vừa ăn cơm vừa xem truyền h́nh rất lâu. Hôm nay, lần đầu tiên Tư Lệnh mời tôi ăn cơm chung ở dinh, tôi thấy có điều ǵ khác thường, hơn nữa sự việc xảy ra tùm lum, bụng dạ đâu mà ăn với uống. Tư Lệnh thấy thịt gà xé nhỏ, c̣n nước luộc gà làm canh, Tư Lệnh hỏi: - Thịt gà đâu vậy? Tôi gượng cười nói: - Dạ mấy con gà Thiếu Tướng nuôi ở sau. Em bảo anh Ngộ làm thịt một con để Thiếu Tướng dùng. - Làm thịt chi vậy? Ăn cơm thường là được rồi. Thôi, ăn kẻo nguội! Tư Lệnh không ăn cơm, chỉ dùng vài muỗng canh, vài miếng thịt gà. C̣n tôi th́ no hơi, ăn hết vô, qua loa vài miếng rồi vội buông đũa và nói: - Dạ, em ăn xong, Thiếu Tướng dùng tiếp. Thiếu Tướng nói: - Ăn tiếp chứ. Sao Danh ăn ít vậy? Thịt c̣n nhiều. Vừa nói, Tư Lệnh gắp bỏ cho tôi một miếng thịt xé phay dài. Trời! Ăn ǵ nổi. B́nh thường chắc là ăn thấy ngon, bây giờ ăn thịt gà cũng như nhai gỗ mục. Miệng đắng nghét, tôi cố gắng nuốt trôi hết miếng thịt này, xong xin phép Thiếu Tướng ra pḥng làm việc. Nh́n qua cửa sổ, tôi thấy vắng lạnh, một sự vắng vẻ đáng sợ, một số anh em quân nhân đă bỏ đi, số c̣n lại một vài người đă mặc thường phục, một số vẫn c̣n mặc đồ lính. C̣n hướng pḥng Trung úy Hỉ, sĩ quan bảo vệ cũng vắng ngắt, có lẽ anh cũng đă bỏ đi rồi (nhà Trung úy Hỉ ở gần phi trường Trà Nóc). C̣n Trung úy Việt cùng vợ hai con vẫn c̣n ở tại nhà cạnh bờ sông. Việt và tôi gặp nhau chỉ biết lắc đầu, rồi Tư Lệnh đéán bàn làm việc của tôi nói: - Có liên lạc với Tướng Hưng không hè? - Dạ điện thoại bị mất liên lạc, có tiếng lạ em không dám gọi. Ngưng một chút rồi tôi nói tiếp: - Dạ, Thiếu Tướng muốn nói chuyện với Tư Lệnh Phó? - Qua muốn nói chuyện. Tôi nói với Tư Lệnh: - Để em đi lại Dinh Tư Lệnh Phó nói mở máy PRC25 để Thiếu Tướng nói chuyện. Tư Lệnh làm thinh, tôi bảo anh Thông tài xế lấy xe Jeep chở tôi qua Dinh Tư Lệnh Phó nằm đối diện với Dinh Tỉnh Trưởng Phong Dinh. Sắp sửa rẽ phải vào Dinh Tư Lệnh Phó th́ tôi thấy phía bên trái trước Dinh Tỉnh Trưởng có một tên VC với khẩu AK ở tư thế sẵn sàng, để súng cạnh sườn, mũi súng chĩa lên trời. Anh Thông tài xế kêu tôi và chỉ: - VC đă vô tới rồi. Tôi bảo tài xế: - Quay trở lại đi! Không ổn rồi. Tài xế lái nhanh về Dinh Tư Lệnh và đóng cửa dinh lại. Tôi xuống xe bảo các anh em binh sĩ c̣n lại kéo khoảng 4, 5 ṿng kẽm gai rào chặn từ cổng vào hướng cột cờ. Rào xong, tôi vào Trailer báo Tư Lệnh: - Tŕnh Tư Lệnh, VC đă vào đến Dinh Tỉnh Trưởng. Em thấy có một tên VC cầm súng AK đứng trước Dinh Tỉnh Trưởng. Tư Lệnh lặng thinh không nói ǵ cả. Khoảng hai phút sau, tôi nói với Thiếu Tướng: - Em đi lần nữa, để Thiếu Tướng nói chuyện với Tư Lệnh Phó. Tư Lệnh nhỏ nhẹ nói: - Thôi đừng đi! Coi chừng nó bắt. - Dạ không sao. Nói xong, tôi cởi bỏ áo lính, vẫn mặc quần lính mang giày với áo thun vội ra sân gọi anh tài xế. - Anh Thông đâu? Đến tôi nhờ một chút. Tôi la lên, không một tiếng trả lời. Anh Hộ quản gia nói: - Em vừa thấy anh Thông ra cổng. “Anh đă bỏ đi rồi.” Tôi nghĩ thầm. Bất chợt, một binh sĩ khác hỏi tôi: - Trung Úy cần ǵ em giúp. - Anh muốn đến Dinh Tư Lệnh Phó. - Được rồi, để em đưa ông thầy đi. Anh lính lấy chiếc Honda màu đỏ chạy đến và nói: - Đi Honda tiện hơn Trung Úy. Rồi anh chở tôi về hướng Dinh Tư Lệnh Phó, rẽ vào dinh, anh đậu cách đấy khoảng 10 mét bên lề đường. Dinh Tư Lệnh Phó trước và sau có cổng ra vào bằng cửa sắt, xung quanh xây tường cao độ 2 mét. Cửa trước đối diện với Dinh Tỉnh Trưởng, cửa sau quay ra mặt đường. Cửa trước và sau đều đóng và khóa chặt, từ cửa trước nh́n vào tôi đi sát hông tường bên phải, có một cây ổi mọc từ phía trong x̣a nhánh phủ ra bên ngoài. Trong dinh im lặng không một tiếng động, tôi gọi lớn: - Nghĩa ơi Nghĩa, Phúc ơi Phúc, tao là Danh. Tôi gọi 4, 5 lần nhưng vẫn không có tiếng trả lời. Tôi linh cảm điều ǵ không ổn nên gọi tiếp vài lần nữa rồi quay lưng định trở về. Nhưng tôi nghĩ thầm: “Không lẽ ḿnh bỏ cuộc sao?” Tôi nói với qua với anh lính đậu bên kia đường: - Anh ráng chờ tôi một chút. Bất chợt có tiếng nổ đùng, có tiếng xôn xao, tiếp theo tiếng khóc. Tôi chạy lại vách tường có nhánh cây ổi x̣e ra, tôi quyết định đu nhánh ổi này nhảy vào. Tay phải níu nhánh ổi, tay trái vịn vào vách tường miệng liên tục la lớn: “Tôi Trung úy Danh đây, đừng bắn. Tôi Trung úy Danh, đừng bắn.” Miệng la tay níu nhánh ổi leo vào, tôi lên được đỉnh tường rồi theo đà cây ổi tuột xuống đất. Vừa gặp tôi, anh Nghĩa vừa khóc vừa nói: - Chuẩn Tướng Hưng tự sát chết rồi Danh. - Lúc nào? - Mới đây, chắc có lẽ hồi năy Danh nghe tiếng súng nổ. Anh nói tiếp: - Chuẩn Tướng đang ăn cơm, nghe tiếng động, ông bỏ bàn ăn đứng dậy, bà Tướng chạy theo ông ngăn lại. Tư Lệnh Phó vào pḥng đóng cửa lại và bắn vào ngực tự sát. Đến cửa, thấy cửa pḥng hé mở, tôi xô nhẹ cánh cửa bước vào, thấy Tướng Hưng nằm bất động trên giường, bà Hưng đang ôm chầm Tư Lệnh Phó khóc, c̣n hai đứa con nhỏ đứng kế bên vô tư lự như không có ǵ xảy ra, kế bên những anh lính đang sụt sùi khóc. Tôi quay ra nói với anh Nghĩa: - Thôi Danh đi về. Tôi không nói anh Nghĩa mở tần số máy PRC25 nữa, Chuẩn Tướng Hưng đă chết rồi. V́ t́nh h́nh rối ren, bận rộn, tôi không nhờ ai mở cửa mà trèo cây ổi lên đầu tường rồi nhảy ra ngoài. Xuống đến mặt đất, tôi suy nghĩ lung tung: “Tại sao Tư Lệnh Phó tự sát? Nếu Tư Lệnh hay được th́ ra sao? Hay là lúc tôi la to gọi anh Nghĩa, Phúc, ở đây tưởng VC vào tới nên Chuẩn Tướng đă tự sát? Hay là...” Tôi vừa suy nghĩ vừa cúi đầu bước dần tới chỗ anh lính đậu xe Honda lúc năy. Trời! Xe và người biến đâu mất. Tôi đảo mắt nh́n quanh vẫn không thấy bóng dáng anh. Chắc anh bỏ đi rồi. Tôi không trách anh, anh đă giúp tôi như vậy cũng đủ lắm rồi. Tôi lội bộ từ đây cặp theo Đại Lộ Ḥa B́nh đi thẳng về Dinh Tư Lệnh, trên đường phố vắng hoe không một bóng người lai văng, chỉ có những mảnh giấy vụn vất bừa băi đầy đường, thỉnh thoảng bay tứ tung theo cơn gió. Tôi đi bộ mất khoảng 15 phút mới về đến dinh, anh lính gác vẹt từng ṿng kẽm gai cho tôi vào rồi kéo lại vị trí cũ. Tôi đi nhanh về phía sau vào Trailer để tŕnh Tư Lệnh mọi sự việc vừa xảy ra tại tư dinh Tư Lệnh Phó. Vừa thấy Tư Lệnh, tôi nói ngay: - Tŕnh Thiếu Tướng, em đến Dinh Tư Lệnh Phó, đến nơi th́ ông vừa tự sát chết. Tư Lệnh Phó đă bắn vào ngực. - Tướng Hưng chết hả? Chết làm chi? Tư Lệnh chỉ nói vậy. Tôi trở ra về nơi làm việc. Ngồi trên Sofa suy nghĩ liên miên: “Tư Lệnh Phó đă tự sát, chắc Tư Lệnh sẽ tự sát theo.” Tôi xuống nhà gặp Trung úy Việt và cho anh biết việc Tư Lệnh Phó đă tự sát. Tôi và Việt thắc mắc về những ǵ sẽ xảy ra tiếp: Tư Lệnh Phó đă tự sát, c̣n Tư Lệnh không biết thế nào? Hai đứa tôi suy nghĩ măi mà không t́m ra được câu trả lời. Lúc này khoảng 11 giờ đêm, v́ lo lắng cho Tư Lệnh nên cứ độ 15 hay 20 phút, tôi lại vào Trailer một lần. Mỗi lần liếc nh́n vào, tôi thấy Tư Lệnh nằm nghỉ nhưng giày vẫn c̣n mang, tôi lại đỡ lo phần nào. Lần khác, Tư Lệnh ngồi dậy đi về hướng tôi và hỏi: - Có ǵ không? - Em vào xem Thiếu Tướng có sai bảo ǵ không? Tư Lệnh nói: - Sao em không đi ngủ đi! Khuya rồi. Tôi nhỏ nhẹ nói: - Tŕnh Thiếu Tướng, nếu VC vào dinh, tụi em được phép đánh không Thiếu Tướng? - Thôi đừng đánh nhau, họ vào để tôi ra nói chuyện. Tôi rời Trailer đi ra ngoài. Khoảng 10 phút sau, Tư Lệnh ra pḥng làm việc của tôi trao cho tôi một gói h́nh chữ nhật dài độ 2 tấc, rộng 1 tấc, dầy 5 phân và nói: - Danh cất tiền này dể dành mà xài. (Có thể đây là tiền lương của Thiếu Tướng không dùng đến nên để dành.) Đưa gói giấy cho tôi xong, Tư Lệnh đi vào Trailer. Tôi ṭ ṃ nên hé mở gói giấy này xem, bên trong toàn giấy bạc 500 đồng, tôi đoán chừng hơn 400 ngàn đồng và tôi để gói giấy vào ngăn kéo nơi bàn làm việc. Tôi tiếp tục rón rén vào Trailer để quan sát, tôi sợ Tư Lệnh tự sát. Khoảng 12 giờ 30 khuya, Tư Lệnh ra gặp tôi nói: - Sao Danh không đi ngủ? Thức cả đêm à. - Dạ em ngủ không được. Tư Lệnh móc trong túi ra một khẩu súng nhỏ, ngắn hơn gang tay và nói: - Danh cất khẩu súng này dành để hộ thân. Tôi nhận khẩu súng bỏ vào ngăn kéo chung với gói tiền lúc năy. Tôi xuống nói chuyện với anh Việt và anh Hộ: - Thiếu Tướng đă cho tôi súng, không hiểu Tư Lệnh có ư định ǵ? Chúng tôi bàn luận với nhau và có linh cảm là Thiếu Tướng đang sắp xếp việc ǵ đó. Khoảng sau 1 giờ sáng, một anh lính hơ hải chạy vào gặp tôi: - VC tự động mở cửa vào dinh. - Anh bảo họ chờ tôi một chút. Tôi vội vă vào Trailer để gặp Tư Lệnh. Thấy Tư Lệnh đang nằm nghỉ, tôi tŕnh: - Tŕnh Thiếu Tướng, bọn VC đang vào dinh. - Bảo họ chờ tôi ra nói chuyện. Tôi đi nhanh ra trước cổng dinh, lúc bấy giờ tôi vẫn mặc áo thun, quần lính, mang giày. Gần đến cổng dinh, tôi thấy lố nhố khoảng 6, 7 người đang vẹt ṿng rào kẽm gai đi vào hướng cửa dinh. Đến gần, tôi thấy 4 nam, 1 nữ vấn tóc lủng lẳng phía sau ót và một em bé độ 10 tuổi. Nam trang bị 1 khẩu AK, một người mang khẩu Carbin, một người mang súng lục (súng loại cảnh sát xử dụng) số c̣n lại tay không, không mang giấy tờ hay máy móc ǵ cả. Nhóm người này tuổi dưới 40 đă vào đến ṿng kẽm gai thứ ba từ ngoài vào, c̣n hai ṿng kẽm gai nữa mới vào đến cửa dinh. Tôi vẹt kẽm gai và gặp họ tại đây. Một người trong nhóm quay qua hỏi tôi: - Anh làm ǵ ở đây? Tôi không dám nói là tùy viên sợ bọn chúng bắn nên trả lời trớ đi: - Tôi làm quản gia. Người mang khẩu AK hỏi tiếp: - Anh cấp bậc ǵ? - Tôi Trung Sĩ. Bất chợt người mang AK lên đạn chỉa mũi súng vào phía sườn tôi và nói như ra lệnh: - Đi! Lúc bấy giờ, tôi hồn phi phách tán, nghĩ thầm “chết là cái chắc.” Một người trong nhóm nói: - Ở đây nó làm lớn không hà, tính nó đi! Bọn chúng đi từ từ hướng vào cửa dinh, đến gần cột cờ, đứa trẻ con ôm chầm lấy khẩu súng đồng thời Pháp, súng đặt dưới chân cột cờ để làm kiểng, đứa trẻ reo lên: - Súng ngộ và đẹp quá. Chị bới tóc tiếp theo: - Nhờ có dịp này mới được vào dinh Tướng. Tôi tự nhiên cảm thấy ḷng ḿnh se lại. Bất chợt, nhóm người này dừng chân, người mang khẩu AK hất mặt ra dấu cho tôi đi qua hướng nhà bếp, ngang qua pḥng ngủ của tôi. Chết rồi! Chắc bọn chúng bắn ḿnh ở đây. Tôi chầm chậm bước đi, đầu ngoái lại nh́n cửa vô dinh. Tôi thấy Tư Lệnh đẩy nhẹ cánh cửa lưới chắn ruồi trước cửa pḥng làm việc của ông rồi bước ra. Bọn người này bảo tôi dừng lại, ba người bước vào pḥng (một người tay không, một người mang khẩu B38, một người mang khẩu Carbin). Số c̣n lại lảng vảng phía ngoài, người mang AK vẫn hướng súng về phía tôi. Khoảnh khắc, Trung sĩ Hộ từ pḥng Thiếu Tướng bước ra cho biết Tư Lệnh đang nói chuyện với VC và bảo tôi: - Thiếu Tướng bảo Trung Úy lấy thuốc lá hút. Có cớ vào gặp Tư Lệnh, người mang AK bỏ thơng súng xuống, tôi lặng lẽ bước đi, nhưng vẫn nơm nớp lo sợ là nó có thể bắn tôi từ đằng sau tới. Vô sự, thế là thoát nạn, vào pḥng tôi mở ngăn tủ lấy gói thuốc Capstan đầu lọc mời Thiếu Tướng một điếu, 3 người kia mỗi người một điếu. (Tư Lệnh hút thuốc 555 nhưng thỉnh thoảng cũng hút thuốc Capstan đầu lọc.) Tôi thấy Tư Lệnh ngồi trên Sofa băng dài, người VC không mang vũ khí ngồi trên ghế nhỏ đối diện với Tư Lệnh, người mang khẩu B38 ngồi dưới sàn nhà, tay cầm khẩu súng để trên đầu gối mũi súng hướng về phía Tư Lệnh, c̣n người mang khẩu Carbin đứng ngay cửa pḥng trong tư thế tác chiến. Xong nhiệm vụ, tôi bước ra ngoài. Người mang AK bên ngoài vẫn ở thế tác chiến nhưng không để ư đến tôi nữa. Sau khoảng mười phút nói chuyện, nhóm VC này rời dinh ra về. Tôi vào pḥng thấy Tư Lệnh vừa đứng dậy bước ra ngoài với khuôn mặt có vẻ buồn. Nh́n trên Sofa, tôi thấy điếu thuốc của Thiếu Tướng c̣n cháy dở dang độ 1/3 điếu nằm trên Sofa bốc khói làm lủng một lỗ nhỏ, tôi nhặt lấy vất đi. Cuộc nói chuyện này chỉ đơn phương, không có viết giấy tờ hay kư tên ǵ cả cũng không có máy móc khi hai bên gặp nhau. Tư Lệnh trở vào Trailer nằm nghỉ. Một lúc lâu, tôi vào lần nữa thấy Tư Lệnh nằm yên, chắc Tư Lệnh đă ngủ v́ mệt. Trong suốt đêm 30 tháng 4, Tư Lệnh và tôi hầu như không ngủ. Vào khoảng 3 giờ sáng, tôi trở dậy, rón rén vào pḥng Tư Lệnh lần nữa, thấy Tư Lệnh đang nằm yên không biết ngủ hay thức v́ trong lúc nằm nghỉ, ông vẫn mang cặp kính đen. Tôi cũng quá mệt nên ra pḥng làm việc ngă lưng trên Sofa một chút, nghe vang vang bên tai những loạt AK nổ liên hồi, chắc đối phương nổ súng mừng chiến thắng. Trong lúc nửa tỉnh nửa mê, tôi bỗng nghe tiếng chuông “boong, boong, boong.” Tôi bật ḿnh ngồi dậy, nh́n đồng hồ thấy đă hơn 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5. Tôi bước đến bàn thờ Phật, thấy ba cây nhang Tư Lệnh đă đốt và cắm sẵn trên lư hương khói bay nghi ngút. Đứng trước bàn thờ Phật, Tư Lệnh với quân phục chỉnh tề, đang nghiêng ḿnh xá Phật. Tôi vội đi nhanh về pḥng ḿnh làm vệ sinh cá nhân, xong mặc quân phục vào và đến đứng nghiêm chào Thiếu Tướng. Thiếu Tướng vẫn đưa tay lên cỡ tầm ngực đáp lại và hỏi: - Đêm qua, Danh ngủ được không? - Mệt quá, em có nằm nghỉ được một chút. Tư Lệnh vẫn ngồi trên Sofa nơi pḥng thờ Phật, tôi đi sang pḥng làm việc. Một lúc sau, Tư Lệnh đến bên tôi hỏi: - Gặp Tướng Trường được không hè? Lúc này khoảng 6:30 sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975.
- Dạ... dạ. Tôi ấp úng trả lời tiếp: - Hồi chiều tối hôm qua ở trên lầu em thấy Tướng Trường chạy xe Jeep ngang qua dinh. Tư Lệnh hỏi: - Có phải Tướng Trường không? - Em ở trên lầu hơi xa, em thấy giống Tướng Trường. - Thôi đừng đi t́m, kẻo bị chúng bắt. - Dạ. Rồi Tư Lệnh đi vào Trailer. Một lát sau, Tư Lệnh bước ra hai tay xách hai cái vali gặp tôi và anh Việt ngay ở cửa ra vào pḥng thờ Phật. Tư Lệnh đưa cho tôi cái vali màu cam và đưa Trung úy Việt cái màu đen. Tư Lệnh nh́n chúng tôi, giọng buồn buồn: - Danh giữ cái này, Việt giữ cái này. Tư Lệnh chỉ nói ngắn gọn như thế mà không nói thêm ǵ, h́nh như cổ ông nghẹn lại. Tư Lệnh vội bước đi, được vài bước, Tư Lệnh quay lại nói thêm: - À, quên ch́a khóa. Rồi Tư Lệnh đi thẳng về phía Trailer, một lúc sau, ông trở ra trao cho tôi hai ch́a khóa và nói. - Cái này của Danh, cái này của Việt. Tôi linh tính sắp có điều ǵ xảy ra nên Tư Lệnh mới dặn ḍ và chia phần cho tôi và Việt như vậy. Tuy thế, chúng tôi không dám hỏi. Tư Lệnh chầm chậm bước theo nấc thang lên tầng trên, tôi và anh Việt nối bước theo sau. Tư Lệnh ra sân thượng, đứng sát bên lan can, mắt nh́n ra Đại Lộ Ḥa B́nh trước cửa cửa dinh, tôi đứng bên phải Tư Lệnh, anh Việt đứng bên trái. Trên lộ, chỉ có vài chiếc xa qua lại, người thưa thớt, khung cảnh vắng vẻ như chiều 30 Tết. Bất chợt, Thiếu Tướng bật khóc. Tư Lệnh cố nén không khóc thành tiếng, nhưng những giọt nước mắt tuôn trào chảy dài trên khuôn mặt đau buồn v́ nước mất nhà tan. Tôi cũng khóc theo, anh Việt cũng vậy. Ba người đứng trên sân thượng trước mặt tiền dinh, mặc cho nước mắt tự do tuôn chảy. Tôi không hiểu Tư Lệnh có định đi ngoại quốc không? Nếu muốn, có lẽ Tư Lệnh cũng đi hết kịp rồi. VC vào đây có bắt Tư Lệnh không? Có làm hỗn hoặc bắn Tư Lệnh không? Nếu sự việc xảy ra th́ phải giải quyết làm sao? Tôi đang miên man suy nghĩ, Tư Lệnh xoay lưng chầm chậm theo bậc thang xuống tầng dưới. Từ ngoài nh́n vô bàn Phật, Tư Lệnh ngồi trên ghế Sofa phía bên phải, đôi mắt đăm chiêu nh́n lên bàn thờ. Anh Việt bước ra cửa về nhà thăm vợ con c̣n Trung sĩ Hộ đang thập tḥ trước cửa. Tư Lệnh đứng dậy đến bàn thờ lấy ba cây nhang đốt, xá ba xá cắm vào lư hương, gơ ba tiếng chuông “boong, boong, boong” xong xá ba xá nữa rồi ông về ngồi trên Sofa như cũ, hai tay để trên thành gỗ Sofa nhịp nhịp như không có chuyện ǵ xảy ra. Bất chợt, Tư Lệnh xoay qua bảo tôi: - Danh ra ngoài bảo Việt dẫn vợ con đi đi. - Dạ. Tôi thầm nghĩ Tư Lệnh và tôi độc thân chắc Tư Lệnh nghĩ cách khác. Tôi đẩy nhẹ cánh cửa bước ra sân hướng về pḥng Trung úy Việt. Tôi vừa đi khỏi cột cờ một chút nghe tiếng nổ “đùng” phát ra từ hướng bàn thờ Phật, tôi hốt hoảng xoay người chạy trở lại th́ Trung sĩ Hộ đă chạy ra la thất thanh: - Đại Úy ơi! Đại Úy ơi! Thiếu Tướng tự sát chết rồi. Trong lúc sợ hăi, anh Hộ quưnh lên gọi tôi là Đại Úy. Tôi chạy nhanh vào pḥng thờ Phật thấy một cảnh tượng hăi hùng trước mắt mà tôi chưa từng gặp bao giờ. Tư Lệnh ngă ngửa hơi lệch về phía sau Sofa, đầu hơi nghiêng về bên trái, mắt ngước nh́n lên trần nhà. Khẩu Colt 45 vẫn c̣n trong tay buông thơng xuống ḷng Tư Lệnh nhưng những ngón tay cầm súng đă nới lỏng, phát đạn xuyên màng tang phải qua trái. Tư Lệnh chưa chết hẳn, nhưng nói không được, thân h́nh ông run lật bật, miệng há hốc, từ trong cổ họng nấc lên tiếng “khọc, khọc, khọc” từng chập và từ từ nhỏ dần. Anh Hộ thấy vậy vội ôm lấy Thiếu Tướng nói: - Thôi ḿnh chở Thiếu Tướng đi bệnh viện. Tôi cũng ôm chầm lấy xác ông vừa khóc vừa nói: - Chắc trễ rồi, vết thương ở đầu vô phương cứu chữa, hơn nữa Thiếu Tướng đă quyết định tự sát. Hèn chi hôm qua Thiếu Tướng đi thăm anh em thương binh ở Bệnh Viện Phan Thanh Giản rất lâu và nói với anh em thương binh là: “Qua ở lại với các em.” Anh Hộ nói tiếp: - Em đâu dám đến gần Thiếu Tướng. Đứng ở ngoài cửa, em chỉ thấy lưng Thiếu Tướng. Em thấy Thiếu Tướng móc ǵ từ trong túi ra, em tưởng Thiếu Tướng lấy thuốc hút, nào ngờ Thiếu Tướng móc khẩu súng và tự sát liền, em chạy lại đâu kịp. Vừa nói anh Hộ vừa khóc nức nở. Chúng tôi vẫn ôm choàng lấy Tư Lệnh khóc ngất. Trong lúc bối rối và hoảng hốt, tôi đâu c̣n tâm trí để xem đồng hồ, tôi đoán lúc đó vào khoảng 7 giờ 30 sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975.. KHÚC NÀY CHƯA ĐĂNG + + + Vâng. Đúng như vậy. Tôi là một sĩ quan cấp Úy c̣n ít tuổi, sống độc thân. Nhờ vậy tôi đă được Tư Lệnh chọn ở bên cạnh ông. Giờ đây gần 30 năm qua, tôi vẫn c̣n nhớ măi từng giây phút cuối cùng của ngày 30 tháng 4-1975. Với tư cách là Tư Lệnh của chiến trường miền Tây, ông Thiếu Tướng của tôi, vị niên trưởng Thủ Đức đă hết ḷng với quân đội và đất nước cho đến cả sau khi nghe lệnh đầu hàng. Ngay cả việc chỉ định Đại tá Thiên thay chức Tỉnh Trưởng Cần Thơ vào trưa 30 tháng 4 cũng nhằm mục đích cần có người trách nhiệm để t́nh h́nh ổn định. Ông là vị tướng đầy ḷng nhân ái nên không muốn đổ máu thêm vô ích. Ông không cho phá cầu. Ông không tức tối với những người bỏ đi. Ông không muốn có người chết thêm sau khi Tổng Thống đă đầu hàng. Sau này tôi mới biết rằng sau khi nghe lệnh Sài G̣n đầu hàng, Tư Lệnh đă có ư định sẽ tự vẫn. V́ vậy ông đă b́nh tĩnh đi thăm Quân Y Viện Phan Thanh Giản vào buổi chiều. Tại nơi đây tôi đă từng theo ông đến thăm viếng nhiều lần, nhưng lần này ông đă khóc và hứa với những thương binh là ông sẽ ở lại. Và điều đặc biệt là chính tôi không rơ Tư Lệnh đă nói ǵ để mà Việt cộng đă hai lần vào gặp ông nhưng đều lặng lẽ lui ra. Trong quân đội chúng tôi học được bài học về đặc lệnh truyền tin vẫn gọi vị Tư Lệnh là Mặt Trời. Tiếng chuông niệm Phật của ông vào đêm 30 tháng 4 vẫn c̣n nghe vẳng bên tai. Tôi c̣n nhớ măi lúc 3 thầy tṛ đứng khóc trên lan can nhà lầu vào sáng 1 tháng 5 năm 1975. Đối với tôi, niên trưởng Nguyễn Khoa Nam muôn đời vẫn c̣n là Mặt Trời Tháng Tư chói lọi chiếu sáng cả cuộc đời c̣n lại của Danh. Tôi là Trung úy Lê Ngọc Danh, măi măi sẽ là tùy viên của ông. Ông chết đi rồi, chẳng bao giờ có thể ai thay tôi trong chức vụ này nữa. Em luôn luôn là tùy viên của ông Thầy.
Lê Ngọc Danh, Sĩ quan Thủ Đức (Giao Chỉ San Jose, Apr 24, 2004 - Calitoday News)
-------------------------------------------------------------------------------------------------------
1975 - Mũ Đỏ Nguyễn Khoa Nam
Published: Saturday, 7-Feb-2004
Chiều chiều ra đứng ngă sau ; Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều. Chúng tôi xin được giới thiệu bài viết của Mũ Đỏ Đặng Trần Hào . . Nhớ về Mũ Đỏ Nguyễn Khoa Nam.
Đă sinh ra ở trong trời đất Phải có danh ǵ với núi sông NGUYỄN CÔNG TRỨ Điếu thuốc Ruby quân tiếp vụ đă gần tàn nhưng ông vẫn cầm, một thói quen mà những người chung quanh bắt gặp thường xuyên nơi Tướng Nguyễn Khoa Nam, hai ngón tay cầm thuốc lúc nào cũng vàng khè, bao thuốc mặc dầu đang hút dở dang nhưng lúc nào cũng vuông vắn không nhầu nát, khi không tham dự hành quân bao thuốc được đựng cẩn thận trong hộp nhựa mỏng rẻ tiền, chứa được bao thuốc và hộp quẹt, bán sẵn ở các tiệm tạp hóa, nhưng khi hành quân th́ hộp nhựa đựng bao thuốc, được cho vào túi đựng băng cá nhân đeo ṭng teng ngay trên khoen giây TAB trước ngực, cho nên mặc dù đang lội bộ trong vùng rừng núi miền Trung hay ở những vùng śnh lầy Nam Phần, hoặc ở tại hậu cứ, lúc nào bao thuốc cũng không bị nhầu nát, đó là một trong những thói quen ngăn nắp của Thiếu Tá Nguyễn Khoa Nam Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù,(Chiến Đoàn Trưởng hay Lữ Đoàn Trưởng Nhảy Dù vẫn phải lội như những chiến sĩ Nhảy Dù khác); Một ngụm bia 33 nhạt nhẽo như câu chuyện t́nh muôn thuở của ông, có lẽ câu chuyên t́nh này ông chỉ tâm sự với rất ít người, cũng như ít người thấy ông uống rượu hay bia , tôi có ḍ hỏi một số ít người thân cận nhưng không một ai hay biết, mà đa số chỉ biết về một cô dược sĩ hay đến cư xá Lữ Gia, Sài G̣n; Thăm ông mỗi khi ông về đây nghỉ, sau này tôi có gặp người yêu của ông, là cô N . . . .cô N cũng có xác nhận câu chuyện t́nh chung này, nhưng câu chuyện t́nh của ông không phải là bài viết này, đó là bài viết khác tôi chỉ viết khi được cô N . . . đồng ư, hiện nay cô đang sống tại Hoa Kỳ, có lẽ cô đang sống tại Hawaii, Đặc San MŨ ĐỎ số sau, nếu thuận lợi tôi sẽ cống hiến quí vị câu chuyện t́nh không có đoạn kết, câu chuyện t́nh đầu và cũng là t́nh cuối của vị Tướng chung t́nh này,(với h́nh ảnh chụp từ năm 1957 tại nhà người yêu ở Tây Đô, cùng với ba má cô N và họ hàng nhân ngày ra mắt). Ông rất ít nói tánh t́nh điềm đạm, và có lẽ không nói lớn, ngoại trừ phải đứng trước hàng quân. Ông chung thủy với gia đ́nh, với họ hàng, với thôn xóm, với cấp trên, với cấp dưới, với quân đội, với Quốc Gia Dân Tộc và ngay cả với người yêu; V́ hiểu tính t́nh và tư cách của ông cho nên khi nghe tin ông tự sát tôi không ngạc nhiên. Nội tổ của ông là cụ Nguyễn Khoa Đăng có công giúp Chúa Nguyễn mở mang bờ cơi trong cuộc nam tiến vào thời vua Lê chúa Trịnh; Quan Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng có công dẹp giặc cướp ở Truông Nhà Hồ (phá Tam Giang) hai địa danh này nói lên sự hiểm trở của đất đai miền Trung cho nên không ai không biết tên trên sử sách, với gịng dơi Vơ Tướng, nhưng ông lại không t́nh nguyện nhập ngũ . Nhớ lúc lên đường ra tiễn chân anh, Dâng lên khóe mắt mẹ nói đôi lời , Diệt thù lập công cho xứng tài trai . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Ai đi chinh chiến xây đắp tương lai Con đi chinh chiến để nước yên vui Lam Phương Ông nhập ngũ theo lệnh động viên vào khóa 3 Liên Trường Vơ Khoa Thủ Đức năm 1953, cùng năm đó ông tốt nghiệp và tŕnh diện TĐ7ND/VN, đồn trú tại trại Quần Ngựa, Hà Nội, ông được giao cho chỉ huy một trung đội Nhảy Dù từ ngày đó; Theo ḍng thác dân tộc. Nước Việt Nam thân yêu của chúng ta phải phân chia làm hai: Miền Bắc thuộc quyền kiểm soát của Cộng Sản Việt Nam, Miền Nam thuộc quyền cai trị của Thực Dân Pháp, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới của hai miền, các đơn vị Nhảy Dù Việt Nam lúc đó c̣n thuộc quyền chỉ huy của người Pháp, nên phải di chuyển xuống miền nam vĩ tuyến 17 . Tháng 8 năm 1954 Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Trịnh Xuân Nghiêm được không vận vào Nha Trang cùng với TĐ3ND và TĐ5ND . Tháng 9 năm 1954 v́ nhu cầu thành lập BCH Liên Đoàn Nhảy Dù Việt Nam và Tiểu Đoàn Trợ Chiến Nhảy Dù, trong lúc đó Liên Đoàn Nhảy Dù Việt Nam không được tuyển mộ thêm quân số, cũng như không được tăng cường quân số từ các đơn vị khác thuyên chuyển đến, cho nên TĐ7ND phải giải tán, ông được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn Trợ Chiến Nhảy Dù, sau đó được bổ nhiệm là Đại Đội Trưởng đại đội Kỹ Thuật Nhảy Dù thuộc tiểu đoàn này. Tháng 1 năm 1957 sau khi du học Hoa Kỳ ông được thuyên chuyển về Pḥng 3 Lữ Đoàn Nhảy Dù, (lúc này Liên Đoàn Nhảy Dù được đổi tên thành Lữ Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, gồm 6 Tiểu Đoàn Nhảy Dù và hai Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn Nhảy Dù) tại đây ông trách nhiệm về hành quân của Lữ Đoàn . Năm 1960 thuyên chuyển về làm Trưởng ban 3 Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù. Năm 1963 được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù Năm 1964 được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù Năm 1965 được bổ nhiệm làm Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù.Tháng 12 năm 1965 Lữ Đoàn Nhảy Dù Việt Nam v́ nhu cầu chiến trường được bành trướng thành Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam. Năm 1966 ba Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn Được đổi tên thành Lữ Đoàn. Tháng 10 năm 1966 ông chỉ huy ba tiểu đoàn Nhảy Dù gồm TĐ3ND, TĐ6ND và TĐ8ND tham dự cuôc hành quân song song với Lữ Đoàn 173 Nhảy Dù Hoa Kỳ. Trong lúc bọn phóng viên phản chiến đang thêu dệt làm nhục QLVNCH, nói rằng chúng ta không chịu chiến đấu trong lúc các đơn vị Đồng Minh tích cực chiến đấu, đó chính là đề tài cho sinh viên Hoa Kỳ biểu t́nh Phản Chiến, chống đối chiến tranh Việt Nam. Nhưng tại ngọn đồi chiến thuật 1418 Dakto (KonTum) Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đă rửa nhục cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa là chiến thắng vẻ vang trận này, TĐ8ND Việt Nam đă được Tổng Thống Hoa Kỳ L. B. Johnson trao tặng Huy Chương Danh Dự, chính cá nhân Đại Tá Nguyễn Khoa Nam LĐT/LĐ3ND được phía Việt Nam trao tặng Anh Dũng Bội Tinh với ngành Dương Liễu, về phía Hoa Kỳ cũng trao tặng huy chương Silver Star. Cho đến ngày nay các đơn vị Nhảy Dù Hoa Kỳ vẫn c̣n ca tụng chiến thắng này của chúng ta. Ngay ngày hôm sau một phóng viên của tờ Newsweek đáp trực thăng xuống trận địa để t́m hiểu trận đánh lịch sử này, v́ về phía Hoa Kỳ địch chết 300 bỏ lại nhiều súng đạn; Bạn chết và bị thương khoảng 50, nhưng bị một số mất tích không nhỏ (đa số v́ hết đạn). LĐ3ND Việt Nam địch chết và bỏ lại súng đạn cũng tương tự như phía Hoa Kỳ, nhưng ta chết và bị thương ít hơn, điểm đặc biệt là ta không bị mất tích; (theo tin tức bằng khai thác tù binh th́ trong đêm địch đă tấn công TĐ8ND/LĐ3ND/Việt Nam bằng một Trung Đoàn, đồng thời cũng tấn công TĐ1ND/LĐ173ND/Hoa Kỳ bằng một Trung Đoàn khác) Phóng viên hỏi một khinh binh TĐ8ND : -Đêm qua địch tấn công anh bằng cấp (đơn vị) nào? -Tôi không rơ. -Địch tấn công anh bao nhiêu lần -Năm lần -Tại sao trên BCH lại nói là tám lần -Đúng như vậy, nhưng mặt đơn vị tôi trách nhiệm th́ chỉ có năm lần mà thôi, -Thế anh bắn bao nhiêu đạn -Tôi bắn tất cả khoảng 12 viên -Tại sao địch tấn công anh 5 lần mà anh chỉ bắn có 12 viên đạn mà thôi . -Tại v́ tôi chỉ thấy có 6 tên địch mà thôi. Năm 1969 trong lúc LĐ3ND đang tham dự hành quân phối hợp LĐ1Không Kỵ thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ (các quân nhân phục vụ trong đơn vị Không Kỵ là quân nhân Nhảy Dù, đơn vị này trực thuộc Quân Đoàn 18 Nhảy Dù) tại biên giới Miên Việt thuôc tỉnh Tây Ninh, ông được thượng cấp thuyên chuyển ra khỏi Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam; Làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh . Năm 1974 v́ t́nh h́nh đ̣i hỏi các cấp Tư lệnh Quân Đoàn cũng như Sư Đoàn phải có đầy đủ khả năng cũng như uy tín và Trung Kiên nên ông được điều động làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV. Năm 1975 ngày 30 tháng 4, Tổng Thống Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, ông đă b́nh tĩnh cho lệnh cuối cùng, để quân nhân thuộc cấp tự định liệu lấy đời ḿnh, nhưng ông chính v́ ḷng trung tín mà ông phải tuân theo lệnh thượng cấp, sau đó ông vào pḥng tư lệnh dùng súng tự sát để trở về với những anh hùng Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản. . . .
Mũ Đỏ Đặng Trần Hào -----------------------------------------------------------------------------------------------------
Lá Thư Gởi Anh Nam
Published: Thursday, 21-Apr-2005
Nguyễn Văn Hai
Giáo Sư Tiến Sĩ, nguyên Phó Viện Trưởng kiêm Khoa Trưởng Đại Học Khoa Học, Viện Đại Học Huế
Anh Nam kính mến:
Chúng tôi vừa coi xong cuốn video "Chiến Tranh và Ḥa B́nh" của hăng Asia. Một đoạn video gây chúng tôi nhiều xúc động nhất là buổi phỏng vấn anh Phước về cái chết đầy khí tiết của Anh, một vị Tướng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, vào giờ phút buồn thảm nhất của lịch sử đất nước. Một chi tiết đến hôm nay chúng tôi mới biết và làm tôi ngạc nhiên đến sửng sốt là Anh thọ tŕ thần chú Thủ Lăng Nghiêm đă từ lâu. Sửng sốt là v́ thật không ngờ từ lâu Anh đă suy ngẫm nhiều về chân tướng cuộc đời, phát tâm tin Phật Pháp thâm diệu, sống ung dung thanh thản giữa một thế giới lắm tai ách và khổ đau. Thực ra, Anh là người đă rất nhiều lần gây cho tôi những giây phút bàng hoàng sửng sốt. Duyên nghiệp cho tôi được cái vinh dự cùng Anh học một lớp và ở chung một kư-túc-xá suốt năm năm ở trường Trung Học Khải Định. Lúc bắt tay Anh lần đầu khi Anh sắp leo lên chiếc giường ngủ đặt sát cạnh giường tôi đêm trước ngày khai giảng niên khóa 1940 - 41, tôi có ngay cảm tưởng từ hôm nay tôi may mắn có thêm một bạn đồng song hiền lành, chăm học, dáng ngoài đúng điệu một thư sinh. Nhưng tôi để ư Anh có một nụ cười bí ẩn, măi đến nay tôi vẫn c̣n chưa hiểu hết ư nghĩa của nó. Thường Anh ít nói mà chỉ cười, cười kiểu "ngậm kim." Có khi tôi tưởng Anh cười nhạo báng, có khi tôi tưởng Anh cười đồng ư, và có khi tôi cho là Anh cười để tránh nói ra những cảm nghĩ làm mất ḷng người khác. Bây giờ tôi kể lại để Anh nhớ một hai câu chuyện hồi c̣n ở trường Anh đă gây cho tôi bàng hoàng sửng sốt. Thường ngày vào giờ Vẽ, tôi ngồi gần Anh trong pḥng Họa, ở sát ngay Nhà Chơi của Trường. Cả lớp đều biết Anh có tài hội họa, vẽ truyền thần và phong cảnh. Kể ra, vốn tự biết ḿnh vụng về không vẽ nên thân, tôi t́m ngồi gần Anh là cốt học mót nơi Anh cách vẽ, chứ thầy Tôn Thất Đào đâu có đủ thời giờ trong một tiếng đồng hồ đi chăm sóc từng tṛ một trong một lớp có đến 50 tên. Một năm nọ, vào kỳ thi lục cá nguyệt, thầy Đào ra đề tài cho vẽ tùy ư một cảnh hoạt động ngoài trời. Thế là tôi lúng ta lúng túng, hết gôm rồi lại xóa, làm ṃn gần hết viên tẩy, thay tờ giấy vẽ này sang tờ giấy vẽ khác, rốt cuộc năm mươi phút trôi qua mà chẳng vẽ ra cái cảnh nào nên hồn cả. Anh thương t́nh, biết tôi tự ái, không bao giờ mở miệng cầu viện, mới hỏi: Cậu ưng ḿnh vẽ hộ cho cậu không? Không đắn đo suy nghĩ, tôi cảm ơn ḷng tốt của Anh và đưa cho Anh một tờ giấy vẽ c̣n nguyên. Thế là chỉ trong năm hay bảy phút ǵ đó, Anh đă họa xong giùm tôi một hoạt cảnh "Đá banh." Tôi mừng thầm có cứu tinh pḥ trợ chuyến này chắc tai qua nạn khỏi. Ngờ đâu, khi nh́n vào tờ giấy vẽ trước khi đem lên nạp thời trời đất ơi! Anh đă vẽ một thằng bé chổng mông rách quần trên sân cỏ!!! V́ đă hết giờ và không c̣n cách nào hơn, tôi đành đem bức họa "quỷ khóc thần sầu" ấy lên nạp. Tôi nghĩ lại tất cả là lỗi tại tôi, đă có ư gian th́ phải cúi đầu mà lănh đủ quả phạt. Buồn cười là câu chuyện không chấm dứt như dự tưởng. Sau hơn ba năm dạy tôi môn Vẽ, thầy Đào thừa hiểu tôi không bao giờ đủ tài năng sáng tác ra một bức họa để đời như vậy. Thầy không cho tôi là người có tội nên phê vào tờ giấy vẽ đề tên tôi điểm 19 trên 20. C̣n điểm bức họa của Anh th́ chỉ được 18 trên 20 mà thôi. Tôi được một trận cười ra nước mắt, nhưng Anh th́ đón nhận bài của ḿnh vẫn với cái nụ cười "ngậm kim" muôn thuở! Sau đây là một câu chuyện khác, nhưng lần này xin nhường cho Phan Thụy Dung, một người bạn học khác của Anh kể hay hơn tôi nhiều: Một hôm trong lớp học xuất hiện một giáo sư Việt Nam, thầy B. H., dạy tiếng Nhật vừa được ghi thêm vào chương tŕnh trung học. Học tṛ bên ngoài ngoan ngoăn học ngoại ngữ mới, thật ra bên trong chẳng mấy người hăng hái sốt sắng v́ mặc cảm hết tiếng Tây đến tiếng Nhật đang đè nặng. Tất nhiên đám học tṛ có phản ứng và sự việc xảy ra đă làm cả lớp thích thú: Hôm đó thầy B. H. giảng cách dùng tiếng Nhật khi nói về "đàn ông" và "đàn bà," đại khái nói về "đàn ông" th́ dùng chữ "Watakusi," về "đàn bà" th́ dùng chữ "Watasi." Một anh bạn đứng dậy giơ tay nói: Thưa thầy, như rứa là "đàn bà" th́ không có "ku" phải không? Cả lớp được một dịp cười hả dạ. Tui không bao giờ quên được anh bạn đó, người đă dùng óc hài hước để hóa giải mặc cảm nói trên. Người học sinh có óc hài hước đó lại là một con người tài ba, sau này đă thành công trong đời, đă lên đến đỉnh cao trong binh nghiệp và khi không giữ được nước, đă noi gương trung liệt của Vơ Tánh, Ngô Tùng Châu, Phan Thanh Giản, v.v... làm rạng danh một ḍng họ lớn ở đất Thần Kinh: họ Nguyễn Khoa. (Trích trong Tiếng Sông Hương "Kỷ Niệm 100 Năm Trường Quốc Học"). Anh Nam ơi! Rồi duyên nghiệp đưa tôi trở thành con rể trong gia đ́nh bên ngoại Anh, và qua nhà tôi, tôi trở thành người em cô cậu của Anh. Tin Anh t́nh nguyện gia nhập binh chủng Nhảy Dù sau khi măn khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức làm tôi kinh ngạc hết sức. Đúng ra, theo phong cách của Anh, Anh phải là một văn nhân, một nghệ sĩ. Nay Anh lại tự ư muốn trở thành quân nhân quả cảm của một binh chủng có tiếng oai hùng nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, điều này làm tôi mến phục Anh vô cùng! Anh nhớ không, sau Tết Mậu Thân, tôi có dịp cùng một số sinh viên Đại Học Huế lên thăm tiền đồn của Dù bảo vệ Huế đóng trên núi ở phía Tây kinh thành. Lại một lần nữa Anh làm tôi bàng hoàng sửng sốt khi thấy nơi chốn Anh ăn nằm không có chút ǵ khác biệt giữa cương vị của một vị Đại Tá cao cấp với một anh binh Nh́ thuộc cấp. Trong thời gian Anh đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, tôi được gặp Anh một lần ở Sài G̣n và hỏi về chuyện một Giáo Sư trường Đại Học Dược Khoa muốn theo Anh để nâng khăn sửa túi. Nhưng rồi Anh không nói có, Anh cũng chẳng nói không, mà chỉ cười cái cười ngậm kim như thuở nào! Anh Nam ơi! Trong trại tỵ nạn ở Subic Bay, chúng tôi bàng hoàng sửng sốt khi nghe tin Anh đă tự sát để đền nợ nước và để tránh khỏi đầu hàng quân địch. Anh lại gây trong ḷng chúng tôi một sự sót xa kính phục vô cùng tận không lời nào tả xiết. Cuối cùng, nhờ được biết Anh thọ tŕ Thần chú Thủ Lăng Nghiêm từ lâu, nên nay chúng tôi mới rơ trong thời kỳ trước 1975, Anh đă thần thông thấy, biết trước mọi điều bất hạnh sẽ xảy ra cho đất nước, nhưng với trí tuệ giải thoát, Anh vẫn sống an nhiên tự tại, quan niệm sanh tử tức Niết Bàn, thảy thảy đều không. Nay tuy Anh đă đi vào cảnh chân như tịch tịnh, đời đời hậu thế sẽ không bao giờ quên đề cao gương trung liệt của Anh.
Thương kính nhớ Anh vô cùng. Nguyễn Văn Hai và Gia đ́nh.
lên web ngày 18 - 4 - 2006
|
||||||