at Capitol. June 19.1996
with Sen. JohnMc Cain
with Congressman Bob Barr
with General John K Singlaub
CNBC .Fox .FoxAtl .. CFR. CBS .CNN .VTV.
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .EXAMINER
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .NEWSLINK .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .BREIBART.INTERCEIPT.PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.NPRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài Gòn Báo
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu.ChúngTa .Eurasia.
CaliToday .NVR .Phê Bình . TriThucVN
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử *.Trái Chiều
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *
KIM ÂU -CHÍNHNGHĨA -TINH HOA - STKIM ÂU
CHÍNHNGHĨA MEDIA-VIETNAMESE COMMANDOS
BIÊTKÍCH -STATENATION - LƯUTRỮ -VIDEO/TV
DICTIONAIRIES -TÁCGỈA-TÁCPHẨM - BÁOCHÍ . WORLD - KHẢOCỨU - DỊCHTHUẬT -TỰĐIỂN -THAM KHẢO - VĂNHỌC - MỤCLỤC-POPULATION - WBANK - BNG ARCHIVES - POPMEC- POPSCIENCE - CONSTITUTION
VẤN ĐỀ - LÀMSAO - USFACT- POP - FDA EXPRESS. LAWFARE .WATCHDOG- THỜI THẾ - EIR.
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
ADVERTISEMENT
Le Monde -France24. Liberation- Center for Strategic- Sputnik
https://www.intelligencesquaredus.org/
Space - NASA - Space News - Nasa Flight - Children Defense
Pokemon.Game Info. Bách Việt Lĩnh Nam.US Histor. Insider
World History - Global Times - Conspiracy - Banking - Sciences
World Timeline - EpochViet - Asian Report - State Government
https://lens.monash.edu/@politics-society/2022/08/19/1384992/much-azov-about-nothing-how-the-ukrainian-neo-nazis-canard-fooled-the-world
with General Micheal Ryan
US DEBT CLOCK . WORLDOMETERS . TRÍ TUỆ MỸ . SCHOLARSCIRCLE. CENSUS - SCIENTIFIC - COVERTACTION
EPOCH - ĐKN - REALVOICE - JUSTNEWS - NEWSMAX - BREIBART - WARROOM - REDSTATE - PJMEDIA - EPV - REUTERS
AP - NTD - REPUBLIC - TTV - BBC - VOA - RFI - RFA - HOUSE - TỬ VI - VTV - HTV - PLUS - TTRE - VTX - SONY - SOHA -TN CHINA - SINHUA - FOXNATION - FOXNEWS - NBC - ESPN - SPORT - ABC- LEARNING - IMEDIA - NEWSLINK - WHITEHOUSE- CONGRESS - FED REGISTER - OAN - DIỄN ĐÀN - UPI - IRAN - DUTCH - FRANCE 24 - MOSCOW - INDIA - NEWSNOW NEEDTOKNOW - REDVOICE - NEWSPUNCH - CDC - WHO - BLOOMBERG - WORLDTRIBUNE - WND - MSNBC- REALCLEAR
POPULIST PRESS - PBS - SCIENCE - HUMAN EVENT - REPUBLIC BRIEF - AWAKENER - TABLET - AMAC - LAW - WSWS - PROPUBICA -INVESTOPI-CONVERSATION - BALANCE - QUORA - FIREPOWER - GLOBAL- NDTV- ALJAZEER- TASS- DAWN
NATURAL- PEOPLE- BRIGHTEON - CITY JOURNAL- EUGENIC- 21CENTURY - PULLMAN- SPUTNIK- COMPACT- DNYUZ
Vũ khí hạt nhân và chiến tranh Việt Nam
Hoa Kỳ và việc không sử dụng vũ khí hạt
nhân kể từ năm 1945
( Nhà xuất bản Đại học Cambridge)
tháng 3 năm 2003
Bài viết này, “Vũ khí hạt nhân và Chiến tranh Việt Nam,”
là một chương trong cuốn sách sắp xuất bản của Nina Tannenwald, Điều
cấm kỵ hạt nhân: Hoa Kỳ và việc không sử dụng vũ khí hạt nhân từ năm
1945 (từ Nhà xuất bản Đại học Cambridge). Cuốn sách tập trung vào
cách tổng thống Mỹ và các cố vấn của ông nghĩ về việc sử dụng vũ khí
hạt nhân trong thời kỳ khủng hoảng, đồng thời phân tích các yếu tố
quân sự, chính trị và quy chuẩn đã hạn chế việc sử dụng chúng. Cuốn
sách lập luận rằng một điều cấm kỵ hạt nhân đã phát triển trong nền
chính trị toàn cầu, điều này đã giúp coi vũ khí hạt nhân là vũ khí
chiến tranh. Phân tích dựa trên nhiều nguồn tài liệu chính, bao gồm
các tài liệu được giải mật và tài liệu thu được theo Đạo luật Tự do
Thông tin, cũng như các hồi ký cá nhân và các cuộc phỏng vấn.
Nina Tannenwald là Trợ lý Giáo sư Nghiên cứu Gia đình
Joukowsky tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Watson thuộc Đại học Brown, và
hiện là Học giả Carnegie đang nghỉ phép tại Trung tâm Hợp tác và An
ninh Quốc tế tại Đại học Stanford. Có thể liên hệ với cô ấy theo số
650-723-6840 hoặc ninat@stanford.edu.
Chưa bao giờ có khoảng cách quân sự giữa một siêu cường và một
quốc gia phi hạt nhân
trạng thái lớn hơn; chưa bao giờ nó ít có khả năng được gọi
đến.
Henry Kissinger, 1994.
Trong tất cả các trường hợp xung đột trong
Chiến tranh Lạnh mà Hoa Kỳ có thể đã sử dụng vũ khí hạt nhân, Chiến
tranh Việt Nam là một trong những thử nghiệm mạnh mẽ nhất về điều
cấm kỵ đối với việc sử dụng chúng lần đầu. Tại Việt Nam, Hoa Kỳ đã
chọn cách thua trong một cuộc chiến tranh nhục nhã và hủy diệt trước
một đối thủ nhỏ bé, phi hạt nhân trong khi tất cả vũ khí hạt nhân
của nước này vẫn nằm trên kệ. Trong mười năm cam kết quân sự với
miền Nam Việt Nam trong những năm 1960 và 1970, Hoa Kỳ đã chịu tổn
thất lớn về nhân lực, tiền bạc và trang thiết bị với cái giá chính
trị to lớn. Các quan chức Mỹ nhiều lần tuyên bố rằng Mỹ không thể
chấp nhận việc để mất Đông Nam Á vào tay chủ nghĩa cộng sản và rằng
cuộc chiến này rất quan trọng đối với lợi ích, uy tín và an ninh của
Mỹ.
Khi chiến tranh leo thang, Mỹ sẵn sàng duy trì
các chính sách có sức tàn phá lớn. Chiến dịch Sấm Rền, bắt đầu vào
tháng 3 năm 1965, kéo dài trong ba năm và thả nhiều quả bom xuống
Việt Nam hơn số bom rơi xuống toàn bộ châu Âu trong Thế chiến thứ
hai.[1] Bắt đầu từ năm 1969, các cuộc không kích của B-52 đã phá hủy
nhiều vùng rộng lớn ở Bắc và Nam Việt Nam, Campuchia và Lào. Lực
lượng Hoa Kỳ đã sử dụng thuốc diệt cỏ và chất làm rụng lá để phá hủy
đất trồng trọt và rừng, ném bom lửa và bom napalm, và cuối cùng là
rải mìn ở cảng Hải Phòng. Người ta ước tính có khoảng 3,6 triệu
người Việt Nam, cả miền Bắc và miền Nam, đã thiệt mạng trong cuộc
xung đột, và 58.000 người Mỹ.[2]
Chiến tranh Việt Nam cũng là một trường hợp
tốt để khám phá vai trò của một điều cấm kỵ vì sự tương đồng được
nhận thức rộng rãi với Chiến tranh Triều Tiên trong số những người
ra quyết định của Hoa Kỳ vào thời điểm đó.[3] Ở Hàn Quốc, Hoa Kỳ đã
chứng minh rằng, mặc dù gần như độc quyền về hạt nhân, một cường
quốc hạt nhân vẫn có thể tham gia vào một cuộc chiến tranh phi hạt
nhân có giới hạn. Tuy nhiên, do chi phí quân sự và chính trị của
cuộc chiến đó đối với Hoa Kỳ, sau Triều Tiên, rất nhiều cuộc tranh
luận đã diễn ra về tính khả thi và mong muốn tiến hành một cuộc
chiến tranh hạn chế khác theo cách tương tự.[4] Một bài học phổ biến
mà Quân đội (cùng với một số nhà lãnh đạo chính trị) học được từ
tình trạng bế tắc ở Triều Tiên là không bao giờ xảy ra một cuộc
chiến tranh trên bộ ở châu Á nữa, mà ý nghĩa thực sự của nó, mà
những người trong chính quyền có khả năng tiếp cận kế hoạch quân sự
đều hiểu, không bao giờ là một cuộc chiến tranh trên bộ chống lại
Trung Quốc mà không có vũ khí hạt nhân. .
Nếu lãnh đạo Mỹ mong muốn sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam
thì không thiếu đầu đạn cũng như không thiếu mục tiêu phù hợp. Các
bến cảng, bến đỗ, đường tiếp tế, cầu, đường sắt và sân bay đều có
thể bị tấn công dứt điểm bằng vũ khí có hiệu suất tương đối thấp.
Như McGeorge Bundy, cố vấn an ninh quốc gia cho các tổng thống
Kennedy và Johnson, sau này đã nhận xét, những mục tiêu như vậy có
thể đã bị tấn công bằng vũ khí hạt nhân và rất có thể với tổn thất
về người thấp hơn so với tổn thất về người trong cuộc chiến thực sự
diễn ra.[7] Hơn nữa, nỗi lo sợ bị trả đũa hạt nhân không phải là mối
lo ngại nổi bật. Bundy nhớ lại, Rất ít, nếu có, [việc không sử dụng
vũ khí hạt nhân] vì sợ rằng những người bạn của [Miền Bắc] Việt Nam
có đầu đạn của riêng họ, người Nga hoặc người Trung Quốc, sẽ sử dụng
một số trong số chúng để đáp trả.[8]
Với bối cảnh này, một trong những đặc điểm đáng chú ý của
Chiến tranh Việt Nam là các nhà lãnh đạo Mỹ ít suy nghĩ nghiêm túc
về khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân. Bất chấp cam kết tránh thất
bại, các lý thuyết phổ biến về chiến tranh hạt nhân hạn chế và mức
độ tàn phá gây ra cho Việt Nam bằng các biện pháp thông thường, các
nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ chưa bao giờ thực sự tiến
gần đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong cuộc xung đột. Tổng thống
Kennedy và Johnson ít xem xét nghiêm túc các lựa chọn hạt nhân và từ
chối đưa ra bất kỳ mối đe dọa hạt nhân nào, mặc dù có một số khuyến
nghị nên làm như vậy. Trong khi Tổng thống Nixon và cố vấn an ninh
quốc gia Henry Kissinger tích cực khám phá các lựa chọn hạt nhân hơn
và tham gia vào các mối đe dọa hạt nhân mơ hồ, cuối cùng họ cũng
không tiến gần đến việc thực sự sử dụng vũ khí như vậy trong cuộc
xung đột.
Tuy nhiên, chúng không hoàn toàn không phải là vấn đề như
Bundy đã miêu tả trong lịch sử uy nghiêm của ông về việc ra quyết
định hạt nhân.[9] Trên thực tế, chúng là ẩn ý đang diễn ra của một
cuộc chiến diễn ra trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh. Khả năng sử dụng
vũ khí hạt nhân đã được thảo luận trong nhiều cuộc họp khác nhau của
các quan chức cấp cao trước đợt triển khai quân lớn đầu tiên của Mỹ
vào tháng 3 năm 1965 và trong những khoảng thời gian lẻ tẻ cho đến
năm 1972. Cả các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị đều nghĩ rằng vũ
khí hạt nhân chiến thuật sẽ hữu ích về mặt quân sự, và thậm chí là
cần thiết, nếu xung đột mở rộng và các nhà lãnh đạo Mỹ nhận được
khuyến nghị sử dụng chúng hoặc đe dọa sử dụng chúng từ những cá nhân
có uy tín, trong đó có chính Bundy. Ngoài ra, Nixon và Kissinger
cũng đã tự mình suy nghĩ về điều đó.
Tại sao các nhà lãnh đạo Mỹ không sử dụng vũ khí hạt nhân
chiến thuật để tránh một thất bại đáng tiếc và có thể rút ngắn chiến
tranh, cứu mạng sống và kho báu của người Mỹ? Nỗi sợ leo thang chiến
tranh không kiểm soát được với Nga hoặc Trung Quốc là một phần quan
trọng của lời giải thích. Tuy nhiên, những rủi ro như vậy đã bị
tranh cãi gay gắt trong suốt cuộc chiến, và quân đội cũng như hầu
hết các nhà lãnh đạo chính trị chủ chốt đều tán thành các chính sách
liên quan đến việc mạo hiểm chiến tranh với Trung Quốc nếu cần
thiết. Với tình hình này, những hạn chế về mặt chính trị và quy phạm
đối với việc sử dụng vũ khí hạt nhân trở nên đặc biệt nổi bật. Cuối
cùng, mặc dù vũ khí hạt nhân có thể hữu ích về mặt quân sự trong
chiến tranh, nhưng rõ ràng là vào thời điểm chiến tranh diễn ra,
chúng không thể sử dụng được về mặt chính trị, và đối với một số
quan chức, thậm chí còn không thể chấp nhận được về mặt đạo đức.
Chính quyền Johnson và Việt Nam
Năm 1961, Tổng thống Kennedy đã từ chối can thiệp vào cuộc
khủng hoảng ở Lào, bất chấp khuyến nghị của hầu hết các cố vấn của
ông khi làm như vậy - ngay khi ông nhận ra rằng quân đội Mỹ chắc
chắn sẽ bị áp đảo về số lượng trên bộ và các chỉ huy quân đội Mỹ sẽ
trông cậy vào vũ khí hạt nhân để giải quyết vấn đề. cân bằng.[10]
Vấn đề vũ khí hạt nhân lại nảy sinh dưới thời Tổng thống Johnson
trong bối cảnh quyết định can thiệp quân sự vào Việt Nam năm
1964-65, mà đỉnh điểm là chiến dịch ném bom
Sấm Rền và đợt đưa quân đội Mỹ lớn đầu tiên vào tháng 3 năm 1965. đã
gửi quân tới bảo vệ miền Nam Việt Nam, Bộ Tổng tham mưu liên quân
thường xuyên thúc đẩy việc mở rộng chiến tranh, bao gồm cả các lựa
chọn hạt nhân. Các cuộc thảo luận sâu rộng nhất của chính quyền
Johnson về vũ khí hạt nhân diễn ra trong cuộc vây hãm Khe Sanh năm
1968, nhưng thậm chí điều này cũng không đi xa được. Có hai lời phê
bình liên tục về việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trong cuộc
xung đột: Bản ghi nhớ nổi tiếng của Thứ trưởng Ngoại giao George
Ball vào tháng 10 năm 1964 và một nghiên cứu mới được giải mật do
nhà vật lý Freeman Dyson và ba nhà khoa học khác thực hiện vào năm
1966. Cả hai bài báo này đều bị bác bỏ mạnh mẽ. chống việc sử dụng
vũ khí hạt nhân trong chiến tranh.
Các kịch bản chính về sử dụng vũ khí hạt nhân
Kịch bản chính của việc sử dụng vũ khí hạt nhân là một cuộc
chiến tranh trên bộ lớn chống lại quân đội Trung Quốc và Bắc Việt,
mặc dù các phương án khác đôi khi được đề xuất. Cả các nhà lãnh đạo
quân sự và chính trị đều nghĩ rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân
chiến thuật trong một cuộc chiến như vậy là có thể, và thậm chí có
thể là cần thiết, để tránh thất bại. Mặc dù các chỉ huy quân sự đôi
khi bị chia rẽ về việc liệu vũ khí hạt nhân có cần thiết trong một
cuộc chiến rộng lớn hơn hay không, các Tham mưu trưởng liên quân đã
ước tính rằng vũ khí hạt nhân chiến thuật sẽ hữu ích về mặt quân sự,
lập luận trong một bản ghi nhớ vào tháng 3 năm 1964 rằng các
cuộc tấn công hạt nhân sẽ có xác suất xảy ra cao hơn nhiều. ngăn
chặn cuộc tấn công của Trung Quốc hơn là đáp trả bằng vũ khí thông
thường.[11] Như một nhóm công tác của JCS đã nói, Chắc chắn
không có người có trách nhiệm nào đề xuất tiến hành một cuộc chiến
như vậy [chống lại Bắc Việt và Trung Quốc], nếu nó xảy ra, trên cơ
sở gần giống với Hàn Quốc. Tất nhiên, ngay cả việc sử dụng vũ khí
hạt nhân vào một thời điểm nào đó cũng có thể là lý do tại sao chúng
ta chi hàng tỷ USD để sở hữu chúng.[12] Về cơ bản, các Tham mưu
trưởng liên quân cho rằng các chính sách thời Eisenhower vẫn có hiệu
lực mà Hoa Kỳ đã thực hiện để bảo vệ nhiều khu vực với giả định rằng
vũ khí hạt nhân sẽ được sử dụng khi cần thiết và chúng sẽ có hiệu
quả.
Ví dụ, các nhà lãnh đạo quân sự không chắc chắn liệu việc ném
bom thông thường vào các tuyến đường tiếp tế của Trung Quốc ở miền
Bắc Việt Nam có đủ hay không và cho rằng cần phải có ít nhất lực
lượng mặt đất và có thể cả vũ khí hạt nhân.
Đô đốc Harry D. Felt, Tổng tư lệnh Thái Bình Dương
(CINCPAC) tin rằng trong trường hợp xảy ra một cuộc chiến tranh lớn
trên bộ, không có cách nào khả thi để cầm chân lực lượng Cộng sản
trên bộ mà không sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật, và đó là điều
cần thiết là các chỉ huy Hoa Kỳ phải được tự do sử dụng chúng khi có
kế hoạch dự phòng. Chủ tịch Hội đồng Tham mưu
trưởng Liên quân, Tướng Earle Wheeler phản đối việc sử dụng vũ khí
hạt nhân để ngăn chặn các đường tiếp tế nhưng cho rằng chúng sẽ cần
thiết trong một cuộc chiến lớn chống lại Trung Quốc, và chỉ nên được
sử dụng trong những trường hợp cực đoan như cứu một lực lượng đang
bị đe dọa hủy diệt hoặc tiêu diệt một mục tiêu đặc biệt như cơ sở vũ
khí hạt nhân.[13] Tuy nhiên, Tướng Maxwell Taylor, người từng giữ
chức Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân và một thời gian
làm đại sứ Mỹ tại miền Nam Việt Nam, lại tỏ ra nghi ngờ hơn về sự
cần thiết của vũ khí hạt nhân.[14]
Các nhà lãnh đạo chính trị hàng đầu đã đi xa đến mức các Tham
mưu trưởng liên quân. Nhưng trong các cuộc thảo luận năm 1964-65 về
việc có nên can thiệp vào chiến tranh hay không, họ đã nêu ra vấn đề
vũ khí hạt nhân và dường như đã sẵn sàng chấp nhận rằng chúng phải
sẵn sàng để sử dụng. Đại sứ Hoa Kỳ tại miền
Nam Việt Nam, Henry Cabot Lodge, trong các cuộc gặp vào tháng 4 và
tháng 5 năm 1964, đã đặt ra câu hỏi liệu có cần vũ khí hạt nhân để
bảo vệ miền Nam Việt Nam hay không. Trong cuộc họp vào ngày 27 tháng
4, Ngoại trưởng Dean Rusk bày tỏ lo ngại về việc liệu điều này có
lôi kéo được Liên Xô hay không, đồng thời lưu ý rằng ông rất ấn
tượng với việc Tưởng Giới Thạch bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ đối với
việc sử dụng vũ khí hạt nhân. William Bundy, Trợ lý Ngoại trưởng phụ
trách vùng Viễn Đông, cho rằng việc sử dụng hạn chế các loại vũ khí
như vậy để ngăn chặn ở những khu vực không có dân cư có thể lại là
một câu chuyện khác. Rusk tỏ ra nghi ngờ rằng điều này có thể có
hiệu quả, mặc dù anh cho rằng một số mối đe dọa có thể hữu ích.
[15]
Vào tháng 11 năm 1964, ngay sau khi Johnson tái đắc cử tổng
thống, một lực lượng đặc nhiệm liên ngành do William Bundy chủ trì
đã được thành lập để phân tích các đường hướng hành động chính của
Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong các bình luận bằng văn bản về các dự thảo
đưa ra ba lựa chọn A, B và C, Bundy đã hỏi về Lựa chọn B, đường lối
hành động tích cực nhất, Ở giai đoạn nào, nếu có, vũ khí hạt nhân có
thể được yêu cầu và ở quy mô nào. ? Ý nghĩa của việc sử dụng như vậy
là gì? Ông nhận xét: Đây rõ ràng là một vấn đề nhạy cảm. Tổng thống
có thể muốn một câu trả lời chính xác hơn những gì xuất hiện trên
báo chí.[16]
Vào ngày 23 tháng 11, JCS, trong
một bản ghi nhớ gửi Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara, đã chỉ
trích lựa chọn A là không thỏa đáng và đưa ra các phiên bản riêng
của họ về các lựa chọn B và C, trong đó sẽ bao gồm một quyết định
trước để tiếp tục gây áp lực quân sự, nếu cần thiết, đến mức tối đa.
giới hạn về những hành động quân sự có thể đóng góp vào các mục tiêu
quốc gia của Hoa Kỳ.[17] Trong bối cảnh đó, việc đề cập đến vũ khí
hạt nhân là không thể nhầm lẫn. Các Bộ trưởng đã lập luận trước đó,
vào ngày 10 tháng 11, rằng nguy cơ xung đột hạt nhân sẽ ngăn cản sự
can thiệp của cộng sản Trung Quốc, đồng thời bày tỏ rõ ràng sẵn sàng
sử dụng vũ khí hạt nhân nếu Trung Quốc can thiệp.[18]
Trong cuộc họp của Ủy ban điều hành (ExCom) của NSC ngày 24/11
để thảo luận về 3 phương án, có người đã hỏi liệu vũ khí hạt nhân có
thể được sử dụng hay không. McNamara nói rằng ông không thể tưởng
tượng được trường hợp nào chúng sẽ được xem xét, nhưng McGeorge
Bundy nghĩ rằng trong một số trường hợp nhất định, có thể có áp lực
chính trị và quân sự để xem xét việc sử dụng chúng.[19] Tuy nhiên,
không có câu trả lời chính xác nào được đưa ra, và Hồ sơ Lầu Năm Góc
ghi chú sau một đề cập không thuyết phục về vũ khí hạt nhân và một
lần nữa, vấn đề này không thực sự được tiếp tục.[20] ExCom cuối cùng
đã chọn tùy chọn C, kế hoạch của Chiefs, với một số sửa đổi. Bản
thảo cuối cùng ngày 2 tháng 12 của bài viết (được Johnson phê duyệt
vào ngày 7 tháng 12) đã kết hợp lời kêu gọi của các Tham mưu trưởng
về các biện pháp đáp trả mạnh mẽ đối với sự leo thang của Bắc Việt,
Mặc dù không có vũ khí hạt nhân
nào được triển khai tại Việt Nam nhưng chúng vẫn có mặt trên các tàu
sân bay và được dự trữ trong khu vực, số lượng ngày càng tăng cho
đến giữa năm 1967.[22] Các kế hoạch của CINCPAC nhằm leo thang chiến
tranh lớn bao gồm cả các lựa chọn hạt nhân và phi hạt nhân. Lịch sử
của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương được giải mật gần đây xác nhận sự tồn
tại của các kế hoạch chiến tranh hạt nhân này, lần đầu tiên được
tiết lộ trong Hồ sơ Lầu Năm Góc.[23] Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự
can thiệp của Trung Quốc vào các hoạt động thù địch sẽ yêu cầu thực
hiện CINCPAC OPLAN 39-65 và/hoặc OPLAN 32-64. Trong trường hợp Trung
Quốc tham chiến, lực lượng Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược (SAC) sẽ
tấn công các mục tiêu được chọn ở Trung Quốc bằng cách sử dụng vũ
khí hạt nhân và/hoặc phi hạt nhân, theo chỉ đạo của JCS.[24] Ngoài
ra, khi Thủy quân lục chiến Mỹ đến Đà Nẵng vào tháng 3 năm 1965, họ
đã mang theo những khẩu pháo 8 inch có khả năng mang đầu đạn hạt
nhân, mặc dù họ không có đầu đạn hạt nhân.[25] Do đó, Hoa Kỳ sẽ
tương đối dễ dàng thay đổi tính chất của cuộc chiến tranh sang chiến
tranh hạt nhân.
Tuy nhiên, có một số hạn chế trong việc sử dụng vũ khí hạt
nhân, bao gồm nguy cơ leo thang, chi phí chính trị và các cân nhắc
về đạo đức.
Rủi ro leo thang không chắc chắn
Hạn chế vật chất quan trọng nhất trong việc sử
dụng vũ khí hạt nhân là nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh rộng hơn
với Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo Mỹ lo ngại rằng việc Mỹ xâm chiếm
miền Bắc Việt Nam hoặc việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở đó
có thể khiến Trung Quốc tham chiến. Chiến thắng trong cuộc chiến
chống lại Trung Quốc có thể đòi hỏi phải sử dụng vũ khí hạt nhân.
Trong một kịch bản xa xôi nhưng xấu nhất, điều này có thể kích động
Liên Xô tham chiến, mặc dù hầu hết các quan chức Mỹ đánh giá điều
này khó xảy ra. Do đó, Hoa Kỳ có thể buộc phải sử dụng vũ khí hạt
nhân trước tiên, với những hậu quả khó lường và có thể là thảm khốc.
Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo chính trị và quân
sự bất đồng gay gắt về những rủi ro leo thang như vậy trong suốt
cuộc chiến. JCS có xu hướng coi họ thấp hơn nhiều so với các nhà
lãnh đạo chính trị, và do đó sẵn sàng tán thành các chính sách hiếu
chiến hơn. Các tù trưởng cùng với các chỉ huy trên chiến trường luôn
vận động để mở rộng chiến tranh và dỡ bỏ những hạn chế trong giao
tranh như là cách duy nhất để đạt được chiến thắng. Vào ngày 22
tháng 1 năm 1964, họ nói với McNamara rằng Hoa Kỳ phải sẵn sàng gạt
bỏ nhiều hạn chế tự đặt ra hiện đang hạn chế hiệu quả của chúng ta
và thực hiện những hành động táo bạo hơn có thể chứa đựng những rủi
ro lớn hơn. Họ chủ trương một chiến dịch ném bom mạnh mẽ chống lại
miền Bắc Việt Nam và đưa lực lượng chiến đấu của Mỹ vào cả miền Bắc
và miền Nam Việt Nam. Đáp lại, McNamara chỉ đạo họ lập kế hoạch cho
một chiến dịch hành động bí mật và các cuộc tấn công trên không và
trên biển vào miền Bắc Việt Nam nhưng không bao gồm vũ khí hạt nhân.
JCS sau đó phàn nàn rằng nếu Trung Quốc tham gia chiến tranh thì có
thể cần đến vũ khí hạt nhân, và đệ trình một kế hoạch mà đỉnh điểm
là tấn công vào cơ sở sản xuất nguyên tử của Trung Quốc, nơi sẽ sản
xuất bom vào tháng 10 năm 1964. McNamara ban đầu cũng có lập trường
hung hăng tương tự về vấn đề này, nhưng sau đó thu nhỏ lại trước khi
trình lên Tổng thống.[26]
Cựu tổng thống Eisenhower, người đã kêu gọi tham vấn về Việt
Nam vào tháng 2 năm 1965, ngay trước quyết định cuối cùng ủng hộ
việc triển khai quân lớn đầu tiên của Mỹ, đã nhận thấy lựa chọn hạt
nhân là hoàn toàn hợp lý. Ông nói với Tổng thống Johnson và các cố
vấn cấp cao rằng ông nghĩ người Trung Quốc sẽ không tham chiến,
nhưng nếu họ làm vậy thì ông sẽ sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào được
yêu cầu, kể cả vũ khí hạt nhân nếu cần thiết. Ông khuyến nghị sử
dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trên tàu sân bay để trả đũa ngay
lập tức, gợi ý rằng chúng có thể được sử dụng trong các đội quân lớn
và các kho tiếp tế. Theo quan điểm của ông, điều này sẽ không làm
tăng cơ hội leo thang căng thẳng. Nhấn mạnh lợi ích của các mối đe
dọa răn đe, ông đề nghị đe dọa Trung Quốc bằng vũ khí hạt nhân.[27]
Hơn nữa, như đã làm trong Chiến tranh Triều Tiên, ông rõ ràng
ủng hộ việc thách thức điều cấm kỵ về việc sử dụng vũ khí hạt nhân
lần đầu tiên. Ông nói, Hoa Kỳ không nên bị ràng buộc bởi những hạn
chế của Chiến tranh Triều Tiên, bao gồm cả thỏa thuận của các quý
ông về việc không sử dụng vũ khí hạt nhân. Điều này sẽ giúp người
Trung Quốc đứng ngoài cuộc chiến.[28] Quan
điểm này được chia sẻ bởi lãnh đạo miền Nam Việt Nam, Tướng Nguyễn
Khánh, người đã nói với Rusk trong chuyến thăm của Rusk tới Đông Nam
Á vào tháng 4 năm 1964 rằng theo quan điểm của ông, Hoa Kỳ có thể sử
dụng bất cứ thứ gì họ muốn để chống lại Trung Quốc.[29] Háo hức mở
rộng chiến tranh ra miền Bắc, Khánh không phản đối việc sử dụng vũ
khí hạt nhân, đồng thời lưu ý trong một trường hợp khác rằng việc
ném bom nguyên tử một cách quyết liệt vào Nhật Bản đã cứu sống không
chỉ người Mỹ mà cả người Nhật.[30]
Tuyên bố của Eisenhower gợi ý rằng ông, giống như JCS, nhận
thấy có ít hạn chế vật chất đối với việc sử dụng vũ khí hạt nhân.
Ông tin rằng vũ khí hạt nhân sẽ hữu ích trên chiến trường, nhận thấy
rủi ro leo thang ở mức tối thiểu và không thể hiện mối lo ngại rõ
ràng nào về hậu quả lâu dài của việc sử dụng chúng. Ông không đưa ra
bất kỳ lời cảnh báo nào với Johnson và các cố vấn của ông. Theo quan
điểm của ông, hạn chế chính trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân là
một thỏa thuận mang tính chuẩn mực chính trị - mà ông chủ trương phá
bỏ. Có thể lập luận rằng ông là một vị tướng già không còn được nhắc
đến nữa, nhưng những tuyên bố của ông hoàn toàn nhất quán với những
tuyên bố ông đưa ra khi còn làm tổng thống. [31]
Ngoại trưởng Rusk tán thành khuyến nghị của Eisenhower về việc
tiến hành một chiến dịch gây áp lực chống lại miền Bắc Việt Nam, mặc
dù ông không chia sẻ quan điểm của Eisenhower về vũ khí hạt nhân.
Trong một bản ghi nhớ cá nhân mạnh mẽ gửi cho Tổng thống ngay sau
cuộc gặp với Eisenhower, ông viết, Mọi thứ có thể nên được thực hiện
để đẩy lùi cuộc xâm lược Hà Nội-Việt Cộng ngay cả khi có nguy cơ leo
thang lớn.[32] Tại cuộc họp của NSC vào tháng 5 năm 1964, Rusk đã đề
nghị chuyển một sư đoàn Mỹ ở Hàn Quốc tới Đông Nam Á và đưa ra tuyên
bố công khai rằng bất kỳ cuộc tấn công nào vào Hàn Quốc sẽ bị đáp
trả bằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân.[33] Ông tin rằng nếu sự leo
thang dẫn đến một cuộc tấn công lớn của Trung Quốc, thì nó cũng sẽ
liên quan đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân, một rủi ro mà ông sẵn
sàng chấp nhận. Nhưng giống như quân đội, Rusk cho rằng rủi ro leo
thang là thấp. Ông cho rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc là những
người thực tế, sẽ hành động thận trọng, một phần vì kho vũ khí hạt
nhân của Mỹ. Như ông đã lưu ý với Bộ trưởng Ngoại giao Romania vào
tháng 10 năm 1965, Xét cho cùng, năng lực hạt nhân của Trung Quốc
trong tương lai gần sẽ luôn ở mức tầm thường so với khả năng của Mỹ.
Tuy nhiên, Rusk phản đối mạnh mẽ việc ném bom gần biên giới Trung
Quốc, và, mặc dù ông nhận thấy mối đe dọa hạt nhân có tác dụng nào
đó, không giống như Eisenhower, ông không thực sự ủng hộ việc sử
dụng vũ khí hạt nhân.[35]
Quan điểm lành tính của quân đội về nguy cơ leo thang đặc biệt
đáng báo động đối với Thứ trưởng Ngoại giao George Ball, người lo
ngại về một cuộc chiến tranh trên bộ kéo dài với Trung Quốc, có thể
gây thương vong đáng kể cho Mỹ. Như ông đã viết trong một bản ghi
nhớ hoài nghi nổi tiếng về việc Mỹ tiến hành cuộc chiến với
McNamara, Bundy và Rusk vào tháng 10 năm 1964, Tại thời điểm này,
chúng ta chắc chắn sẽ phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng đối với
việc sử dụng ít nhất là vũ khí hạt nhân chiến thuật. Người dân Mỹ sẽ
không chấp nhận một lần nữa những thất vọng và lo lắng do chúng ta
không tham gia chiến tranh hạt nhân ở Triều Tiên. Ball lo lắng rằng
thực tế là không còn tình trạng thiếu đầu đạn hạt nhân phù hợp nữa
đã loại bỏ một hạn chế quan trọng về vật chất đối với hoạt động sản
xuất của họ.
Sử dụng. Việc hợp lý hóa việc rời bỏ sắc lệnh tự phủ nhận của
Hàn Quốc sẽ là vì chúng ta không có vũ khí hạt nhân trên chiến
trường vào năm 1950 nhưng chúng ta có chúng ngày nay.[36] Với tình
hình có nhiều hạt nhân và đánh giá lành tính của quân đội về hậu quả
của một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn hoặc việc sử dụng vũ khí hạt
nhân, Ball lo lắng rằng có rất ít hạn chế về quân sự hoặc vật chất
đối với việc phân tích các lựa chọn hạt nhân của quân đội.
Ball và những người khác nhạy cảm với rủi ro leo thang cũng lo
lắng về phản ứng không chắc chắn của Liên Xô trước việc Mỹ sử dụng
vũ khí hạt nhân. Ông viết trong bản ghi nhớ tháng 10 năm 1964, Mặc
dù không thể chắc chắn, nhưng nhận định tốt nhất là Liên Xô không
thể ngồi yên và để vũ khí hạt nhân được sử dụng chống lại Trung
Quốc.[37] Tương tự, trong một bản ghi nhớ dài gửi cho Johnson cùng
ngày với cuộc gặp với Eisenhower, Phó Tổng thống Hubert Humphrey,
người phản đối quyết định mở rộng chiến tranh năm 1965, đã cảnh báo
rằng nếu một cuộc chiến tranh với Trung Quốc bị loại trừ vào năm
1952-53 chỉ khi Nếu Hoa Kỳ đã có khả năng hạt nhân có thể sử dụng
được thì việc biện minh cho một cuộc chiến như vậy bây giờ sẽ càng
khó khăn hơn. Không ai thực sự tin rằng Liên Xô sẽ cho phép
chúng ta tiêu diệt Trung Quốc Cộng sản bằng vũ khí hạt nhân, vì vị
thế cường quốc thế giới của Nga sẽ bị suy giảm nếu nước này làm vậy.
Tuy nhiên, không giống như các cuộc khủng hoảng Chiến tranh
Lạnh trước đây, trong cuộc xung đột ở Việt Nam, các nhà lãnh đạo
quân sự Hoa Kỳ không nghĩ rằng chiến tranh với Liên Xô sắp xảy ra và
không hề nản lòng trong việc tiến hành chiến tranh vì lo ngại Liên
Xô sẽ tham gia chiến sự. Điều này là do sự chia rẽ Trung-Xô và sự
thù địch công khai giữa hai cường quốc cộng sản vào giữa những năm
1960, cùng với sự hòa hoãn tương đối giữa Hoa Kỳ và Liên Xô sau cuộc
khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962. Các ước tính tình báo chính thức
của Hoa Kỳ nhất quán tuyên bố rằng khó có khả năng Trung Quốc hoặc
Liên Xô sẽ can thiệp trừ khi Hoa Kỳ xâm chiếm miền Bắc Việt Nam bằng
một cuộc phô trương quân đội lớn, ném bom Trung Quốc hoặc tấn công
các tàu tiếp tế của Liên Xô tại cảng Hải Phòng. Ước tính tình báo
quốc gia đặc biệt ngày 9 tháng 10, 1964 tuyên bố rằng Chúng tôi gần
như chắc chắn rằng cả Hà Nội và Bắc Kinh đều lo lắng không tham gia
vào loại chiến tranh mà trong đó sức nặng lớn của vũ khí Mỹ có thể
được sử dụng để chống lại họ. Ngay cả khi Hà Nội và Bắc Kinh ước
tính rằng Mỹ sẽ không sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại họ, họ cũng
không thể chắc chắn về điều này….[40]
Đến giữa năm 1965, chính quyền tin rằng cam kết của Liên Xô
trong việc cải thiện quan hệ lâu dài với phương Tây được ưu tiên hơn
việc hỗ trợ cho miền Bắc Việt Nam. Vào mùa xuân năm 1965, sau khi
chiến dịch Sấm Rền bắt đầu, lãnh đạo Trung Quốc Chu Ân Lai đã ra tín
hiệu cho Washington thông qua người Pakistan và người Anh rằng lực
lượng Trung Quốc sẽ không can dự quân sự vào Việt Nam nếu Hoa Kỳ
kiềm chế xâm lược miền Bắc Việt Nam hoặc Trung Quốc và không ném bom
miền Bắc Việt Nam. Đê sông Hồng phía Bắc. Tuy nhiên, nếu chiến tranh
nổ ra, ngay cả vũ khí hạt nhân cũng không buộc họ phải rút lui, và
chiến tranh sẽ không có ranh giới.[41]
Tuy nhiên, Tổng thống Johnson đã quyết tâm, thậm chí bị ám
ảnh, với việc kiềm chế chiến tranh, một quan điểm được chia sẻ bởi
McNamara và những người khác, những người cho rằng ngay cả khi rủi
ro thực sự của một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn là thấp thì hậu quả
vẫn không thể chấp nhận được. Vấn đề là nguy cơ leo thang không kiểm
soát được, có thể dẫn đến những hậu quả thảm khốc. Johnson và các cố
vấn của ông, những người kỳ cựu trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba
năm 1962, đã cam kết hạn chế càng nhiều càng tốt khu vực địa lý của
cuộc xung đột và số lượng vũ lực được sử dụng. Đặc biệt, Johnson bị
ám ảnh bởi nỗi sợ hãi không ngừng về sự can thiệp của Liên Xô và
Trung Quốc.[42]
Tuy nhiên, mặc dù mối lo ngại leo thang đóng một vai trò nào
đó nhưng chúng vẫn chưa được xác định rõ ràng. Trong khi các nhà
lãnh đạo quốc gia rõ ràng muốn tránh leo thang có thể dẫn đến một
cuộc chiến tranh thông thường hoặc chiến tranh hạt nhân quy mô lớn,
các quan chức chính trị và quân sự hàng đầu lại không đồng tình mạnh
mẽ về những rủi ro và hậu quả của việc leo thang.[43] Trên thực tế,
nỗi lo sợ thất bại ở Việt Nam liên tục khiến những rủi ro leo thang
đáng kể có thể chấp nhận được. Vào ngày 9 tháng 2 năm 1965, McGeorge
Bundy viết cho Thượng nghị sĩ Mike Mansfield rằng chính quyền sẵn
sàng chấp nhận rủi ro chiến tranh với Trung Quốc, và ngụ ý sẵn sàng
hy sinh ít nhất tương đương với Chiến tranh Triều Tiên.[44] Mặc dù
các nhà lãnh đạo dân sự hàng đầu không ủng hộ hay ủng hộ việc sử
dụng vũ khí hạt nhân, và mặc dù McNamara sau này nhớ lại rằng mình
đã kinh hoàng trước quan điểm của JCS về vũ khí hạt nhân, vào những
thời điểm trong giai đoạn 1964-1965,
Mối quan tâm chính trị và quy chuẩn
Trước sự không chắc chắn và bất đồng về rủi ro leo thang,
những lo ngại chính trị và quy chuẩn về việc sử dụng vũ khí hạt nhân
có thể đã trở nên đặc biệt nổi bật, nếu không muốn nói là mang tính
quyết định, đối với nhiều quan chức hàng đầu. Giống như ở Triều
Tiên, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ lo ngại rằng, do sự ghê tởm của công
chúng thế giới đối với vũ khí hạt nhân thậm chí còn mạnh hơn cả
những năm 1950, việc sử dụng vũ khí như vậy trong cuộc xung đột ở
Việt Nam sẽ gây nguy hiểm cho vị thế lãnh đạo và đạo đức của Hoa Kỳ
trong mắt bạn bè và đồng minh, đặc biệt nếu Hoa Kỳ Các bang lại sử
dụng chúng với người châu Á. Trong một bản ghi nhớ gửi Tổng thống
Johnson, Thứ trưởng Ball viết: Sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại
người Trung Quốc rõ ràng sẽ gây ra những vấn đề chính trị sâu sắc
nhất. Việc sử dụng chúng không chỉ tạo ra những áp lực không thể
cưỡng lại được đối với sự can dự lớn của Liên Xô,
Thật vậy, các nhà lãnh đạo nước ngoài đã cảnh báo riêng tư và
công khai về việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Tưởng Giới Thạch, lãnh
đạo nước Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc, nói với Rusk trong
chuyến đi của Rusk tới Đông Nam Á vào tháng 4 năm 1964 rằng về
nguyên tắc ông phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân, đặc biệt là
trong việc giải quyết vấn đề Trung Quốc.[46] Trở về Washington, Rusk
báo cáo với NSC rằng ông rất ấn tượng trước tuyên bố đầy nhiệt huyết
của Tưởng rằng chiến tranh hạt nhân ở châu Á là sai lầm.[47] Việc
Tưởng phản đối sử dụng vũ khí hạt nhân chắc chắn một phần xuất phát
từ lo ngại của ông rằng Đài Loan sẽ là đối tượng rất có thể bị Trung
Quốc phản công, có thể áp đảo, và Tưởng cùng chế độ của ông ta sẽ
gặp nguy hiểm. Một tháng sau, tại Honolulu, Rusk lưu ý rằng nhiều
nhà lãnh đạo thế giới tự do sẽ phản đối việc [sử dụng vũ khí hạt
nhân] này. [48] Khi đại sứ Pháp tại Washington gợi ý với Rusk vào
tháng 7 năm 1964 rằng mối đe dọa hạt nhân có thể gây ảnh hưởng
nghiêm trọng nhất đối với người Trung Quốc, Rusk lại trả lời rằng
người châu Á, kể cả Tưởng Giới Thạch, phản đối mạnh mẽ việc sử dụng
vũ khí hạt nhân ở nước này. Châu Á.[49] Các nhà lãnh đạo nước ngoài
khác kêu gọi kiềm chế bao gồm U Thant, Tổng thư ký Liên hợp quốc,
Thủ tướng Lester Pearson của Canada và thủ tướng Anh Harold
Wilson.[50] Sự phản đối ngày càng tăng của công chúng đối với cuộc
chiến đã khiến các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ cảm thấy mất tinh thần trước
sự phẫn nộ của công chúng thế giới rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân
có thể gây ra. [49] Các nhà lãnh đạo nước ngoài khác kêu gọi kiềm
chế bao gồm U Thant, Tổng thư ký Liên hợp quốc, Thủ tướng Lester
Pearson của Canada, và thủ tướng Anh Harold Wilson.[50] Sự phản đối
ngày càng tăng của công chúng đối với cuộc chiến đã khiến các nhà
lãnh đạo Hoa Kỳ cảm thấy mất tinh thần trước sự phẫn nộ của công
chúng thế giới rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân có thể gây ra. [49]
Các nhà lãnh đạo nước ngoài khác kêu gọi kiềm chế bao gồm U Thant,
Tổng thư ký Liên hợp quốc, Thủ tướng Lester Pearson của Canada, và
thủ tướng Anh Harold Wilson.[50] Sự phản đối ngày càng tăng của công
chúng đối với cuộc chiến đã khiến các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ cảm thấy
mất tinh thần trước sự phẫn nộ của công chúng thế giới rằng việc sử
dụng vũ khí hạt nhân có thể gây ra.
Nhưng không chỉ mối quan tâm và sự ghê tởm của người khác mới
đóng vai trò quan trọng. Một điều cấm kỵ về hạt nhân đã trở nên cố
hữu trong giới quan chức cấp cao của chính quyền Kennedy và Johnson.
Đặc biệt, Tổng thống Johnson bị ám ảnh bởi việc hạn chế chiến tranh.
Giống như Truman trong Chiến tranh Triều Tiên, ông ghê tởm ý nghĩ
rằng mình có thể phải cân nhắc việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Hồi ký
của ông không đề cập đến việc xem xét sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt
Nam.[51] Các cố vấn cấp cao của ông đã chứng minh một cách mạnh mẽ
rằng ngay từ năm 1964, Johnson đã có suy nghĩ rõ ràng rằng ông sẽ
không ra lệnh sử dụng vũ khí hạt nhân lần đầu tiên ngoại trừ trường
hợp Liên Xô xâm lược mạnh mẽ ở châu Âu. Ông chưa bao giờ nêu ra với
những cố vấn này câu hỏi người dân Mỹ sẽ ủng hộ quyết định sử dụng
bom ở Việt Nam đến mức nào.[52]
Johnson đã lên tiếng mạnh mẽ trong chiến dịch tranh cử tổng
thống năm 1964 khi Thượng nghị sĩ Barry Goldwater, người vận động
tranh cử tổng thống của Đảng Cộng hòa vào tháng 5 năm 1964, đề xuất
trong một bài phát biểu rằng vũ khí hạt nhân chiến thuật nên được
đối xử giống như vũ khí thông thường hơn và chúng nên được sử dụng ở
Việt Nam. Tháng 10 trước đó, Goldwater đã khuyến nghị giao trách
nhiệm về các quyết định sử dụng vũ khí hạt nhân cho các chỉ huy quân
sự trên chiến trường trong một số trường hợp (Johnson, tiếp tục
chính sách của Eisenhower, đã giao một số quyền nhưng chỉ trong
những trường hợp rất hạn chế).[53] Trong một bài phát biểu tại
Detroit vào Ngày lễ Lao động năm 1964, Johnson đã phản đối mạnh mẽ
quan điểm của Goldwaters. Ông mô tả thảm họa của chiến tranh hạt
nhân và nói: Đừng nhầm lẫn. Không có thứ gọi là vũ khí hạt nhân
thông thường. Anh ấy tiếp tục:
Trong 19 năm đầy hiểm nguy, không quốc gia nào thả bom nguyên
tử để chống lại quốc gia khác. Làm như vậy bây giờ là một quyết định
chính trị ở mức cao nhất. Và nó sẽ dẫn chúng ta vào con đường không
chắc chắn của những đòn đánh và đòn phản công mà kết cục không ai có
thể biết được. Không có Tổng thống Hoa Kỳ nào có thể thoái thác
trách nhiệm về một quyết định như vậy. [54]
Việc đề cập đến 19 năm đầy rẫy hiểm nguy là một điều mạnh mẽ
và tuyên bố của Johnson nhấn mạnh cả truyền thống không sử dụng lẫn
nỗi lo sợ về sự leo thang không thể kiểm soát. Bundy sau này viết
rằng mặc dù có yếu tố chính trị trong bài phát biểu của Johnson
nhưng cũng có niềm tin sâu sắc.[55] Hai yếu tố dường như là chìa
khóa trong suy nghĩ của Johnson: tác động lâu dài của bất kỳ việc sử
dụng bom nào đối với sự tồn tại của năng lượng được cân nhắc một
cách thận trọng và mong muốn không trở thành tổng thống đầu tiên sau
20 năm sử dụng vũ khí hạt nhân, tức là phá vỡ truyền thống mạnh mẽ
về việc không sử dụng giờ đây đã trở thành một điều cấm kỵ. Johnson
không muốn trở thành tổng thống tạo tiền lệ cho việc sử dụng vũ khí
hạt nhân. Đối với ông, có vẻ như việc sử dụng bom ở Việt Nam thực sự
là điều không thể tưởng tượng được.
Nhiều cố vấn của Johnson, đặc biệt là Robert McNamara và Dean
Ruskal, đã có sẵn niềm tin vững chắc về vũ khí hạt nhân vào thời
điểm này. Các cuộc khủng hoảng Chiến tranh Lạnh ở Berlin và Lào
(1961) và tên lửa của Liên Xô ở Cuba (1962) đã buộc họ phải đối mặt
với khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân. Kinh hoàng trước học thuyết
hạt nhân của Eisenhower về việc trả đũa ồ ạt, Kennedy và các cố vấn
của ông đã tìm kiếm các kế hoạch chiến tranh linh hoạt hơn, trong đó
chú trọng nhiều hơn đến vũ khí thông thường. Hơn nữa, vào đầu những
năm 1960, một cuộc tranh luận nổi lên giữa nhóm các nhà phân tích
kiểm soát vũ khí dân sự non trẻ về giá trị của chính sách không sử
dụng đầu tiên đã bắt đầu thách thức logic của chính sách răn đe hiện
hành của Hoa Kỳ dựa trên mối đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân trước.[
56]
Dưới thời McNamara, Lầu Năm Góc bắt đầu sửa đổi Chính sách An
ninh Quốc gia Cơ bản (BNSP) của Eisenhower, nhưng quá trình này sa
lầy vào một số vấn đề nan giải, một trong số đó là câu hỏi khó hiểu
về việc khi nào, nếu có, vũ khí hạt nhân chiến thuật có thể được sử
dụng. Đó là một trong nhiều lý do tại sao chưa bao giờ có một BNSP
được thống nhất cuối cùng cho chính quyền Kennedy. Walt Rostow, một
người diều hâu đã đảm nhận quá trình sửa đổi kế hoạch khi ông trở
thành người đứng đầu Bộ phận hoạch định chính sách của Bộ Ngoại giao
vào năm 1962, nhận thấy vai trò của vũ khí hạt nhân chiến thuật là
một vấn đề khó giải quyết. Nó vẫn là một vấn đề nan giải chưa được
giải quyết vì sự khác biệt về quan điểm ở Lầu Năm Góc.[57] Do đó, dự
thảo BNSP chỉ đơn giản là đưa ra một tuyên bố về tình thế tiến thoái
lưỡng nan do vũ khí hạt nhân chiến thuật đặt ra: chúng cực kỳ quan
trọng trong vai trò ngăn chặn cuộc tấn công thông thường quy mô lớn
ở châu Âu và các nơi khác,
Sự phản đối ngày càng tăng đối với chính sách sử dụng vũ khí
hạt nhân chiến thuật phản ánh đáng kể quan điểm cá nhân của
McNamara. Ngay từ đầu trong nhiệm kỳ bộ trưởng quốc phòng, McNamara
đã phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân, coi chúng là phản cảm về
mặt đạo đức và thiếu tiện ích, những vấn đề mà ông thường cùng nhau
giải quyết. Ông đã kinh hoàng trước bản tóm tắt mà ông nhận được vào
đầu tháng 2 năm 1961, chỉ mới nhậm chức được hai tuần, từ Tướng
Thomas Power, tư lệnh Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược (SAC), về
SIOP-62, kế hoạch chiến tranh hạt nhân của Hoa Kỳ kế thừa từ
Eisenhower. sự quản lý. Nó kêu gọi một cuộc tấn công phủ đầu toàn
diện vào Liên Xô, Đông Âu và Trung Quốc, sử dụng sức nổ gấp một
triệu lần so với vụ nổ ở Hiroshima, để đáp lại một cuộc xâm lược
thực tế hoặc đơn thuần sắp xảy ra vào châu Âu của Liên Xô có liên
quan. không hề có vũ khí hạt nhân. [58] Hàng triệu người Trung Quốc
sẽ bị tiêu diệt mà không có lý do rõ ràng. Trở về Washington,
McNamara ra lệnh xem xét lại kho dự trữ hạt nhân, cuối cùng dẫn đến
việc đơn phương cắt giảm 50% trọng lượng dự trữ. Ông cũng ra lệnh
tăng cường khả năng phi hạt nhân để chống lại sự xâm lược thông
thường để Hoa Kỳ không bị buộc phải dựa vào vũ khí hạt nhân chiến
thuật.[59]
McNamara rõ ràng đã quyết định từ rất sớm rằng Hoa Kỳ không
bao giờ nên tấn công trước bằng vũ khí hạt nhân. Điều này đã được
làm rõ trong các tài liệu chính sách mà ông gửi cho chủ tịch JCS
ngay sau cuộc họp báo về kế hoạch chiến tranh khiến ông rất băn
khoăn.[60] Ông thường xuyên tuyên bố rằng ông đã khuyên riêng cả
Kennedy và Johnson đừng bao giờ bắt đầu sử dụng vũ khí hạt nhân, và
họ đã đồng ý.[61]
Daniel Ellsberg, một nhà lập kế hoạch của Lầu Năm Góc, người
không đồng tình với chủ trương mạnh mẽ của McNamara về việc ném bom
miền Bắc Việt Nam, và người sau này trở nên nổi tiếng vì làm rò rỉ
Hồ sơ Lầu Năm Góc cho báo chí, tuy nhiên, cảm thấy rằng McNamara
chia sẻ sự ghê tởm mạnh mẽ của cá nhân ông đối với vũ khí hạt nhân.
Nhớ lại cuộc gặp riêng với McNamara năm 1961, trong đó McNamara nói
một cách hết sức say mê về sự nguy hiểm của vũ khí hạt nhân và các
kế hoạch chiến tranh hạt nhân của Hoa Kỳ, Ellsberg viết rằng ngày
hôm đó ông đã gây ấn tượng mạnh mẽ và tích cực với tôi với niềm tin
chắc chắn rằng trong mọi trường hợp đều không được có cuộc chiến đầu
tiên. việc sử dụng vũ khí hạt nhân của Mỹ ở châu Âu. Anh ấy nói
thêm, tôi chưa bao giờ có cảm giác mạnh mẽ hơn ở người khác về nhận
thức sâu sắc về tình huống này và mức độ quan tâm của anh ấy để thay
đổi nó.[62] Sau cuộc họp, Trợ lý của McNamara nói với Ellsberg rằng
suy nghĩ của Johnson về chủ đề này không khác McNamaras một chút
nào. [63] Cuộc họp này diễn ra ngay cả trước cuộc khủng hoảng tên
lửa Cuba năm 1962, một sự kiện khiến McNamara nhận ra mối nguy hiểm
của sự leo thang không kiểm soát được.
Giống như McNamara, Dean Rusk, Ngoại trưởng của cả Kennedy và
Johnson, đều thấy vũ khí hạt nhân là điều ghê tởm. Với nền tảng về
luật pháp quốc tế, ông đã áp dụng cách tiếp cận mang tính nguyên tắc
mạnh mẽ đối với vấn đề ngoại giao và vai trò của Mỹ trên thế giới.
George Ball, người không đồng ý với quan điểm khá tích cực của Rusk
về cuộc chiến, tuy nhiên vẫn mô tả ông là một người có lòng chính
trực và lòng vị tha phi thường.[64] Theo Rusk, chúng tôi chưa bao
giờ cân nhắc nghiêm túc việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam. Ông
ủng hộ việc sử dụng vũ lực một cách hung hãn nhưng phản đối việc sử
dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam và các nơi khác vì rủi ro hậu quả,
chi phí chính trị, thiếu mục tiêu tốt ở Việt Nam, các lựa chọn thay
thế thông thường phù hợp, nhưng đặc biệt là vì việc giết hại thường
dân không thể chấp nhận được. [65] Rõ ràng là Rusk đã bị ấn tượng
bởi sự phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân mà anh gặp phải trong
các chuyến đi tới châu Á. Ông lưu ý rằng nhiều người châu Á dường
như nhìn thấy yếu tố phân biệt chủng tộc trong việc sử dụng vũ khí
hạt nhân. Đó có phải là điều mà Hoa Kỳ sẽ làm với người châu Á chứ
không phải với người phương Tây?[66] Sau đó, ông viết, “Trong mọi
trường hợp, tôi sẽ không tham gia vào lệnh tiến hành một cuộc tấn
công đầu tiên [hạt nhân], ngoại trừ một cuộc tấn công quy mô lớn
[của Liên Xô]”. ] cuộc tấn công thông thường vào Tây Âu,” điều mà
ông cho là khó xảy ra.[67] Mục đích hợp lý duy nhất của vũ khí hạt
nhân là đảm bảo rằng không ai khác sẽ sử dụng chúng để chống lại
chúng ta.[68] Đó có phải là điều mà Hoa Kỳ sẽ làm với người châu Á
chứ không phải với người phương Tây?[66] Sau đó, ông viết, “Trong
mọi trường hợp, tôi sẽ không tham gia vào lệnh tiến hành một cuộc
tấn công đầu tiên [hạt nhân], ngoại trừ một cuộc tấn công quy mô lớn
[của Liên Xô]”. ] cuộc tấn công thông thường vào Tây Âu,” điều mà
ông cho là khó xảy ra.[67] Mục đích hợp lý duy nhất của vũ khí hạt
nhân là đảm bảo rằng không ai khác sẽ sử dụng chúng để chống lại
chúng ta.[68] Đó có phải là điều mà Hoa Kỳ sẽ làm với người châu Á
chứ không phải với người phương Tây?[66] Sau đó, ông viết, “Trong
mọi trường hợp, tôi sẽ không tham gia vào lệnh tiến hành một cuộc
tấn công đầu tiên [hạt nhân], ngoại trừ một cuộc tấn công quy mô lớn
[của Liên Xô]”. ] cuộc tấn công thông thường vào Tây Âu,” điều mà
ông cho là khó xảy ra.[67] Mục đích hợp lý duy nhất của vũ khí hạt
nhân là đảm bảo rằng không ai khác sẽ sử dụng chúng để chống lại
chúng ta.[68]
Đây là những lời thừa nhận đáng chú ý của McNamara và Rusk.
Trên thực tế, các quan chức hàng đầu của Mỹ đã có những cam kết
riêng tư về việc không sử dụng vũ khí hạt nhân lần đầu, một phần vì
lý do đạo đức, mặc dù thực tế là những quan điểm đó mâu thuẫn trực
tiếp với chính sách răn đe chính thức của Mỹ dựa vào việc đe dọa sử
dụng vũ khí hạt nhân. (Chúng cũng mâu thuẫn với kế hoạch của Hoa Kỳ
về chiến tranh hạn chế, nhấn mạnh đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân
trước tiên trong cuộc xung đột với lực lượng lớn của Trung Quốc ở
châu Á). McGeorge Bundy sau đó viết rằng ông tin rằng McNamara và
Rusk sẽ từ chức nếu Tổng thống Johnson yêu cầu quyết định sử dụng
bom ở Việt Nam, và Johnson thầm đánh giá cao điều này.[69]
Bản ghi nhớ bóng năm 1964
Phân tích có hệ thống nhất về hậu quả của việc sử dụng vũ khí
hạt nhân ở Việt Nam là của Thứ trưởng Ball trong bản ghi nhớ tháng
10 năm 1964. Trong khi ông một lần nữa nêu lên nguy cơ can thiệp của
Liên Xô sau bất kỳ việc sử dụng vũ khí hạt nhân nào, điểm nhấn chính
của ông là về những hậu quả chính trị tiêu cực của bất kỳ việc sử
dụng nào như vậy. Toàn bộ đoạn văn dưới tiêu đề Áp lực sử dụng vũ
khí nguyên tử, hơn chục đoạn, được dành để đánh giá cái giá phải trả
về mặt chính trị đối với giới lãnh đạo Hoa Kỳ đối với bất kỳ việc sử
dụng bom nào. Không nơi nào ở đây ông đề cập đến nguy cơ trả đũa hạt
nhân hoặc leo thang thành một cuộc chiến tranh rộng hơn, cũng như
lợi ích quân sự của vũ khí hạt nhân, điều mà ông dường như cho rằng
(ngược lại, khi ông đề cập đến nguy cơ Liên Xô can thiệp để đáp trả
việc Mỹ sử dụng vũ khí hạt nhân). vũ khí hạt nhân,
Trong phân tích của mình, Ball lưu ý rằng trong mắt công chúng
thiếu sự phân biệt có ý nghĩa giữa vũ khí chiến thuật và vũ khí
chiến lược, cũng như cú sốc sâu sắc sẽ xảy ra sau bất kỳ việc sử
dụng vũ khí hạt nhân nào không chỉ ở Nhật Bản mà còn giữa các quốc
gia không phải da trắng ở mọi châu lục. Ông dự đoán rằng sự mất uy
tín của chúng ta ở các nước không liên kết và kém phát triển sẽ tăng
lên rất nhiều nếu chúng ta buộc phải sử dụng dù chỉ một loại vũ khí
hạt nhân.[70]
Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là phân tích về hậu quả của
việc hợp pháp hóa việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Ball viết rằng nếu
Hoa Kỳ sử dụng loại vũ khí đó,
…hành động của chúng ta sẽ giải phóng Liên Xô khỏi những ức
chế mà tình cảm thế giới đã áp đặt lên nước này. Nó sẽ làm đảo lộn
sự cân bằng mong manh giữa khủng bố mà phần lớn thế giới phải phụ
thuộc vào để duy trì hòa bình. Cho dù Liên Xô có thực sự sử dụng vũ
khí hạt nhân chống lại các quốc gia khác hay không, thì việc chúng
ta đưa ra lời biện minh cho việc sử dụng chúng sẽ tạo ra một làn
sóng sợ hãi mới…. Đảng Cộng sản chắc chắn sẽ chỉ ra rằng chúng ta là
quốc gia duy nhất từng sử dụng vũ khí hạt nhân. sử dụng vũ khí hạt
nhân trong cơn tức giận. Và Liên Xô sẽ nhấn mạnh vị trí ưu việt
tương đối của mình trong việc sở hữu một kho vũ khí hạt nhân mà họ
chưa bao giờ sử dụng.
Ông viết: “Hậu quả của việc này không thể phóng đại được”.
Việc Mỹ sử dụng bom lần đầu tiên sẽ cản trở tất cả những tiến bộ đạt
được trong quan hệ giữa các siêu cường trong vài năm trước đó. Nó
cũng sẽ tạo ra sự phẫn nộ trong nước đối với một Chính phủ đã đẩy
nước Mỹ vào tình thế một lần nữa buộc chúng ta phải sử dụng năng
lượng hạt nhân để làm mất uy tín của thế giới.[71]
Mối lo ngại của Ball về tiền lệ tiêu cực do việc sử dụng dù
chỉ một loại vũ khí hạt nhân đặt ra chủ yếu không phải vì nó chứng
tỏ rằng những vũ khí đó hữu ích về mặt quân sự hoặc nó sẽ mời gọi sự
trả đũa của Liên Xô. Đúng hơn, nó gợi ý rằng vũ khí hạt nhân là hợp
pháp. Nếu Mỹ sử dụng bom, Liên Xô sẽ thoải mái sử dụng nó để chống
lại các quốc gia khác. Hợp pháp hóa việc sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ
làm suy yếu sự hạn chế mang tính quy phạm lớn đối với việc sử dụng
chúng trong wara yếu tố ổn định chính của răn đe hạt nhân thành công
(cân bằng khủng bố). Nói cách khác, kỳ vọng mang tính quy chuẩn
chung về việc không sử dụng là một yếu tố thiết yếu chứ không phải
là giải pháp thay thế cho khả năng răn đe hạt nhân ổn định. Vì điều
này, quốc gia nào phá vỡ truyền thống không sử dụng vũ khí hạt nhân
sẽ bị các quốc gia kỳ thị là kẻ bị hạ đẳng.
Bản ghi nhớ của Balls — hoặc ít nhất là một phần của nó —
không được đón nhận nồng nhiệt. Rusk và McNamara hoàn toàn bác bỏ
câu hỏi của ông về lập luận của chính quyền về việc ném bom thông
thường vào miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, có vẻ như họ khá đồng tình
với lập luận của ông về vũ khí hạt nhân, về cơ bản phù hợp với quan
điểm riêng của họ.[72]
Lừa đảo hạt nhân
Tuy nhiên, có một số bằng chứng cho thấy các quan chức Mỹ
không hoàn toàn phản đối việc đưa ra các mối đe dọa hạt nhân. Vào
ngày 22 tháng 4 năm 1965, ngay sau đợt triển khai quân đội Mỹ đầu
tiên tới Việt Nam, và khi chính quyền Johnson đang chuyển trọng tâm
sang nỗ lực lớn hơn để giành chiến thắng trong cuộc chiến trên bộ,
McNamara đã đưa ra một cuộc họp báo không công khai cho các phóng
viên. Sau khi xem xét và bảo vệ chiến lược của Hoa Kỳ tại Việt Nam,
ông đã đưa ra một chiêu trò lừa bịp hạt nhân mới. Một phóng viên tờ
New York Times đã ghi lại lời của ông:
Chúng tôi KHÔNG tuân theo chiến lược công nhận bất kỳ khu bảo
tồn hoặc bất kỳ hạn chế vũ khí nào. Nhưng chúng tôi sẽ chỉ sử dụng
vũ khí hạt nhân sau khi áp dụng đầy đủ kho vũ khí phi hạt nhân. Nói
cách khác, nếu 100 máy bay không thể tiêu diệt được mục tiêu thì
chúng ta không nhất thiết phải sử dụng vũ khí hạt nhân; chúng tôi sẽ
thử 200 chiếc máy bay, v.v. Nhưng việc hạn chế sử dụng vũ khí hạt
nhân KHÔNG áp đảo. Thừa nhận nó sẽ là một bước tiến lớn. Trích dẫn:
Chúng tôi sẽ sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào mà chúng tôi cảm thấy
cần thiết để đạt được mục tiêu của mình, nhận ra rằng người ta phải
bù đắp bằng giá cả — và cái giá đó bao gồm tất cả các yếu tố tâm lý,
tuyên truyền, v.v. Ngoài ra còn ảnh hưởng đến những người vô tội.
Không thể tưởng tượng được trong hoàn cảnh hiện tại rằng điện hạt
nhân sẽ mang lại lợi ích ròng so với mức giá khủng khiếp phải trả.
Những nhận xét này đã gây xôn xao dư luận khi chúng xuất hiện
trên các mặt báo vào ngày 25 tháng 4, và McNamara đã sửa đổi công
khai nhận xét của mình vào ngày hôm sau. Ông nói, không có yêu cầu
quân sự nào đối với vũ khí hạt nhân trong tình hình hiện tại và có
thể thấy trước, và không có mục đích hữu ích nào có thể được phục vụ
bằng việc suy đoán về các tình huống bất ngờ từ xa.[74] Tuy nhiên,
như David Kaiser lưu ý, lời đe dọa ban đầu của ông không thể là ngẫu
nhiên.
Trong khi Eisenhower vẫn là người ủng hộ kiên định nhất về lợi
ích của các mối đe dọa hạt nhân, ngay cả McGeorge Bundy cũng đùa
giỡn với ý tưởng này. Trong một bản ghi nhớ gửi McNamara vào tháng 6
năm 1965 chỉ trích việc gia tăng quân đội Mỹ mà McNamara đang lên kế
hoạch, Bundy lưu ý đến các mối đe dọa hạt nhân của Eisenhower trong
Chiến tranh Triều Tiên và gợi ý rằng Hoa Kỳ ít nhất nên xem xét mối
đe dọa thực tế nào về hành động lớn hơn có sẵn cho chúng ta đối với
chúng ta. liên lạc với Hà Nội. Ông nói thêm, việc ngăn chặn hoàn
toàn nguồn cung cấp cho miền Bắc Việt Nam bằng đường hàng không và
đường biển có thể là một ứng cử viên cho tối hậu thư như vậy. Đây là
những vũ khí có thể hữu ích hơn cho chúng ta nếu chúng ta không cần
phải sử dụng đến chúng.[75] McNamara sau đó đã viết rằng ông không
chia sẻ quan điểm của Bundy về vũ khí hạt nhân và đe dọa sử dụng
chúng, mặc dù ông đã chia sẻ mọi thứ khác - một hồi ức có phần không
nhất quán với hành vi của ông vào thời điểm đó.
Trò lừa đảo hạt nhân có thể chính là điều Bundy đề xuất – một
chiến lược truyền đạt sự nghiêm túc tới Hà Nội và Moscow. Các nhà
lãnh đạo Liên Xô thực sự đã biết rằng các quan chức Mỹ đang cân nhắc
các lựa chọn hạt nhân, một viễn cảnh mà họ lo ngại nhất. Theo nhà sử
học Ilya Gaiduk, dựa trên các tài liệu mới có được của Liên Xô, vào
mùa hè năm 1965, các nhà lãnh đạo Liên Xô thường xuyên nhận được báo
cáo rằng Hoa Kỳ có thể sử dụng vũ khí hạt nhân để trấn áp cuộc nổi
dậy ở miền Nam Việt Nam. Vào tháng 6 năm 1965, tình báo Liên Xô
thông báo cho Điện Kremlin rằng trong cuộc trò chuyện với Ngoại
trưởng Ý Amintore Fanfani, Rusk đã thừa nhận rằng triển vọng sử dụng
vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Việt Nam nằm trong chương trình nghị
sự của các nhà hoạch định chính sách Mỹ.[78] Mặc dù không rõ mức độ
tin cậy của báo cáo hoặc ý nghĩa chính xác của chương trình nghị sự,
báo cáo rõ ràng đã thúc đẩy các nhà lãnh đạo Liên Xô xem xét nghiêm
túc câu hỏi về sự sẵn sàng tiến hành một cuộc chiến tranh hạt nhân
của Mỹ và ý định của chính quyền Johnson về vấn đề này.[79] Do đó,
dường như đã có một số hình thức đe dọa hạt nhân, ngay cả khi đó là
một trò lừa bịp.
Hiệu ứng cấm kỵ
Bất chấp những trò lừa bịp về hạt nhân, ngày càng rõ ràng
rằng, trái ngược với Hàn Quốc mười năm trước, việc sử dụng vũ khí
hạt nhân ở Việt Nam thực sự ngày càng không thể tưởng tượng được.
Việc thực hiện một điều cấm kỵ hạt nhân có thể được nhìn thấy theo
nhiều cách khác nhau. để làm xói mòn điều cấm kỵ, và thậm chí chống
lại việc phân tích các lựa chọn hạt nhân. Những diễn biến như vậy
phản ánh gánh nặng ngày càng tăng về bằng chứng cho bất kỳ việc sử
dụng vũ khí nào như vậy.
Các quan chức hàng đầu không chỉ phản đối việc sử dụng vũ khí
hạt nhân mà còn nhất quán với những suy nghĩ cấm kỵ, ngay cả việc
phân tích đơn thuần những loại vũ khí đó theo kiểu chi phí-lợi ích
bắt buộc mà chính quyền Kennedy nổi tiếng về cơ bản cũng là điều cấm
kỵ. Samuel Cohen, một nhà vật lý vũ khí tại Tập đoàn RAND, người đã
ủng hộ việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trong Chiến tranh
Triều Tiên và là một trong những người hiếm hoi đam mê lựa chọn như
vậy trong Chiến tranh Việt Nam, đã đi ngược lại tư duy cấm kỵ. Như
ông nhớ lại, bất cứ ai ở Lầu Năm Góc bị phát hiện đang suy nghĩ
nghiêm túc về việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong cuộc xung đột này
sẽ sớm bị bóp cổ. Mối quan hệ tốt đẹp trước đây của ông với các quan
chức Lầu Năm Góc đã giảm sút vì quan điểm ủng hộ vũ khí hạt nhân của
ông: Khi những người thuộc phe Kennedy bước vào, mối quan hệ của tôi
với Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng tụt xuống gần như bằng không.
Những người ở vị trí chủ chốt…không có ích gì cho quan điểm của
tôi.[80]
Trong các trò chơi chiến tranh của Lầu Năm Góc, chẳng hạn như
trò chơi được tổ chức vào tháng 9 năm 1964, để xác định xem liệu chỉ
riêng hỏa lực thông thường có thể ngăn chặn sự can thiệp của Trung
Quốc vào một cuộc chiến ở Đông Nam Á hay không, câu trả lời mà trò
chơi đưa ra có lẽ là không. Tuy nhiên, chỉ một số ít các nhà lãnh
đạo Mỹ trong trò chơi chiến tranh bỏ phiếu sử dụng vũ khí hạt nhân
để phá hủy các cơ sở sản xuất hạt nhân của Trung Quốc và thực hiện
một cuộc tấn công hạt nhân chung vào Trung Quốc.[81]
Một thách thức rõ ràng đối với điều cấm kỵ là nỗ lực được đề
cập trước đó của Goldwater trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm
1964 nhằm giới thiệu lại khái niệm về vũ khí hạt nhân thông thường -
cùng một khái niệm mà Eisenhower và Dulles đã tìm cách thúc đẩy
nhưng không thành công mười năm trước đó. Vào tháng 5 năm 1964,
Goldwater công khai lập luận rằng vũ khí hạt nhân lẽ ra phải được sử
dụng ở Điện Biên Phủ để làm rụng lá cây, và theo cách tương tự, vũ
khí nguyên tử năng suất thấp nên được sử dụng làm chất làm rụng lá
dọc biên giới miền Nam Việt Nam, cùng với việc mở rộng ném bom thông
thường. chiến dịch Bắc Việt. Ý tưởng này ngay lập tức bị Tổng thư ký
LHQ U Thant phản đối.[82] Chính quyền Johnson đã truy đuổi Goldwater
với tác động tàn khốc, chạy các chương trình truyền hình chống
Goldwater với chủ đề chống hạt nhân. [83] Lầu Năm Góc đáp lại sự
điên rồ của Goldwater bằng cách mô tả các đặc tính kỹ thuật của vũ
khí hạt nhân, cho rằng thật vô lý khi gọi chúng là vũ khí thông
thường. Goldwater khẳng định quân đội sở hữu vũ khí hạt nhân rất nhỏ
với sức nổ chỉ bằng một phần kiloton. Nhưng không có kết quả.
Johnson đáp lại bằng bài phát biểu nổi tiếng trong Ngày Lao động
rằng không có thứ gọi là vũ khí hạt nhân thông thường. McNamara sau
này đã viết về Goldwater, tuyên bố của ông ngụ ý rằng ông thấy không
có sự khác biệt thực sự giữa vũ khí thông thường và vũ khí hạt nhân.
Ông còn đi xa hơn khi đề nghị tổng thống nên hướng dẫn các chỉ huy ở
Việt Nam sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào trong kho vũ khí của chúng
ta. Tôi hoàn toàn không đồng ý và đã nói như vậy.[84] Goldwater
khẳng định quân đội sở hữu vũ khí hạt nhân rất nhỏ với sức nổ chỉ
bằng một phần kiloton. Nhưng không có kết quả. Johnson đáp lại bằng
bài phát biểu nổi tiếng trong Ngày Lao động rằng không có thứ gọi là
vũ khí hạt nhân thông thường. McNamara sau này đã viết về Goldwater,
tuyên bố của ông ngụ ý rằng ông thấy không có sự khác biệt thực sự
giữa vũ khí thông thường và vũ khí hạt nhân. Ông còn đi xa hơn khi
đề nghị tổng thống nên hướng dẫn các chỉ huy ở Việt Nam sử dụng bất
kỳ loại vũ khí nào trong kho vũ khí của chúng ta. Tôi hoàn toàn
không đồng ý và đã nói như vậy.[84] Goldwater khẳng định quân đội sở
hữu vũ khí hạt nhân rất nhỏ với sức nổ chỉ bằng một phần kiloton.
Nhưng không có kết quả. Johnson đáp lại bằng bài phát biểu nổi tiếng
trong Ngày Lao động rằng không có thứ gọi là vũ khí hạt nhân thông
thường. McNamara sau này đã viết về Goldwater, tuyên bố của ông ngụ
ý rằng ông thấy không có sự khác biệt thực sự giữa vũ khí thông
thường và vũ khí hạt nhân. Ông còn đi xa hơn khi đề nghị tổng thống
nên hướng dẫn các chỉ huy ở Việt Nam sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào
trong kho vũ khí của chúng ta. Tôi hoàn toàn không đồng ý và đã nói
như vậy.[84] Ông còn đi xa hơn khi đề nghị tổng thống nên hướng dẫn
các chỉ huy ở Việt Nam sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào trong kho vũ
khí của chúng ta. Tôi hoàn toàn không đồng ý và đã nói như vậy.[84]
Ông còn đi xa hơn khi đề nghị tổng thống nên hướng dẫn các chỉ huy ở
Việt Nam sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào trong kho vũ khí của chúng
ta. Tôi hoàn toàn không đồng ý và đã nói như vậy.[84]
Các tuyên bố của Goldwaters ủng hộ tính hợp pháp của vũ khí
hạt nhân - giống như của Eisenhower và Dulles trước đó - thể hiện nỗ
lực của công chúng nhằm thách thức điều cấm kỵ ngày càng tăng đối
với việc sử dụng chúng bằng cách làm xói mòn ranh giới giữa vũ khí
thông thường và vũ khí hạt nhân. Phản ứng mạnh mẽ của chính phủ và
công chúng đã minh họa cho quan điểm như vậy đối với hầu hết mọi
người. Chính quyền Johnson đã sử dụng cuộc tranh cãi để thu được lợi
ích chính trị, đánh vào nỗi lo sợ của công chúng về chiến tranh hạt
nhân. Nhưng phản ứng mạnh mẽ của nó cũng nhằm củng cố và duy trì
quan điểm được chia sẻ rộng rãi của công chúng cho đến thời điểm này
rằng vũ khí hạt nhân không phải là vũ khí thông thường và tái khẳng
định điều cấm kỵ. Những bình luận của Goldwater góp phần đáng kể vào
thất bại vang dội của ông.[85] Vào giữa những năm 1960, việc ủng hộ
việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong bài phát biểu tranh cử đã vượt
quá giới hạn chấp nhận được của hầu hết mọi người.
Điều tra và thách thức điều cấm kỵ
Như ở Hàn Quốc, những người không đồng tình với chính sách
chính thức cho rằng những lo ngại mang tính quy chuẩn đã ngăn cản
các nhà hoạch định chính sách suy nghĩ hợp lý về các lựa chọn hạt
nhân. Samuel Cohen, nhà khoa học vũ khí của RAND, đã cố gắng vô ích
để thu hút sự quan tâm của Washington đến lợi ích của việc phân biệt
đối xử vũ khí hạt nhân ở Việt Nam. Ông nhớ lại, tôi đã tập trung
nghiên cứu cách sử dụng vũ khí hạt nhân để ngăn chặn Việt Cộng.[86]
Lời kể của ông về những nỗ lực thúc đẩy các lựa chọn hạt nhân chiến
thuật trong chiến tranh, cũng như phân tích của ông về việc các nhà
hoạch định chính sách và các nhà khoa học phản đối lựa chọn này,
cung cấp một góc nhìn hấp dẫn về hoạt động của điều cấm kỵ.
Như ông nhớ lại sau này, trong bài thuyết trình về vũ khí hạt
nhân chiến thuật mà ông dành cho các nhà lập kế hoạch chủ chốt ở Bộ
Ngoại giao vào năm 1965, rõ ràng là dù khán giả của ông có tò mò đến
đâu từ quan điểm kỹ thuật thì họ vẫn kiên quyết phản đối việc phát
triển và sử dụng vũ khí hạt nhân. loại vũ khí này từ quan điểm chính
trị. Trong suốt cuộc nói chuyện, ông đã mô tả một số hệ thống vũ khí
giả định trong đó vũ khí hạt nhân hiệu suất thấp sẽ được sử dụng để
đẩy đạn kim loại hoặc trọng tải vũ khí thông thường khổng lồ. Trong
một ví dụ, vụ nổ hạt nhân sẽ diễn ra trên chiến trường nhưng sẽ chỉ
gây ra những tác động thông thường lên mục tiêu. Ông kỳ vọng rằng có
thể sẽ có một số người quan tâm đến những lựa chọn này, mà ông cho
rằng chúng hiệu quả và phân biệt đối xử hơn so với các cuộc tấn công
nổ mạnh tiêu chuẩn. Thay vào đó, phe đối lập vẫn nhất trí, vì lý do
đơn giản là bản chất của các hiệu ứng không thực sự được tính đến.
Đúng hơn, thực tế là một vụ nổ hạt nhân đang diễn ra trên khu vực
hoạt động của nhà hát.[87]
Bị thu hút bởi quan điểm chống hạt nhân, Cohen giờ đây đã cố
gắng tìm hiểu xem nó sâu sắc đến mức nào. Ông mô tả một thiết bị giả
định khác, một khẩu pháo nổ hạt nhân khổng lồ, nơi chất nổ có năng
suất rất thấp có thể bắn những trọng tải thông thường khổng lồ đi xa
hàng trăm dặm. Tác động quân sự của loại vũ khí hoàn toàn thông
thường sẽ chỉ được cảm nhận trên chiến trường, trong khi nguồn năng
lượng hạt nhân cần thiết để cung cấp những loại vũ khí này sẽ nằm ở
bên ngoài khu vực chiến trường. Khán giả của ông vẫn kiên quyết phản
đối và nhất trí rằng kế hoạch này cũng không thể chấp nhận được,
ngay cả khi vụ nổ hạt nhân xảy ra ở Hoa Kỳ. Những phản ứng này đã
gây ấn tượng với Cohen về cảm nhận sâu sắc của chính quyền đối với
việc quân đội sử dụng chất nổ hạt nhân. Đến bây giờ tôi nhận ra rằng
miễn là chất nổ hạt nhân được sử dụng trong cơn giận dữ, Hoa Kỳ
chính sách cho rằng loại chất nổ và vị trí địa lý của vụ nổ là hoàn
toàn không liên quan. Điểm mấu chốt là hành động kích nổ chất nổ
trong lúc tức giận là một điều cấm kỵ về mặt chính trị.[88]
Những vũ khí hư cấu của Cohen là một công cụ rõ ràng và khéo
léo để khám phá phạm vi và nội dung của điều cấm kỵ mà cá nhân ông
không chia sẻ. Quả thực, từ không thể tưởng tượng được ngày càng len
lỏi vào các cuộc thảo luận về vũ khí hạt nhân. Trong một bản ghi nhớ
ngày 12 tháng 9 năm 1967 gửi cho Walt Rostow, người đã thay thế
McGeorge Bundy làm cố vấn an ninh quốc gia, Robert Ginsburgh, cấp
phó của Rostow, đã liệt kê bảy biện pháp quân sự để đạt được tốc độ
tiến bộ ngoạn mục hơn trong cuộc chiến. Vụ cuối cùng là Tạo ra vùng
đất hoang với vũ khí hạt nhân hiệu suất thấp ở phía Nam miền Bắc
Việt Nam là điều hầu như không thể tưởng tượng được.[89]
Chiến tranh leo thang
Cả Bộ Tham mưu Liên quân và Tướng William Westmoreland, tư
lệnh Mỹ ở Việt Nam, đều thúc ép thực hiện một chương trình ném bom
đầy tham vọng hơn trong suốt năm 1966 và đến năm 1967. Họ vận động
để leo thang chiến tranh và tăng thêm quân vào năm 1966, sau vụ đánh
bom Giáng sinh năm 1965 bị chỉ trích nhiều. tạm dừng, và một lần nữa
vào cuối tháng 5 năm 1967. Trong một bản ghi nhớ gửi McNamara vào
ngày 20 tháng 5 năm 1967, các Tham mưu trưởng lập luận về việc tăng
cường các cuộc không kích vào miền Bắc Việt Nam, và bày tỏ niềm tin
của họ rằng các cuộc xâm lược Bắc Việt, Lào và Campuchia có thể trở
nên cần thiết, liên quan đến việc triển khai lực lượng Mỹ tới Thái
Lan, huy động quân dự bị và rất có thể là việc sử dụng vũ khí hạt
nhân ở miền nam Trung Quốc. Họ nhận ra rằng những hành động này có
thể dẫn đến đối đầu với Trung Quốc và/hoặc Liên Xô ở Đông Nam Á hoặc
các nơi khác, nhưng họ cho rằng những bước đi như vậy là cần thiết
để rút ngắn những gì họ dự đoán nếu không sẽ là thêm 5 năm chiến
tranh nữa.[90] McNamara sau đó mô tả rằng ông cảm thấy kinh hoàng
trước cách thức ung dung mà quân đội đề xuất các chính sách gây hấn,
theo quan điểm của ông, điều này gây ra những rủi ro không thể chấp
nhận được về chiến tranh với Trung Quốc, bao gồm cả việc Mỹ có thể
sử dụng vũ khí hạt nhân.[91]
Báo cáo Jason năm 1966
Nghiên cứu có hệ thống duy nhất được biết đến về vai trò của
vũ khí hạt nhân chiến thuật trong chiến tranh được thực hiện bởi bốn
nhà khoa học dân sự tư vấn cho chính phủ Hoa Kỳ với tư cách là thành
viên của JASON - một nhóm gồm khoảng 40 nhà khoa học trẻ đã gặp nhau
vào mùa hè hàng năm kể từ năm 1959 để xem xét việc phòng thủ- các
vấn đề liên quan đến Lầu Năm Góc.[92] Khi chiến tranh leo thang vào
mùa xuân năm 1966, một quan chức cấp cao của Lầu Năm Góc có cơ hội
tiếp cận với Tổng thống Johnson đã được một nhà khoa học nghe thấy
nói rằng: Thỉnh thoảng nên ném một quả bom hạt nhân vào, chỉ để giữ
cái còn lại. đoán phụ.[93] Freeman Dyson, một trong những tác giả
của báo cáo và là nhà vật lý tại Princeton, kể lại rằng điều này xảy
ra tại một cuộc họp giao ban tại Bộ Ngoại giao hoặc tại một bữa tiệc
không chính thức, trong khi Steven Weinberg, một nhà khoa học khác,
khi đó đang rời Berkeley tại Harvard, nhớ lại tin đồn lan truyền
rằng ai đó ở Lầu Năm Góc hoặc Hội đồng An ninh Quốc gia đang thúc
đẩy việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Việt Nam hoặc
Lào.[94] Hai người này - cùng với Robert Gomer và S. Courtenay
Wright, đều ở Chicago vào thời điểm đó - quá kinh hoàng trước tuyên
bố này nên họ quyết định phải làm gì đó.[95]
Lo ngại rằng vũ khí hạt nhân không phải là điều không thể
tưởng tượng được, các nhà khoa học đã xin phép Bộ Quốc phòng thực
hiện một nghiên cứu có hệ thống về những hậu quả có thể xảy ra khi
sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Việt Nam. Họ rõ ràng có ý định
chấm dứt mọi suy nghĩ còn sót lại rằng những vũ khí như vậy có thể
hữu ích trong chiến tranh. Trong khi bản ghi nhớ năm 1964 của Ball
nhấn mạnh đến hậu quả chính trị thì nghiên cứu này lại tập trung vào
lợi ích quân sự của vũ khí hạt nhân trong cuộc xung đột.
Nhóm đảm nhận nhiệm vụ này không đáp lại các kế hoạch hoặc mối
đe dọa chiến tranh hạt nhân cụ thể cũng như không đáp ứng yêu cầu từ
Lầu Năm Góc. Dyson sau đó viết rằng ông không có bằng chứng nào cho
thấy việc sử dụng vũ khí hạt nhân được xem xét nghiêm túc trong việc
truy tố Chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, anh ấy nói thêm, Chúng tôi
không có cách nào để biết người nói đang nói đùa hay nghiêm túc. Để
đề phòng anh ấy nghiêm túc, chúng tôi quyết định nghiên cứu.[96]
Tôi và tôi cũng tin những người khác, Weinberg viết sau này,
cảm thấy rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ khiến chiến tranh thậm
chí còn có sức tàn phá khủng khiếp hơn nó vốn đã trở thành; nó sẽ
tạo ra một tiền lệ khủng khiếp cho việc sử dụng vũ khí hạt nhân cho
mục đích khác ngoài mục đích răn đe; nó sẽ không giúp ích gì nhiều
cho chiến tranh; và nó sẽ mở ra khả năng tấn công hạt nhân vào các
căn cứ của chúng ta ở Việt Nam. Tất cả điều này là một phản ứng ngay
lập tức, không dựa trên bất kỳ phân tích cẩn thận nào. Vì vậy chúng
tôi quyết định thực hiện phân tích và viết báo cáo.[97]
Sau ba tháng làm việc, các tác giả đã tạo ra một báo cáo mật
có tiêu đề Vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Đông Nam Á, trình bày những
phân tích và kết luận của họ theo những gì Dyson sau này mô tả là
một phong cách quân sự cứng rắn có chủ ý. Phân tích nhằm chứng minh
rằng ngay cả từ quan điểm quân sự hẹp nhất, bất chấp mọi cân nhắc về
chính trị và đạo đức, việc sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ là một sai lầm
tai hại.[98]
Được giải mật gần đây, báo cáo dài 55 trang đưa ra bằng chứng
mạnh mẽ chống lại việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Việt
Nam.[99] Phân tích tập trung vào việc liệu có những mục tiêu phù hợp
ở Việt Nam cho việc sử dụng vũ khí hạt nhân một cách chiến thuật và
ảnh hưởng đến các hoạt động trên bộ của đối phương hay không. Nó xác
định việc sử dụng chiến thuật theo nghĩa chặt chẽ, tức là nhắm vào
các mục tiêu quân sự, chỉ trong phạm vi chiến trường trên bộ và đồng
thời tránh thương vong cho dân thường đến mức có thể. Các tác giả
giải thích lý do cho sự tập trung này là vì chúng tôi mong muốn tập
trung càng nhiều càng tốt vào lĩnh vực phân tích kỹ thuật quân sự và
tránh dính líu đến các phán xét chính trị và đạo đức.[100]
Phân tích nêu bật nhiều trở ngại quân sự đối với việc sử dụng
vũ khí hạt nhân một cách chiến thuật: khó khăn trong việc xác định
mục tiêu và thực tế là ngay cả khi tồn tại các mục tiêu tốt, việc sử
dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật sẽ không ảnh hưởng đáng kể đến hoạt
động của kẻ thù. Trong một số trường hợp, có những lựa chọn thay thế
hiệu quả hơn.
Báo cáo đã xác định nhiều mục tiêu mà về nguyên tắc, vũ khí
hạt nhân chiến thuật sẽ hữu ích. Cầu, sân bay và địa điểm tên lửa là
những mục tiêu TNW [vũ khí hạt nhân chiến thuật] lý tưởng.[101]
Các sân bay cũng là mục tiêu lý tưởng của TNW và là mục tiêu tốn kém
cho các cuộc ném bom thông thường. Việc áp dụng ném bom hạt nhân
chiến thuật sẽ nhanh chóng khiến mười sân bay đang hoạt động còn lại
ở miền Bắc Việt Nam không thể hoạt động được.[102] Các mục tiêu tiềm
năng khác là tập trung quân lớn, hệ thống đường hầm và các căn cứ
của Việt Cộng ở miền Nam Việt Nam. TNW có thể rất hiệu quả nếu vị
trí của các căn cứ được biết chính xác, đặc biệt nếu các cuộc tấn
công có thể được thực hiện mà không báo trước. Tuy nhiên, việc sử
dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở miền Nam Việt Nam sẽ “hữu ích
nhưng không mang tính quyết định. Nó sẽ tương đương với sự gia tăng
đáng kể sức mạnh của các cuộc oanh tạc B-52.
Ví dụ, sẽ cần 3000 vũ khí hạt nhân chiến thuật mỗi năm để ngăn
chặn các tuyến đường tiếp tế như đường mòn Hồ Chí Minh. Vấn đề hơn
nữa là lực lượng Mỹ có thể trở nên dễ bị tổn thương trước một cuộc
phản công do Liên Xô dàn dựng; và việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến
thuật lần đầu tiên chống lại quân du kích có thể tạo tiền lệ dẫn đến
việc quân du kích sử dụng vũ khí tương tự chống lại các mục tiêu dễ
bị tổn thương hơn của Hoa Kỳ.
Trên thực tế, báo cáo kết luận rằng có rất ít mục tiêu phù hợp
hoặc cách sử dụng hiệu quả. Việc sử dụng TNW vào các mục tiêu quân
đội sẽ chỉ có hiệu quả trong việc ngăn chặn kẻ thù di chuyển một
lượng lớn quân theo đội hình tập trung. Chừng nào kẻ thù còn di
chuyển quân theo nhóm nhỏ và sử dụng rừng che phủ, hắn sẽ đưa ra một
số mục tiêu quân sự phù hợp cho TNW. Sử dụng bom đạn dạng hộp sẽ
tiết kiệm chi phí hơn so với sử dụng vũ khí hạt nhân tấn công quân
đội ngoài trời.[104] Các căn cứ của Việt Cộng ở miền Nam Việt Nam có
thể bị phá hủy một cách hiệu quả bằng các cuộc tấn công hạt nhân
chiến thuật, nhưng điều này đòi hỏi số lượng lớn vũ khí và vị trí
chính xác của các mục tiêu bằng các cuộc tuần tra trên mặt đất.[105]
Vũ khí hạt nhân chiến thuật cũng có thể chặn các con đường và đường
mòn trong khu vực rừng rậm bằng cách đốn ngã cây cối, nhưng những
cây đổ có thể bị chặt và dọn sạch tương đối dễ dàng.
Cuối cùng, việc sử dụng bụi phóng xạ từ vũ khí nổ trên mặt đất
để khiến các con đường không thể vượt qua sẽ đòi hỏi phải sử dụng vũ
khí hạt nhân nhiều lần và bản thân nó sẽ không tạo ra rào cản lâu
dài cho việc di chuyển của con người và vật tư mà không gây nguy
hiểm cho dân thường ở khoảng cách lên tới 200 dặm. [106] Khi tiến
hành phân tích, các tác giả đã rút ra một phần những phát hiện từ
các nghiên cứu về trò chơi chiến tranh hạt nhân của RAND và Research
Analysis Corporation từ cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960,
cũng như các nghiên cứu OREGON TRAIL năm 1965, cho thấy những khó
khăn trong việc xác định mục tiêu quân đội kịp thời.
Nửa sau của báo cáo xem xét khả năng dễ bị tổn thương của lực
lượng Hoa Kỳ trước cuộc tấn công của quân nổi dậy được trang bị vũ
khí hạt nhân chiến thuật do Liên Xô hoặc Trung Quốc cung cấp. Các
căn cứ, bến cảng và khu vực đóng quân của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam
rất dễ bị máy bay ném bom của Liên Xô và quân du kích xâm nhập, đồng
thời sẽ là những mục tiêu hấp dẫn cho TNW [sử dụng để trả đũa]. Trên
thực tế, họ dễ bị tổn thương hơn nhiều trước việc sử dụng hiệu quả
vũ khí hạt nhân so với những nơi đóng quân nhỏ hơn, tương đối cơ
động và khó phát hiện của kẻ thù.
Ngoài ra, các tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng lâu dài của
việc tránh tạo tiền lệ cho việc lực lượng du kích sử dụng TNW. Họ
viết rằng lực lượng Hoa Kỳ sẽ luôn dễ bị tổn thương hơn nhiều so với
quân nổi dậy trước một cuộc tấn công hạt nhân.[107] Những mối nguy
hiểm do hoạt động du kích gia tăng trên khắp thế giới trong tương
lai chắc chắn sẽ trở nên gay gắt hơn nếu Mỹ dẫn đầu bằng việc khởi
động chiến tranh hạt nhân chiến thuật ở Đông Nam Á.[108]
Báo cáo đã đi đến một kết luận chắc chắn: kết quả tổng thể của
nghiên cứu của chúng tôi là xác nhận quan điểm chung rằng việc sử
dụng TNW ở Đông Nam Á sẽ không mang lại cho Mỹ lợi thế quân sự mang
tính quyết định nếu việc sử dụng vẫn đơn phương và nó sẽ gây bất lợi
mạnh mẽ về mặt quân sự. hiệu ứng nếu kẻ địch có thể sử dụng TNW để
đáp trả.[109]
Mặc dù ban đầu nghiên cứu tuyên bố rằng nó chỉ nhằm mục đích
phân tích kỹ thuật thuần túy, nhưng trên thực tế, nó bao gồm những
đánh giá mạnh mẽ về chi phí chính trị và hậu quả của việc sử dụng vũ
khí hạt nhân. Phần cuối cùng, Hậu quả Chính trị, liệt kê các kịch
bản có thể xảy ra trong đó phản ứng trước việc Mỹ sử dụng vũ khí hạt
nhân chiến thuật là leo thang, mặc dù phần này không ước tính xác
suất tương đối của các kịch bản này. Các tác giả lưu ý rằng kết quả
cuối cùng là không thể dự đoán được. Chúng tôi chỉ đơn thuần chỉ ra
rằng chiến tranh tổng quát có thể xảy ra, thậm chí từ việc sử dụng
NW ít mang tính khiêu khích nhất mà một trong hai bên có thể nghĩ
ra.[110]
Đáng kể nhất, họ kết luận rằng ngay cả khi không có kết quả
trả đũa lớn, việc Mỹ sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật lần đầu
tiên ở Việt Nam sẽ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng về lâu dài:
Điều quan trọng nhất trong số này có lẽ là việc vượt qua
ngưỡng hạt nhân. Như Herman Kahn đã chỉ ra, việc kiêng sử dụng bất
kỳ NW nào đều được công nhận rộng rãi như một ngưỡng chính trị và
tâm lý, cho dù sự phân biệt giữa hạt nhân và phi hạt nhân có thể hợp
lý hay phi lý đến đâu. Vượt qua nó có thể làm suy yếu đáng kể các
rào cản đối với việc phổ biến và sử dụng chung vũ khí hạt nhân. Đây
sẽ là bất lợi cuối cùng của Mỹ, ngay cả khi nó không làm tăng khả
năng xảy ra chiến tranh chiến lược.[111]
Các tác giả lập luận, dù Mặt trận Dân tộc Giải phóng Việt Nam
hay các đồng minh bên ngoài có phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân
của chính họ hay không, tác động của việc Mỹ sử dụng hạt nhân trước
đối với dư luận thế giới nói chung và các đồng minh của Mỹ nói riêng
sẽ vô cùng bất lợi. Ngoại trừ Thái Lan và Lào, phản ứng gần như chắc
chắn sẽ bị lên án ngay cả ở châu Á và có thể dẫn đến việc Nhật Bản
bãi bỏ các nghĩa vụ hiệp ước.[112] Ảnh hưởng đến dư luận ở Hoa Kỳ sẽ
cực kỳ gây chia rẽ, bất kể có bao nhiêu sự chuẩn bị trước đó. Tóm
lại, họ kết luận, những tác động chính trị của việc Mỹ sử dụng TNW
lần đầu ở Việt Nam sẽ rất xấu và có thể là thảm họa.[113]
Do đó, từ góc độ quân sự thuần túy, ngay cả khi vấn đề thu
thập mục tiêu có thể được giải quyết (và điều đó không rõ ràng), để
vũ khí hạt nhân chiến thuật có hiệu quả, chúng sẽ phải được sử dụng
với số lượng lớn (và với tần suất lớn như vậy) đến mức chi phí chính
trị sẽ lớn hơn lợi ích quân sự. Khi nguy cơ bị trả đũa được thêm
vào, cùng với nguy cơ vũ khí lan rộng sang lực lượng du kích trên
khắp thế giới, nó đã trở thành một lập luận mạnh mẽ phản đối việc sử
dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trong chiến tranh.
Báo cáo gây tò mò ở một số khía cạnh. Nó tập trung vào các
kịch bản mà vào thời điểm đó được nhiều người coi là khó xảy ra,
chẳng hạn như việc sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại quân nổi dậy.
Việc Liên Xô cung cấp vũ khí hạt nhân chiến thuật (báo cáo đề cập
đến súng cối nguyên tử hoặc súng không giật) cho lực lượng Bắc Việt
cũng là một kịch bản khó xảy ra, do Liên Xô kiểm soát vũ khí hạt
nhân chặt chẽ như thế nào. Hơn nữa, báo cáo không chú ý đến những gì
thực sự có trong kế hoạch chiến tranh hạt nhân của Mỹ đối với Đông
Nam Á vào giữa những năm 1960. Những đặc điểm khó hiểu này có lẽ có
thể được giải thích bởi hoàn cảnh thúc đẩy các nhà khoa học thực
hiện nghiên cứu (và Bộ Quốc phòng đồng ý với nó), sẽ được thảo luận
thêm dưới đây.
Khía cạnh thú vị cuối cùng của nghiên cứu là cách bốn nhà khoa
học, những người cho rằng vũ khí hạt nhân bị phản đối về mặt đạo
đức, đã nỗ lực đưa ra lập luận chống lại việc sử dụng vũ khí hạt
nhân theo thuật ngữ quân sự thuần túy, tin rằng điều này sẽ tăng
cường sự tiếp nhận của các nhà hoạch định và ra quyết định quân sự.
ở Lầu Năm Góc và CIA, những khán giả có khả năng nhất của nó. Như
Weinberg sau này đã mô tả, việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam
dường như là một ý tưởng khủng khiếp vì nhiều lý do đạo đức và luân
lý, nhưng cũng có thể là chính trị. Anh ấy giải thích thêm rằng Mặc
dù sự phản đối của tôi là về đạo đức và chính trị, nhưng tôi cũng
nghĩ rằng có khả năng người ta có thể tạo ra một trường hợp tốt từ
quan điểm quân sự thuần túy cứng rắn, nhưng tôi không biết. Do đó,
ông đã tham gia vào nghiên cứu với một số kỳ vọng rằng điều này sẽ
xảy ra. [114] Bản thân các tác giả coi báo cáo là đưa ra lời phê
bình mạnh mẽ về lợi ích của vũ khí hạt nhân trong chiến tranh. Bài
báo đó đưa ra tất cả các lý do tại sao bạn không sử dụng vũ khí hạt
nhân ở Việt Nam, một trong những tác giả của nó đã nhận xét trong
một cuộc phỏng vấn sau đó.[115]
Nghiên cứu có ảnh hưởng gì không?
Số phận của báo cáo này và vai trò của nó, nếu có, trong việc
ảnh hưởng đến suy nghĩ của chính quyền về vai trò của vũ khí hạt
nhân trong chiến tranh, vẫn còn mơ hồ. Các tác giả đã trao nó cho
các nhà tài trợ của họ ở Bộ Quốc phòng và không bao giờ nghe nói đến
nó nữa.[116] Tuy nhiên, Seymour Deitchman, lúc đó đang làm việc tại
Viện Phân tích Quốc phòng (IDA), một trung tâm nghiên cứu được liên
bang tài trợ theo hợp đồng với Bộ Quốc phòng, và thừa nhận trong báo
cáo, sau đó đã viết rằng báo cáo đã được gửi đến văn phòng của
McNamara. IDA cung cấp hỗ trợ hành chính và kỹ thuật cho nhóm JASON.
Deitchman nhớ lại những cuộc họp ngắn về các nghiên cứu của JASON
vào mùa hè năm đó với ba khán giả: chính các JASON, John McNaughton
sau đó là Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về các vấn đề An ninh Quốc tế,
người quản lý mối quan hệ của JASON với McNamara, và chính
McNamara.[117]
Deitchman nhớ lại rõ ràng cuộc họp báo về nghiên cứu vũ khí
hạt nhân với JASON. Tôi nhớ mình bị ấn tượng bởi kết luận chính rằng
nếu chúng tôi bắt đầu theo con đường đó [sử dụng vũ khí hạt nhân],
chúng tôi có nguy cơ bị tổn thương nhiều hơn Bắc Việt và Việt Cộng…
McNamara đã nhận được các báo cáo tóm tắt về nghiên cứu của JASON
hàng năm, và, theo Deitchman, có thể đã được thông báo ngắn gọn vào
cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9 năm 1966. Điều này có thể bao gồm một
cuộc họp ngắn về nghiên cứu vũ khí hạt nhân, mặc dù Deitchman không
nhớ chắc chắn. Theo Deitchman, sau cuộc họp giao ban, báo cáo chưa
bao giờ được lưu hành.
Vì Bộ Quốc phòng đã phải phê duyệt các chủ đề cho các nghiên
cứu của JASON (do chính JASON chọn), tại sao Bộ lại đồng ý nghiên
cứu về vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Việt Nam? Ở đây chúng ta chỉ có
những phác thảo mờ nhạt nhưng hấp dẫn. Deitchman nhớ lại cuộc nói
chuyện định kỳ quanh Lầu Năm Góc vào mùa xuân và mùa hè năm đó về
việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật để chặn các lối đi giữa Bắc
Việt Nam và Lào, đặc biệt là đèo Mụ Gia, một phần quan trọng của
tuyến đường tiếp tế hướng về phía Nam. Đèo này bị B-52 ném bom dữ
dội và không thành công bắt đầu từ tháng 7 năm 1966, gây tổn thất
nặng nề cho Hoa Kỳ. Vì vậy, khi JASON đề xuất chủ đề nghiên cứu vũ
khí hạt nhân, McNaughton và McNamara có thể đã thấy nó là một công
cụ hữu ích để chỉ ra ý tưởng tồi khi sử dụng vũ khí hạt nhân là gì.
Do đó, vẫn chưa rõ báo cáo có ảnh hưởng gì. Có vẻ như nó có ít
hoặc không ảnh hưởng gì đến bản thân McNamara vì ông đã kiên quyết
phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Vào thời điểm đó (1967), ông
cũng ngày càng nghi ngờ liệu có thể thắng cuộc chiến bằng cách triển
khai thêm quân vào miền Nam Việt Nam và tăng cường ném bom miền Bắc
Việt Nam (ông đã đề nghị từ chức với Johnson vào tháng 11 năm đó,
phần lớn là do vỡ mộng). với chiến tranh). Trong một cuộc phỏng vấn
sau đó, McNamara không nhớ cuộc nghiên cứu hay cuộc họp báo, nhưng
thừa nhận rằng cuộc họp báo có thể đã xảy ra. Ông nói rằng bản thân
ông không cần nghiên cứu như vậy, vì ông và trợ lý McNaughton đã
hoàn toàn phản đối vũ khí hạt nhân, nhưng điều đó không có nghĩa là
nó không hữu ích.[118]
Chẳng hạn, nó có thể đã giúp ông chấm dứt những cuộc nói
chuyện lỏng lẻo về các lựa chọn hạt nhân. Khi Deitchman trở lại Lầu
Năm Góc vào mùa thu năm 1966, ông không nghe nói gì thêm về việc sử
dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam. Ông nhớ lại, mặc dù tôi không biết,
nhưng tôi nghĩ thật hợp lý khi kết luận rằng, nếu ý tưởng đó đã được
xem xét trước khi nghiên cứu, thì ông McNamara chỉ đơn giản bác bỏ
nó như một điều gì đó không cần phải suy nghĩ nghiêm túc, và do đó
cuộc nói chuyện chỉ đơn giản là đã đi xa.
Khe Sanh
Nỗ lực duy nhất của chính quyền Johnson nhằm xem xét kỹ hơn
lợi ích quân sự của vũ khí hạt nhân nhằm giải tỏa cuộc vây hãm lực
lượng Thủy quân lục chiến đồn trú tại Khe Sanh vào đầu năm 1968 đã
nhanh chóng bị hủy bỏ trong cơn ác mộng về quan hệ công chúng. Đây
có lẽ là thời điểm có nguy cơ nghiêm trọng nhất mà JASON dự đoán.
Bằng chứng mới cho thấy các quan chức chính quyền hàng đầu đã thảo
luận về chủ đề này tại một số cuộc họp trong những ngày quan trọng
căng thẳng cuối tháng 1 và đầu tháng 2 năm 1968, mặc dù với giọng
điệu hết sức miễn cưỡng.[119] Johnson nói rõ rằng ông không muốn đối
mặt với quyết định sử dụng vũ khí hạt nhân và liên tục tìm kiếm sự
đảm bảo từ các nhà lãnh đạo quân sự rằng họ có đủ lực lượng thông
thường để bảo vệ Khe Sanh.
Trong một bản ghi nhớ gửi Tướng Wheeler vào ngày 31 tháng 1
năm 1968, Robert Ginsburgh, Phó Walt Rostows trong Hội đồng An ninh
Quốc gia và là người liên lạc của nó với JCS, đã lưu ý rằng nếu tình
thế tuyệt vọng phát triển ở Khe Sanh, nơi 6000 lính thủy đánh bộ bị
bao vây bởi 15.000-20.000 quân. Quân Bắc Việt, vấn đề TAC NUCS sẽ
được nêu ra. Ginsburgh hỏi Wheeler liệu việc phân tích mục tiêu dự
phòng có phù hợp hay không. Chữ viết tay trên bản ghi nhớ là những
ghi chú rằng các kế hoạch cần phải được giữ rất rất chặt chẽ.[120]
Ginsburgh và Rostow rõ ràng đã thảo luận về vấn đề này được khoảng
một tuần.[121]
Ngày hôm sau, Wheeler trưng cầu ý kiến của Tướng
Westmoreland và Đô đốc Ulysses Sharp, các chỉ huy Mỹ tại Việt Nam,
về việc có nên sử dụng vũ khí hạt nhân nếu tình hình trở nên tuyệt
vọng. Lưu ý đến những điểm tương đồng giữa Khe Sanh và Điện Biên
Phủ, ông hỏi liệu có những mục tiêu phù hợp cho các cuộc tấn công
hạt nhân hay không, liệu một số kế hoạch dự phòng có thể phù hợp hay
không và những gì bạn cho là một số ưu và nhược điểm quan trọng hơn.
Ông cảnh báo họ phải giữ chủ đề này thật chặt chẽ.[122] Westmoreland
và Sharp rõ ràng đã thảo luận về sự cần thiết phải lập kế hoạch cho
vấn đề này và đã thiết lập nó theo cơ sở cần biết nghiêm ngặt nhất,
Sharp viết lại vào ngày hôm sau.
Theo yêu cầu, Westmoreland bắt đầu triệu tập một nhóm nghiên
cứu bí mật để phân tích các phương án hạt nhân. Nhưng gần như ngay
lập tức Washington đã dập tắt nó vì sợ quá muộn rằng nó sẽ bị rò rỉ
ra báo chí. Các cố vấn chính trị của Johnson đã đảo ngược hướng đi,
nhanh chóng ngăn chặn mọi yêu cầu về giải pháp hạt nhân từ Công ty
Cổ phần bằng cách đảm bảo rằng Westmoreland có tất cả các lực lượng
thông thường mà ông ta cần để bảo vệ Khe Sanh. Rostow đề nghị trong
một bản ghi nhớ gửi tổng thống vào ngày 2 tháng 2 rằng Westmoreland
sẽ được cung cấp thêm một sư đoàn dự bị, giải thích mong muốn của
ông là tránh tình trạng khủng hoảng chiến trường trong đó Westy và
JCS sẽ yêu cầu bạn giải phóng vũ khí hạt nhân chiến thuật. Ông cũng
thúc giục Tướng Wheeler được thông báo rằng nhiệm vụ của ông là giảm
thiểu khả năng các Cảnh sát trưởng nêu ra vấn đề hạt nhân.[125]
Trong một bản ghi nhớ ngày hôm sau, Tướng Wheeler tìm cách
trấn an tổng thống, viết rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân là không
cần thiết trong tình hình hiện tại. Nhưng ông không loại trừ họ. Nếu
tình hình ở khu vực DMZ thay đổi đáng kể, chúng ta nên chuẩn bị sử
dụng các loại vũ khí có hiệu quả cao hơn để chống lại lực lượng đông
đảo. Trong hoàn cảnh như vậy, tôi hình dung rằng vũ khí hạt nhân
chiến thuật hoặc tác nhân hóa học sẽ là những ứng cử viên tích cực
cho việc sử dụng.[126] Trong một bản ghi nhớ gửi cho Johnson cùng
ngày, dường như được thúc đẩy bởi những gợi ý trên báo chí và các bộ
phận khác của chính phủ rằng việc cân nhắc cấp cao về vũ khí hạt
nhân đang được tiến hành, Rostow đã xin lỗi về sai lầm của mình khi
nêu vấn đề với Tướng Wheeler và các chỉ huy, điều này vô tình tạo ra
ấn tượng rằng chính phủ đang nghĩ đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân.
Ông giải thích rằng ông chưa bao giờ có ý định thực hiện bất kỳ công
việc chính thức nào của nhân viên về vấn đề hạt nhân, đồng thời nói
thêm rằng lỗi là của tôi.[127]
Nói cách khác, không những không nên sử dụng vũ khí hạt nhân
mà thậm chí còn không nên nghiên cứu các lựa chọn hạt nhân. Không
được phép phân tích, thậm chí không được phép xuất hiện. Những phẩm
chất cấm kỵ nổi lên rõ rệt ở đây một điều gì đó không được làm,
không được nói, không được phân tích, không được nghĩ đến. Ngay cả
Walt Rostow cũng không được phép phân tích vấn đề. Johnson sau đó
rất tức giận vì sự vô trách nhiệm trong kế hoạch sử dụng vũ khí hạt
nhân của chúng tôi.[128]
Westmoreland, một người luôn ủng hộ việc sử dụng lực lượng lớn
hơn ở Việt Nam, đã viết trong hồi ký của mình rằng ông cho rằng việc
xem xét các lựa chọn hạt nhân chiến thuật tại Khe Sanh là một ý
tưởng thận trọng. Khu vực xung quanh Khe Sanh hầu như không có người
ở nên thương vong dân sự sẽ ở mức tối thiểu. Ông thấy sự tương đồng
với việc sử dụng bom nguyên tử trong Thế chiến thứ hai để gửi thông
điệp tới Nhật Bản, cũng như vai trò của các mối đe dọa hạt nhân của
Mỹ đối với Triều Tiên mà nhiều người cho rằng đã chấm dứt Chiến
tranh Triều Tiên. Ông viết rằng việc sử dụng một số loại vũ khí hạt
nhân chiến thuật nhỏ ở Việt Nam hoặc thậm chí là mối đe dọa về vũ
khí hạt nhân đã nhanh chóng đưa cuộc chiến ở đó kết thúc. Nếu các
quan chức Washington có ý định gửi một thông điệp tới Hà Nội thì
chắc chắn vũ khí hạt nhân chiến thuật cỡ nhỏ sẽ thực hiện được điều
này một cách hiệu quả. Westmoreland vào thời điểm đó và thậm chí còn
cảm thấy mạnh mẽ hơn sau đó rằng việc không xem xét giải pháp thay
thế hạt nhân là một sai lầm.
Bất chấp những nỗ lực của chính quyền, những tin đồn rằng họ
đang dự tính sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Việt Nam vẫn lan
truyền, và kết quả là sự phản đối kịch liệt của công chúng đã minh
họa cho tính cực kỳ nhạy cảm của vấn đề này. Khi Thượng nghị sĩ
Eugene McCarthy, người vận động tranh cử tổng thống, công khai vấn
đề này vài ngày sau đó, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã kịch liệt phủ
nhận việc vũ khí hạt nhân đang được xem xét. [130] Tướng Wheeler nói
với một tiểu ban Thượng viện rằng ông không nghĩ vũ khí hạt nhân là
cần thiết để phòng thủ Khe Sanh, nhưng nếu có phát triển, JCS sẽ đề
nghị với Tổng thống Johnson rằng chúng nên được sử dụng.[131] Vào
ngày 9 tháng 2, khi điều trần trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện,
Rusk phủ nhận sự tồn tại của bất kỳ kế hoạch sử dụng hoặc dự trữ vũ
khí hạt nhân nào ở Việt Nam, nhưng không loại trừ hoàn toàn. Thượng
nghị sĩ Fulbright, Chủ tịch Ủy ban cùng với Thượng nghị sĩ Clark và
Aiken đã lên án khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân.[132] Cuộc điều tra
của Quốc hội được thúc đẩy một phần bởi những suy đoán về lý do cử
bốn nhà khoa học hạt nhân đến Việt Nam. Trên thực tế, các nhà khoa
học đã được cử đi nghiên cứu hàng rào điện tử tuyến McNamara nhằm
ngăn chặn sự xâm nhập của Bắc Việt qua khu phi quân sự ngăn cách hai
nước Việt Nam.[133] Chuyến đi của họ không liên quan gì đến vũ khí
hạt nhân. Thủ tướng Anh Harold Wilson, trong chuyến thăm Washington
trong cuộc tranh luận này, đã thẳng thắn nói trong cuộc phỏng vấn
trên chương trình Face the Nation của CBS rằng việc Hoa Kỳ sử dụng
vũ khí hạt nhân chiến thuật là một điều hết sức điên rồ. Ông nói, nó
không chỉ là một thảm họa đối với vị thế của Mỹ mà còn có tác động
rất nghiêm trọng.
Tuy nhiên, một số nhân vật của công chúng đã kêu gọi sử dụng
vũ khí hạt nhân. Đại diện Wayne Hays, một thành viên của Ủy ban Đối
ngoại Hạ viện, không đồng tình với những người chỉ trích, nói rằng,
Thay vì phải chịu một thất bại thảm hại và sự tiêu diệt một số lượng
đáng kể lực lượng của chúng ta, tôi nghĩ chúng ta sẽ thật ngu ngốc
và hoàn toàn ngu ngốc nếu tham gia. vị trí đó (Khe Sanh) và không sử
dụng chúng.[135] Nghị sĩ Charles Bennett kêu gọi sử dụng mọi lực
lượng cần thiết để giành chiến thắng trong cuộc chiến, kể cả việc đe
dọa hoặc sử dụng vũ khí nguyên tử và xâm lược miền Bắc Việt Nam nếu
cần thiết.[136]
Trong thông cáo báo chí ngày 9 tháng 2 và một lần nữa trong
cuộc họp báo một tuần sau đó, Tổng thống Johnson phủ nhận mạnh mẽ
rằng ông đã nhận được bất kỳ yêu cầu nào từ các cố vấn quân sự hoặc
chính trị của mình về việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam. Ông
nhấn mạnh rằng mọi quyết định sử dụng vũ khí hạt nhân đều thuộc về
Tổng thống. Ông nói, trong bảy năm làm việc tại Cơ quan Hành pháp,
không có khuyến nghị nào được đưa ra cho tôi về việc triển khai vũ
khí hạt nhân. Ngoài ra, tôi nghĩ chúng ta nên chấm dứt cuộc thảo
luận.[137] Thư ký báo chí George Christian nói rõ rằng chính quyền
Johnson rất buồn vì câu hỏi về vũ khí hạt nhân đã được nêu ra. ông
nói rằng thảo luận và suy đoán vô trách nhiệm là có hại cho đất
nước.[138]
Sự phủ nhận dứt khoát của Johnson có lẽ hơi quá đáng, vì vấn
đề vũ khí hạt nhân đã được thảo luận tại bữa trưa thứ Ba thường kỳ
tại Nhà Trắng giữa các bộ trưởng quốc phòng và ngoại giao, tổng
thống và Tướng Wheeler.[139] Đúng là tổng thống chưa nhận được bất
kỳ yêu cầu nào về việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, anh chưa
nhận được sự đảm bảo chắc chắn từ JCS rằng họ sẽ không bao giờ đưa
ra yêu cầu như vậy; các chỉ huy quân sự đã không thể đưa ra sự đảm
bảo dứt khoát cho Johnson rằng Khe Sanh có thể được giữ vững mà
không cần vũ khí hạt nhân, trong điều kiện thời tiết xấu cản trở sự
yểm trợ bằng đường không thông thường.
Sau khi các nhà khoa học nổi tiếng George Killian, George
Kistiakowsky và II Rabi bày tỏ mối quan ngại trong một bức điện gửi
cho Eisenhower về khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam,
McNamara đã gọi điện riêng cho từng người trong số họ để đảm bảo với
họ rằng không có sự cân nhắc nào về việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Họ
đã được truyền cảm hứng để viết một phần bởi một bài báo trong đó
Eisenhower được cho là đã để ngỏ cho việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở
miền Nam Việt Nam.[140] Mặc dù Eisenhower không còn là tổng thống
nữa, nhưng thành tích của ông với tư cách là một vị tướng xuất sắc
đã khiến quan điểm của ông về các vấn đề quân sự trở nên có sức
nặng.
Nhìn chung, trong cuộc khủng hoảng Khe Sanh, các nhà lãnh đạo
chính trị đã thể hiện mối quan tâm lớn hơn nhiều và dành nhiều thời
gian hơn để xử lý khía cạnh quan hệ công chúng của vũ khí hạt nhân
so với lợi ích thực tế của chúng tại Khe Sanh. Như một bài báo của
Washington Post đã đưa ra, các chuyên gia vũ khí của Lầu Năm Góc cho
rằng các vấn đề kỹ thuật cũng lớn gần như các vấn đề chính trị trong
việc sử dụng vũ khí hạt nhân.[141] Nói cách khác, những hạn chế về
chính trị đã đặt ra trở ngại lớn hơn cho quyền tự do sử dụng vũ khí
hạt nhân so với những khó khăn về mặt kỹ thuật trong trường hợp này,
chủ yếu là bụi phóng xạ. Ngày 9 tháng 3, tờ Washington Post đăng bài
xã luận rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam sẽ là một thảm
họa.[142] Khi các quan chức chính quyền Johnson gặp nhóm cựu quan
chức cấp cao Wise Mena để tư vấn về các lựa chọn quân sự của Hoa Kỳ
tại Việt Nam một tháng sau, vào ngày 25 tháng 3, để đưa ra quyết
định về nỗ lực chiến tranh thất bại sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân,
bài học hạt nhân ở Khe Sanh có thể đã được phản ánh. Từ chối yêu cầu
thêm 200.000 quân, họ cũng kết luận, mà không cần thảo luận rõ ràng,
rằng việc sử dụng vũ khí nguyên tử là điều không thể tưởng tượng
được.[143]
Chính quyền đã đảm bảo rằng Westmoreland có đủ lực lượng thông
thường để bảo vệ Khe Sanh. Trận chiến diễn ra ở đó, theo cách nói
của Westmoreland, là một màn trình diễn hỏa lực đáng kinh ngạc; xét
tới khả năng ném bom của những chiếc B-52, một trong những chiếc
nặng nhất và tập trung nhất trong lịch sử chiến tranh.[144] Những
chiếc B-52 cuối cùng đã thả hơn 100.000 tấn thuốc nổ xuống một chiến
trường rộng 5 dặm vuông.[145] Theo yêu cầu của Westmorelands,
Johnson đã cho phép sử dụng cái gọi là bom phân mảnh có kiểm soát
(COFRAM), đạn pháo và lựu đạn, một số có chứa đạn con, phát nổ với
hiệu ứng rất nguy hiểm. Thông tin về sự tồn tại và sử dụng loại vũ
khí này được bảo vệ chặt chẽ nhất có thể.[146]
Dư luận
Ngay cả trước con số thương vong ngày càng tăng của người Mỹ ở
Việt Nam, dư luận vẫn phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong
chiến tranh. Dư luận Mỹ luôn phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân
lần đầu tiên kể từ giữa những năm 1950. Số lượng cuộc thăm dò vừa
phải về chủ đề này trong Chiến tranh Việt Nam cho thấy rằng, xét về
mặt dư luận, việc cấm sử dụng lần đầu vẫn tồn tại trong chiến tranh,
ngay cả khi thương vong của người Mỹ ngày càng gia tăng.[147]
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến (1964-66), chỉ có sự ủng hộ
hạn chế cho việc sử dụng vũ khí hạt nhân, khoảng 15% chấp thuận thực
hiện bước đi như vậy. Khi chiến tranh tiếp tục, tỷ lệ ủng hộ sử dụng
vũ khí hạt nhân tăng lên 24% và sau đó lên 42%.[148] Nhưng về một
câu hỏi được đặt ra cả trước và sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân mùa
đông 1968 về việc sử dụng vũ khí nguyên tử trên mặt đất, một cuộc
thăm dò của Harris đã tìm thấy câu trả lời giống nhau trong cả hai
trường hợp: khoảng 25% ủng hộ, 55% phản đối. Khi câu hỏi được diễn
đạt gay gắt hơn, liệu người trả lời sẽ đồng ý hay không đồng ý với
quan điểm cho rằng chúng ta nên dốc toàn lực để giành chiến thắng
quân sự ở Việt Nam, sử dụng bom nguyên tử và vũ khí, khoảng 26% tán
thành và cao hơn câu hỏi về vũ khí mặt đất của Harris. , khoảng 65
phần trăm không tán thành.[149]
Vì vậy thái độ ủng hộ sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam chưa
bao giờ đạt được số đông hoặc đa số. Công chúng không chỉ phản đối
phần lớn việc sử dụng vũ khí hạt nhân mà vào cuối cuộc chiến, một
cuộc khảo sát với các nhà lãnh đạo ưu tú cho thấy họ cũng phản đối
việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Hơn nữa, như Thomas Graham đã báo cáo,
một cơ sở câu hỏi khảo sát đa dạng hơn cho thấy điều cấm kỵ không
chỉ áp dụng cho Việt Nam mà còn cho các đề xuất sử dụng vũ khí hạt
nhân khác, cho thấy bản chất chung hơn của quan điểm.[150] Kiểu thái
độ của công chúng này (ban đầu mức độ ủng hộ thấp, sau đó cao hơn,
nhưng chỉ trong những điều kiện hạn chế nhất định) phù hợp với cùng
một kiểu mẫu chung được tìm thấy trong Chiến tranh Triều Tiên, mặc
dù mức độ khác nhau. Công chúng Mỹ ít sẵn sàng khuyến nghị sử dụng
vũ khí nguyên tử ở Việt Nam hơn ở Hàn Quốc.
Tại một hội nghị hồi tưởng về Chiến tranh Việt Nam năm 1997,
McNamara phủ nhận mạnh mẽ rằng dư luận thế giới đã hạn chế việc Mỹ
sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam. Thay vào đó, ông nhấn mạnh rằng
đó là vì nó không được mong muốn về mặt quân sự cũng như không được
chấp nhận về mặt đạo đức…. Nó chẳng liên quan gì đến những gì thế
giới có thể nghĩ về nó. Ông tiếp tục, …Tổng thống Kennedy và Johnson
đã đưa ra những quyết định rõ ràng và cụ thể, không đủ tiêu chuẩn về
việc không sử dụng vũ khí hạt nhân, đặc biệt vì nó được coi là không
thể chấp nhận được về mặt đạo đức. Đó cũng là lời khuyên của tôi
dành cho họ. Tôi đã ở bên mỗi người trong số họ, vào những dịp riêng
biệt, khi họ đưa ra những quyết định này. Việc sử dụng vũ khí hạt
nhân ở Việt Nam chưa bao giờ được coi là khả thi.[151]
Với vai trò quan trọng của dư luận tiêu cực trong việc định
hình việc ra quyết định của Mỹ về cuộc chiến nói chung, tuyên bố
mạnh mẽ của McNamara có vẻ không hợp lý. Tuy nhiên, quan điểm của
ông về vũ khí hạt nhân đã được định hình rõ ràng trước khi Mỹ can
thiệp vào Việt Nam thông qua kinh nghiệm của ông về các cuộc khủng
hoảng ở Berlin, Lào và Cuba. Tuyên bố của ông nhấn mạnh mức độ mà
ông và những người khác tin rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân đơn
giản là sai lầm; tức là vấn đề không phải là xoa dịu quan điểm của
người khác, đúng hơn là CHÚNG TÔI nghĩ điều đó là sai.
Nixon và Kissinger
Ngược lại hoàn toàn, điều cấm kỵ này chủ yếu hoạt động như một
sự ràng buộc mang tính công cụ, chứ không phải thực chất, đối với
các quan chức hàng đầu của chính quyền Nixon, những người không hề
tỏ ra miễn cưỡng khi nghĩ đến các lựa chọn hạt nhân. Tổng thống
Nixon, con diều hâu chống cộng nguyên mẫu, đã mơ ước kết thúc chiến
tranh Việt Nam bằng một đòn hạ gục. Ông tán thành tin rằng lời đe
dọa hạt nhân của Mỹ đã chấm dứt chiến tranh Triều Tiên và kỳ vọng sẽ
sử dụng nguyên tắc đe dọa sử dụng vũ lực quá mức để mang lại chiến
thắng ở Việt Nam. Mô tả lý thuyết điên rồ của mình cho trợ lý lâu
năm HR Haldeman vào mùa thu năm 1968, ông đã thuyết phục các nhà
lãnh đạo Bắc Việt rằng ông bị ám ảnh bởi chiến thắng trong cuộc
chiến và sẵn sàng tung ra bạo lực tàn nhẫn nhất đối với đất nước của
họ nếu họ không chấm dứt nó, ngụ ý một mối đe dọa hạt nhân. [152]
Nixon là người ủng hộ mạnh mẽ ưu thế hạt nhân của Hoa Kỳ và
giống như Eisenhower, người mà ông từng giữ chức phó tổng thống, là
người tin tưởng vào hiệu quả của các mối đe dọa hạt nhân. Mặc dù ông
tin rằng một cuộc chiến tranh hạt nhân với Liên Xô sẽ là một thảm
họa, nhưng dường như ông không coi bản thân vũ khí hạt nhân là có
bất kỳ sự ăn năn đạo đức cụ thể nào. Trong mọi cuộc khủng hoảng
Chiến tranh Lạnh, Nixon luôn thúc giục leo thang và sử dụng vũ lực
nhiều hơn. Với tư cách là Phó Tổng thống vào năm 1954 dưới thời
Eisenhower, ông đã ủng hộ việc triển khai quân đội Hoa Kỳ để thay
thế tổn thất của Pháp ở Việt Nam và năm sau đó đã chủ trương Hoa Kỳ
sử dụng vũ khí nguyên tử để ngăn chặn các động thái của Trung Quốc
vào Việt Nam.[153] Năm 1964, ông đã kêu gọi tiến hành các cuộc tấn
công trả đũa chống lại Lào và Bắc Việt. Năm sau, ông phản đối nỗ lực
của chính quyền Johnson trong việc bắt đầu đàm phán với lý do Bắc
Việt coi đó là bằng chứng của sự yếu kém. Ông đã phản đối những lời
kêu gọi đàm phán liên tục vì những điều đó sẽ chỉ khuyến khích Hà
Nội. Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1968, ông đã chỉ trích
chính quyền Johnson vì chính sách sử dụng vũ lực từ từ.[154] Ông
thường nói với các trợ lý trong những ngày đầu cầm quyền rằng, tôi
không có ý định trở thành tổng thống đầu tiên thua trong một cuộc
chiến.[155]
Nixon, người tự hào là người cứng rắn, đã tuyên bố trong một
cuộc phỏng vấn với tạp chí Time vào năm 1985 rằng ông đã cân nhắc
việc sử dụng vũ khí hạt nhân bốn lần trong thời gian cầm quyền của
mình, một trong số đó là việc chấm dứt Chiến tranh Việt Nam. Anh ấy
nói với Time rằng anh ấy đã phản đối việc ném bom vào đê điều, vốn
có thể khiến 1 triệu người chết đuối, vì lý do tương tự như tôi đã
từ chối lựa chọn hạt nhân. Bởi vì các mục tiêu được đưa ra không
phải là mục tiêu quân sự.[156]
Tuy nhiên, Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia của Nixon,
đã bác bỏ tuyên bố của Nixon một cách công khai. Kissinger đã báo
cáo trong một cuộc phỏng vấn rằng "Tôi có thể nói một cách an toàn
rằng chưa bao giờ có một trường hợp hay cuộc khủng hoảng cụ thể nào
mà việc sử dụng vũ khí hạt nhân được chính phủ xem xét." bất kỳ kế
hoạch sử dụng vũ khí hạt nhân. Chưa bao giờ có bất kỳ quyết định
nào, thậm chí là quyết định ngẫu nhiên về việc sử dụng vũ khí hạt
nhân nếu tình huống bất ngờ như vậy xảy ra. Và chưa bao giờ có bất
kỳ cuộc thảo luận nào về việc chúng tôi sẽ chuẩn bị đi bao xa trong
những tình huống bất ngờ này.
Những tuyên bố này và hồ sơ về thái độ của Nixon và Kissinger
đối với việc sử dụng vũ khí hạt nhân nói chung rất khó giải thích.
Bởi vì thiên hướng cường điệu và khoa trương cường điệu của Nixon,
cũng như bởi vì các ghi chép quan trọng trong hồi ký của thời kỳ này
mang tính chọn lọc và ý thức hệ một cách bất thường, nên các bằng
chứng thường xuất hiện mâu thuẫn. Một số hồ sơ về Việt Nam trong các
bài viết của Nixon và Kissinger gần đây đã được mở ra cho công
chúng, nhưng việc tường thuật đầy đủ phải chờ được công bố trong
tương lai. Theo Stephen Ambrose, người viết tiểu sử hàng đầu của
Nixon, trong những cân nhắc của Nixon về cách kết thúc chiến tranh,
việc sử dụng vũ khí nguyên tử “theo mô hình của Nhật Bản trong Thế
chiến thứ hai” là “không thể thực hiện được”. điều này hoàn toàn nằm
ngoài vấn đề, và đặc biệt không phải đối với Kissinger, người mà sự
phủ nhận của ông có vẻ cường điệu quá mức đối với trường hợp của
Việt Nam.
Trong quá trình xem xét Việt Nam ngay cả trước khi nhậm chức,
Nixon nói rằng ông đã cân nhắc và với vẻ hối tiếc rõ ràng về việc từ
chối ném bom đê điều hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân, nói rằng ông
không thể cho phép trái tim tôi điều khiển cái đầu của mình, trái
tim ông muốn một đòn hạ gục, đầu ông bị kiềm chế bởi sự phẫn nộ của
công chúng. anh biết điều đó sẽ gây kích động. Ông thừa nhận, nếu
ông chọn một trong hai cách hành động này, sự náo động trong nước và
quốc tế sẽ gây tổn hại cho chính sách đối ngoại của chúng ta trên
mọi mặt trận.[159] Ông cũng lưu ý rằng nó sẽ cản trở mối quan hệ
được cải thiện với Liên Xô và Trung Quốc. Lý luận của ông rất có giá
trị và ông không bao giờ loại trừ việc sử dụng vũ khí hạt nhân nói
chung.
Trước đó, trong cả hai chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1964
và 1968, Nixon đã lên tiếng phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở
Việt Nam. Vào tháng 8 năm 1964, Nixon đã viết một bài báo trên
Readers Digest, Cần thiết ở Việt Nam: Ý chí chiến thắng, trong đó
ông chỉ đặt ra một giới hạn về những gì nên làm ở Việt Nam: Tôi kiên
quyết phản đối việc sử dụng bất kỳ loại thiết bị hạt nhân nào. ,
không chỉ vì điều này sẽ gây ra hậu quả tai hại đối với dư luận thế
giới, mà còn vì nó hoàn toàn không cần thiết.[160] Vào cuối tháng 1
năm 1965, ông ủng hộ việc ném bom của hải quân và không quân Hoa Kỳ
vào miền Bắc Việt Nam, đồng thời nói rằng lực lượng mặt đất là không
cần thiết và nhắc lại rằng vũ khí hạt nhân không nên được xem
xét.[161] Bốn năm sau, khi tái tranh cử tổng thống, Nixon đã có một
bước đột phá lớn khi vào tháng 10 năm 1968, Ứng cử viên tổng thống
George Wallace thông báo rằng ông đã chọn Tướng Curtis LeMay, cựu
chỉ huy bộ chỉ huy ném bom hạt nhân chiến lược, làm người tranh cử
của mình. LeMay, trong cuộc họp báo đầu tiên, nói rằng ông sẽ sử
dụng vũ khí hạt nhân ngay lập tức tại Việt Nam. Nixon cho biết ông
"hoàn toàn không đồng ý" và cáo buộc Đảng Độc lập Hoa Kỳ của Wallace
có thái độ vô trách nhiệm và quá diều hâu đối với các vấn đề đối
ngoại.[162] Wallace đã thất bại với 13,5% số phiếu phổ thông. Sự
phản đối công khai của Nixon trong các chiến dịch sử dụng vũ khí hạt
nhân ở Việt Nam dường như bị chi phối phần lớn bởi nhu cầu công cụ
của chiến dịch, vì theo lời kể của chính ông, khi ông đắc cử tổng
thống, lựa chọn hạt nhân là một trong những điều đầu tiên ông làm.
nghĩ về. với tư cách là bạn đồng hành của anh ấy. LeMay, trong cuộc
họp báo đầu tiên, nói rằng ông sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân ngay lập
tức tại Việt Nam. Nixon cho biết ông "hoàn toàn không đồng ý" và cáo
buộc Đảng Độc lập Hoa Kỳ của Wallace có thái độ vô trách nhiệm và
quá diều hâu đối với các vấn đề đối ngoại.[162] Wallace đã thất bại
với 13,5% số phiếu phổ thông. Sự phản đối công khai của Nixon trong
các chiến dịch sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam dường như bị chi
phối phần lớn bởi nhu cầu công cụ của chiến dịch, vì theo lời kể của
chính ông, khi ông đắc cử tổng thống, lựa chọn hạt nhân là một trong
những điều đầu tiên ông làm. nghĩ về. với tư cách là bạn đồng hành
của anh ấy. LeMay, trong cuộc họp báo đầu tiên, nói rằng ông sẽ sử
dụng vũ khí hạt nhân ngay lập tức tại Việt Nam. Nixon cho biết ông
"hoàn toàn không đồng ý" và cáo buộc Đảng Độc lập Hoa Kỳ của Wallace
có thái độ vô trách nhiệm và quá diều hâu đối với các vấn đề đối
ngoại.[162] Wallace đã thất bại với 13,5% số phiếu phổ thông. Sự
phản đối công khai của Nixon trong các chiến dịch sử dụng vũ khí hạt
nhân ở Việt Nam dường như bị chi phối phần lớn bởi nhu cầu công cụ
của chiến dịch, vì theo lời kể của chính ông, khi ông đắc cử tổng
thống, lựa chọn hạt nhân là một trong những điều đầu tiên ông làm.
nghĩ về. Nixon cho biết ông "hoàn toàn không đồng ý" và cáo buộc
Đảng Độc lập Hoa Kỳ của Wallace có thái độ vô trách nhiệm và quá
diều hâu đối với các vấn đề đối ngoại.[162] Wallace đã thất bại với
13,5% số phiếu phổ thông. Sự phản đối công khai của Nixon trong các
chiến dịch sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam dường như bị chi phối
phần lớn bởi nhu cầu công cụ của chiến dịch, vì theo lời kể của
chính ông, khi ông đắc cử tổng thống, lựa chọn hạt nhân là một trong
những điều đầu tiên ông làm. nghĩ về. Nixon cho biết ông "hoàn toàn
không đồng ý" và cáo buộc Đảng Độc lập Hoa Kỳ của Wallace có thái độ
vô trách nhiệm và quá diều hâu đối với các vấn đề đối ngoại.[162]
Wallace đã thất bại với 13,5% số phiếu phổ thông. Sự phản đối công
khai của Nixon trong các chiến dịch sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt
Nam dường như bị chi phối phần lớn bởi nhu cầu công cụ của chiến
dịch, vì theo lời kể của chính ông, khi ông đắc cử tổng thống, lựa
chọn hạt nhân là một trong những điều đầu tiên ông làm. nghĩ về.
Mối quan tâm của Nixon trong việc khám phá các lựa chọn hạt
nhân trên cương vị tổng thống cũng ngang bằng, thậm chí có lẽ còn
vượt xa sở thích của Cố vấn An ninh Quốc gia Henry Kissinger của
ông. Kissinger, trước đây là một học giả, đã viết một cuốn sách bán
chạy nhất, Vũ khí hạt nhân và Chính sách đối ngoại, trong đó ủng hộ
việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trong các cuộc chiến tranh
giới hạn.[163] Ngày càng chỉ trích các chiến lược hạt nhân dựa trên
sự trả đũa lớn, ông cho rằng các chiến lược chiến tranh hạn chế và
chiến tranh hạt nhân hạn chế sẽ hữu ích hơn cho cả chiến đấu và
ngoại giao. Kể từ khi cuốn sách được xuất bản vào năm 1957,
Kissinger đã rút lui khỏi các khía cạnh của chính sách đó, nhưng ông
vẫn tiếp tục là người ủng hộ mạnh mẽ việc phát triển các lựa chọn
hạt nhân hạn chế. Trong một cuộc phỏng vấn tháng 3 năm 1976 trên US
News and World Report, Kissinger đã công khai thừa nhận rằng,
Theo sự xúi giục của ông, một trong những mục tiêu đầu tiên
của Nhà Trắng Nixon là sửa đổi chiến lược hạt nhân của Hoa Kỳ để
cung cấp các lựa chọn hạt nhân hạn chế hơn. Một ngày sau lễ nhậm
chức của Nixon vào ngày 20 tháng 1 năm 1969, Nixon và Kissinger đã
ra lệnh cho NSSM-3 (Bản ghi nhớ Nghiên cứu An ninh Quốc gia), một
nghiên cứu về cân bằng lực lượng thông thường và hạt nhân. Được hoàn
thành vào tháng 5, nó nhấn mạnh sự cần thiết của các lựa chọn hạt
nhân hạn chế, một quan điểm được Kissinger rất đồng tình. Tuần đầu
tiên nhậm chức, JCS đã trình bày với Nixon và Kissinger một bản tóm
tắt hết sức bi quan về việc xây dựng vũ khí hạt nhân của Liên Xô.
Liên Xô đang tiến gần đến mức ngang bằng với Mỹ về lực lượng hạt
nhân và thậm chí có thể đạt được ưu thế. Đối với Kissinger, việc Mỹ
sắp mất đi ưu thế chiến lược đòi hỏi phải xem xét lại chiến lược hạt
nhân của Mỹ.
NSSM-3 dẫn đến một nghiên cứu tiếp theo vào tháng 6 năm 1969
yêu cầu NSC và Lầu Năm Góc kiểm tra các lựa chọn nhắm mục tiêu hạt
nhân hạn chế.[166] Kissinger muốn nhân viên NSC phát triển một chiến
lược trong đó các lựa chọn hạt nhân dường như thực sự có thể sử dụng
được. Nhưng đến mùa xuân năm 1970, chính quyền đã phải gác lại việc
xem xét chiến lược. Bất chấp áp lực từ Kissinger, nhân viên NSC tiến
hành nghiên cứu một cách chậm rãi, một phần vì việc phát triển các
lựa chọn hạt nhân hạn chế dường như không được ưu tiên trước các vấn
đề cấp bách khác như Chiến tranh Việt Nam và các cuộc đàm phán SALT
sắp tới. Tuy nhiên, Nhà Trắng ngày càng gặp phải sự phản đối từ các
quan chức Bộ Ngoại giao, những người lo ngại rằng việc sẵn có các
lựa chọn hạt nhân hợp lý sẽ khiến việc sử dụng vũ khí hạt nhân có
nhiều khả năng xảy ra hơn.
Kế hoạch dự phòng của Việt Nam
Trong cùng thời gian này, việc lập kế hoạch bắt đầu dựa trên
những phương án tích cực hơn cho Việt Nam. Vào ngày 27 tháng 1 năm
1969, Nixon, Kissinger, Tướng Wheeler và Bộ trưởng Quốc phòng Melvin
Laird đã gặp nhau để thảo luận về các lựa chọn quân sự có thể khiến
Bắc Việt trở nên thẳng thắn hơn trong các cuộc đàm phán ở Paris. Vào
ngày 21 tháng 2, Laird chuyển cho Kissinger một báo cáo rất sơ bộ
của CTCP về vấn đề này. Báo cáo tối mật đã xác định năm kịch bản khá
gay gắt, kịch bản cuối cùng liên quan đến cái mà nó gọi là leo thang
kỹ thuật,—sử dụng vũ khí nguyên tử, sinh học hoặc hóa học gây chết
người. Khi đánh giá lựa chọn này, báo cáo lưu ý rằng việc sử dụng
những loại vũ khí như vậy ở Việt Nam sẽ gây ra phản ứng rất mạnh mẽ
của công chúng và Quốc hội, đồng thời nói thêm rằng phản ứng có thể
dự đoán được trên toàn thế giới [đối với kịch bản này], đặc biệt là
ở Nhật Bản và Okinawa… hãy tấn công chống lại việc sử dụng nó.[167 ]
Cả Laird, Kissinger và trợ lý quân sự của Kissinger, Alexander
Haig đều không có thiện cảm với các đề xuất. Khi chuyển báo cáo cho
Kissinger, Haig nhận xét rằng các kế hoạch này rộng hơn loại mà ông
và Tổng thống hình dung như những tín hiệu có thể chấp nhận được về
ý định của Hoa Kỳ nhằm leo thang các lựa chọn quân sự ở Việt
Nam.[168] Kissinger nhận thấy các kế hoạch đã được hình thành tốt
nhưng thực tế của môi trường trong nước và quốc tế hiện tại không
cho phép chấp nhận những rủi ro mà chúng đặt ra vào thời điểm này.
Ông đề xuất những hành động tinh tế hơn có thể làm giảm nguy cơ bị
giới truyền thông tin tức chú ý hoặc tình trạng bất ổn trong nước,
chẳng hạn như tăng cường liên lạc quân sự và tăng cường trinh sát
trên không, những hoạt động có thể tạo ấn tượng về việc tăng cường
lực lượng của Hoa Kỳ.[169]
Hoạt động Móc vịt
Tuy nhiên, ngay sau đó, Kissinger đã chọn xem xét những lựa
chọn kém tinh tế hơn. Trong cùng thời gian NSC được giao nhiệm vụ
nghiên cứu các lựa chọn hạt nhân hạn chế, Kissinger đang điều tra
các trường hợp dự phòng hạt nhân liên quan đến Việt Nam. Trường hợp
then chốt là Chiến dịch Duck Hook, một kế hoạch sử dụng vũ lực quy
mô lớn chống lại miền Bắc Việt Nam được phát triển vào mùa xuân và
mùa hè năm 1969.[170] Được phát triển bởi Kissinger và một số cộng
sự, nó kêu gọi ném bom ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng và các khu vực
trọng điểm khác ở miền Bắc Việt Nam; khai thác bến cảng và sông
ngòi; ném bom hệ thống đê sông Hồng; một cuộc xâm lược trên bộ vào
miền Bắc Việt Nam; việc phong tỏa Sihanoukville, có thể phá hủy bằng
vũ khí hạt nhân các tuyến đường chính Bắc-Nam dọc theo Đường mòn Hồ
Chí Minh; và vụ đánh bom các tuyến đường sắt chính của miền Bắc Việt
Nam với Trung Quốc. Một sự riêng biệt, thậm chí còn có nghiên cứu bí
mật hơn đề cập đến những tác động của việc sử dụng vũ khí hạt nhân
chiến thuật trên các tuyến đường sắt, kênh vận chuyển chính từ Liên
Xô và Trung Quốc.[171] Theo Haldeman, tham mưu trưởng và người bạn
thân tín của Nixon, Kissinger đã vận động hành lang cho các lựa chọn
hạt nhân vào mùa xuân và mùa thu năm 1969.[172]
Cuối tháng 8, Nixon xem xét kế hoạch dự phòng của K đối với
Việt Nam nhưng không đưa ra quyết định bằng cách này hay cách khác.
Vào cuối tháng 8 và sang tháng 9, Kissinger lo ngại rằng quyết tâm
tinh thần của Nixon về một lập trường kiên quyết trong cuộc chiến
đang bị lung lay, và ông đã thực hiện các bước để thúc giục ông ta
chấp thuận cái được gọi là cuộc tấn công dã man, quyết định vào
tháng 11 Optiona nhằm vào Bắc Việt Nam để chấm dứt. chiến tranh. Vào
ngày 9 tháng 9, Kissinger gặp Tướng Wheeler để thảo luận về kế hoạch
quân sự cho chiến dịch Duck Hook…và truyền đạt cho ông ta mệnh lệnh
cá nhân của tổng thống rằng việc lập kế hoạch phải được thực hiện
theo các kênh quân sự nghiêm ngặt, do đó sẽ ngăn cản việc thảo luận
về kế hoạch ngay cả với Bộ trưởng Quốc phòng. .[173]
Vào cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9, Kissinger đã tập hợp một
nhóm nhân viên được chọn lọc của mình để thực hiện một nghiên cứu
tối mật nhằm khám phá khía cạnh quân sự của đồng xu, tức là các
nghiên cứu Duck Hook hiện có.[174] Ông mô tả nó với họ như một vấn
đề rất, rất nhạy cảm. Trong Những năm ở Nhà Trắng, Kissinger viết
rằng ông đã nói với nhóm rằng điều cần thiết là một kế hoạch quân sự
được thiết kế để có tác động tối đa đến khả năng quân sự của kẻ thù
nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh.[175] Những lựa chọn này có
thể bao gồm việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật trong một tình
huống duy nhất được kiểm soát cẩn thận.[176] Một tài liệu Khái niệm
Hoạt động tuyệt mật vào giữa tháng 9 cho biết Hoa Kỳ quyết tâm áp
dụng bất kỳ lực lượng nào cần thiết để đạt được các mục tiêu cơ bản
của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á. Áp lực quốc tế và trong nước, và khả năng
phản ứng của Liên Xô hoặc Trung Quốc sẽ là những yếu tố quan trọng
nhưng không nhất thiết loại trừ những hành động táo bạo hoặc giàu
trí tưởng tượng…. [177] Tài liệu có lưu ý rằng việc ném bom các con
đê sẽ gây ra những vấn đề cụ thể ở Hoa Kỳ.
Kissinger nói với cả nhóm rằng, tôi không tin rằng một cường
quốc hạng tư nhỏ bé như Bắc Việt Nam lại không có điểm đột phá.
Chính quyền Johnson không bao giờ có thể giải quyết được vấn đề này.
Chúng tôi dự định sẽ nắm bắt được vấn đề.[178] Khi một nhân viên hỏi
về khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân, Kissinger trả lời rằng chính
sách của chính quyền này là không sử dụng vũ khí hạt nhân. Nhưng ông
không loại trừ việc sử dụng thiết bị hạt nhân để chặn tuyến đường
sắt quan trọng tới Trung Quốc nếu đó là cách duy nhất để làm điều
đó. Sau này một người tham gia nhớ lại rằng tôi đoán tất cả chúng
tôi đều ở trong trạng thái sốc nhẹ.[179] Điểm nhấn của các kịch bản
là tung ra những đòn không khí dã man, được lặp đi lặp lại trong
khoảng thời gian. Nghiên cứu chỉ được thực hiện trên cơ sở hiệu quả
quân sự. Rất ít cân nhắc về đạo đức hoặc chính trị được đưa vào bức
tranh.
Vẫn chưa rõ liệu nhóm đặc biệt có thực sự xem xét trong nghiên
cứu của mình khả năng sử dụng thiết bị hạt nhân như một phần trong
đề xuất phong tỏa miền Bắc Việt Nam hay không. Tad Szulc báo cáo
rằng điều đó không xảy ra và Kissinger không được biết là đã ám chỉ
đến điều đó lần nữa.[181] Trợ lý của Kissinger, Roger Morris nói
rằng ông đã được xem kế hoạch nhắm mục tiêu hạt nhân, trong khi các
trợ lý khác sau đó nói với những người phỏng vấn rằng họ không nhớ
đã gặp bất kỳ bằng chứng nào cho thấy Nixon và Kissinger đang cân
nhắc sử dụng thiết bị hạt nhân trong chiến dịch Duck Hook.[182]
Haldeman rõ ràng phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam
chủ yếu vì nó có thể làm tổn hại đến cơ hội tái tranh cử của Nixon
vào năm 1972.[183]
Trong tháng 9 và tháng 10, Nixon tiếp tục đe dọa leo thang
chiến tranh một cách kịch tính. Để củng cố họ, ông đã ra lệnh thực
hiện cảnh báo hạt nhân bí mật trên toàn thế giới, một trong những
hoạt động quân sự bí mật lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Nó bắt đầu
vào ngày 13 tháng 10 và kéo dài một tháng.[184] Tuy nhiên, khi các
cuộc biểu tình rầm rộ của công chúng phản đối cuộc chiến dự kiến
diễn ra vào ngày 15 tháng 10 và ngày 13-15 tháng 11 ở Hoa Kỳ sắp
diễn ra, Nixon đã hủy bỏ Duck Hook. Trong hồi ký của mình, ông cho
rằng làn sóng phẫn nộ trên toàn thế giới về việc leo thang chiến
tranh đã làm suy yếu kế hoạch của ông.[185] Một nhân viên NSC lại
nhớ khác, nhớ lại rằng các kế hoạch tấn công đã bị đánh bại trong
gang tấc chủ yếu là do sự không chắc chắn của Nixon về hiệu quả quân
sự, chứ không phải vì bất kỳ nghi ngờ nào lớn hơn bắt nguồn từ lo
ngại về hậu quả trong nước hoặc đối ngoại.[186] Kissinger đã rút lui
khỏi kế hoạch,
Giả sử Nixon có thể bí mật sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật
ở Việt Nam theo kiểu ném bom bí mật vào Campuchia thì sao? Có rất ít
lý do để nghĩ rằng anh ấy sẽ không làm như vậy. Vào ngày 11 tháng 5
năm 1969, Nixon, Kissinger và các trợ lý khác đã lên một chiếc máy
bay phản lực tối mật của Bộ Tư lệnh Dù trở về Washington từ Key
Biscayne. Nixon đọc một bản báo cáo về kế hoạch hoạt động hạt nhân
đã được hoàn thành vài ngày trước đó. Một trong những phát hiện của
nghiên cứu là SIOP không có các lựa chọn hạn chế linh hoạt trong các
kịch bản tấn công quy mô lớn của nó. Nixon đã viết nguệch ngoạc vài
dòng trên tập giấy màu vàng, hiện đã được giải mật: Những kế hoạch
này thật đáng xấu hổ. Cuối cùng, họ thực sự không có lựa chọn nào
ngoài những lựa chọn này, bởi vì nếu bạn sử dụng lực lượng riêng
biệt thì SIOP sẽ trở nên bất khả thi. Nếu nghi ngờ, chúng tôi sẽ ném
bom Campuchia. [188] Phải chăng điều này cho thấy họ đang nghĩ đến
kế hoạch dự phòng hạt nhân cho miền Bắc Việt Nam? Nó không rõ ràng.
Đúng như vậy, Nixon đã giữ bí mật về kế hoạch Duck Hook ngay
cả với các bộ trưởng ngoại giao và quốc phòng của ông, William
Rogers và Melvin Laird. Khi họ phát hiện ra điều đó chỉ khi chính
Nixon tiết lộ kế hoạch, họ đã thúc giục chống lại nó, nhấn mạnh sự
phản đối ngày càng tăng của công chúng đối với việc leo thang chiến
tranh.[189] Hai nhà khoa học được tư vấn về kế hoạch nhắm mục tiêu
hạt nhân Duck Hook phản đối đường lối hành động hạt nhân, vì cả lý
do quân sự và đạo đức.[190]
Với ngoại lệ đáng chú ý là Samuel Cohen, hầu hết các nhà khoa học và nhà phân tích quốc phòng dân sự đều tham gia vào việc tư vấn chính sách phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam, vì cả lý do quân sự và đạo đức. Daniel Ellsberg, lúc đó là nhà phân tích quốc phòng tại RAND, đã chỉ đạo một nghiên cứu toàn diện về các lựa chọn quân sự của Mỹ ở Việt Nam theo yêu cầu của Kissinger vào cuối năm 1968. Ellsberg kiên quyết từ chối xem xét các lựa chọn hạt nhân chiến thuật trong nghiên cứu này. Sau này ông nhớ lại rằng tôi sẽ không tham gia vào một bài báo đề xuất rằng vũ khí hạt nhân xứng đáng được xem xét ở Việt Nam.[191] Hai nhà khoa học được yêu cầu xem lại hồ sơ mục tiêu hạt nhân Duck Hook vào năm 1969 đều rất đau khổ trước lựa chọn hạt nhân, một trong số họ lo ngại rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân có thể khiến người Trung Quốc phải tham gia. Họ thúc giục Paul Doty, một nhà hóa sinh hàng đầu của Harvard và là bạn của Kissinger, đã ngăn cản việc lập kế hoạch và truyền đạt quan điểm tương tự cho Haldeman, một người quen cũ của một trong những nhà khoa học.[192] Ngay cả nhà vật lý Edward Teller, một trong những nhà khoa học hiếu chiến nhất quốc gia và là người ủng hộ vũ khí hạt nhân lâu năm, cũng phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam với lý do chúng không hữu ích khi chống lại quân du kích. Gọi những người ủng hộ việc sử dụng là những kẻ ngu ngốc, ông tuyên bố rằng, Chỉ có một số kẻ ngốc và họ thực sự là những kẻ ngu ngốc được đề nghị sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam.[193] Tuy nhiên, Kissinger không có nhiều lợi ích đối với các nhà khoa học, đặc biệt là vì các nhà khoa học trong Ủy ban Cố vấn Khoa học của Tổng thống đã không đưa ra lời khuyên mà ông mong muốn về ABM. Chúng dường như không có nhiều tác động đến suy nghĩ của ông về vũ khí hạt nhân. và truyền đạt quan điểm tương tự cho Haldeman, một người quen cũ của một trong những nhà khoa học.[192]
Mùa xuân năm 1972: Theo đuổi đòn knock-out cuối cùng
Vào mùa xuân năm 1972, Nixon
đang xem xét các phương án leo thang ở miền Bắc Việt Nam, vượt xa
một cuộc tấn công ném bom tổng lực. Theo các băng ghi âm của Nhà
Trắng được công bố gần đây, vào ngày 25 tháng 4, một vài tuần trước
khi ông ra lệnh leo thang chiến tranh, Kissinger đã đưa ra cho ông
một loạt các lựa chọn leo thang, bao gồm cả việc tấn công các nhà
máy điện và bến cảng của Bắc Việt. Haldeman và thư ký báo chí Ron
Ziegler cũng có mặt. Nixon nói, tôi vẫn nghĩ chúng ta nên phá bỏ đê
ngay bây giờ. Điều đó sẽ nhấn chìm mọi người? Kissinger trả lời:
Khoảng 200.000 người. Nixon tuyên bố, Không, không, không…Tôi thà sử
dụng bom hạt nhân còn hơn. Anh hiểu chưa, Henry? Kissinger trả lời:
“Tôi nghĩ điều đó là quá đáng”. Nixon trả lời, Quả bom hạt nhân,
điều đó có làm phiền ông không?… Tôi chỉ muốn ông nghĩ lớn, Henry,
vì Chúa.[194]
Theo nhật ký của Haldeman,
Nixon, Kissinger và Haig lại thảo luận về khả năng sử dụng vũ khí
hạt nhân một tuần sau đó, vào ngày 2 tháng 5, khi các cuộc đàm phán
hòa bình trở nên khó khăn. Chủ đề nảy sinh trong cuộc gặp trên du
thuyền của tổng thống Sequoia, ngay sau khi Kissinger trở về từ cuộc
đàm phán ở Paris, trong bối cảnh thảo luận về các lựa chọn quân sự
để chấm dứt chiến tranh. Nixon bác bỏ lựa chọn hạt nhân cũng như
việc xâm lược miền Bắc và ném bom đê sông Hồng. Thay vào đó, ông ủng
hộ việc phong tỏa các cảng Bắc Việt và mở rộng ném bom lên phía bắc
vĩ tuyến 20, bình luận rằng ông muốn nơi đó bị ném bom tan
tành.[195]
Vào ngày 4 tháng 5, khi đang thảo
luận về quyết định của mình với Kissinger, Haig và John Connally,
Nixon đã đập mạnh xuống bàn khi mắng mỏ…Miền Nam Việt Nam có thể
thua. Nhưng Hoa Kỳ không thể thua…Dù chuyện gì xảy ra với miền Nam
Việt Nam, chúng ta sẽ đánh bại Bắc Việt…..Một lần, chúng ta phải sử
dụng sức mạnh tối đa của đất nước này…chống lại đất nước nhỏ bé khốn
nạn này….[196] Ngày hôm sau, trong cuộc trò chuyện, Nixon nhận xét
với Kissinger rằng thương vong dân sự là kết quả của tất cả các cuộc
chiến tranh. Điểm duy nhất mà bạn và tôi không đồng ý là vấn đề đánh
bom. Bạn quá quan tâm đến dân thường và tôi không quan tâm. Tôi
không quan tâm. Kissinger trả lời: “Tôi quan tâm đến thường dân vì
tôi không muốn thế giới huy động để chống lại bạn như một tên đồ
tể”. Chúng ta có thể làm điều đó mà không phải giết hại thường
dân.[197]
Những đề nghị của Nixon về việc sử dụng vũ khí hạt nhân chống
lại miền Bắc Việt Nam, hoặc thực hiện các biện pháp quyết liệt khác
có thể giết chết nhiều dân thường, phản ánh rõ ràng sự thất vọng của
ông đối với cuộc chiến. Họ không phải là một lựa chọn trực tiếp. Vào
thời điểm này của cuộc chiến, rõ ràng là việc sử dụng vũ khí hạt
nhân là không khả thi về mặt chính trị, cả trong nước lẫn quốc tế.
Nixon đã tự mình làm rõ điều này trong một cuộc họp của NSC vào ngày
8 tháng 5, khi ông kêu gọi một “sự phân tích máu lạnh” về tình hình
hiện tại ở Việt Nam. Sau khi thảo luận về các phương án khai thác,
Nixon giải thích: “Dù chúng ta làm gì, chúng ta cũng phải luôn tránh
nói những điều chúng ta sẽ không làm, chẳng hạn như vũ khí hạt nhân.
Tôi đề cập đến họ và nói rằng tôi không coi chúng là cần thiết. Rõ
ràng, chúng ta sẽ không sử dụng vũ khí hạt nhân nhưng chúng ta nên
để nó lơ lửng trên đó.
Do đó, Nixon, người rõ ràng có rất ít sự ức chế cá nhân về
việc vi phạm một loạt các chuẩn mực dân chủ quan trọng trong nhiệm
kỳ tổng thống của mình khi ông cho rằng có thể thoát khỏi điều đó,
đã bị kiềm chế một cách mạnh mẽ bởi sự ghê tởm và phản đối của những
người khác. Sự kiềm chế mà ông thể hiện liên quan đến việc sử dụng
vũ khí hạt nhân chủ yếu là kết quả của những hạn chế về dư luận.
Haig, một người có đường lối cứng rắn từng phục vụ ở Việt Nam và sau
này trở thành ngoại trưởng, đồng thời là người đã giúp lập kế hoạch
Duck Hook, cho rằng việc không sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam và
các cuộc xung đột khác trong Chiến tranh Lạnh là do những lo ngại
mang tính quy chuẩn—-của những người khác. Ông viết vào năm 1992, Về
phía Mỹ, lập luận đạo đức chống lại việc sử dụng những loại vũ khí
như vậy, hoặc thậm chí là đe dọa sử dụng chúng, dựa trên sức mạnh
của niềm tin tôn giáo. [199] Ông lập luận chống lại quan điểm đạo
đức này và lo ngại rằng những hạn chế như vậy sẽ làm suy yếu khả
năng răn đe. Tuy nhiên, ông viết, ….sự tồn tại đơn thuần của sức
mạnh vượt trội của chúng ta thường giúp chúng ta thoát khỏi thảm họa
tiềm ẩn mặc dù chúng ta đã quyết tâm, trong sâu thẳm tâm hồn dân
tộc, không bao giờ sử dụng nó.[200] Vì những hạn chế về mặt đạo đức
như vậy, ông cảm thấy rằng không có tổng thống Mỹ nào sẽ sử dụng vũ
khí hạt nhân ngoại trừ trường hợp cực đoan là bảo vệ châu Âu.
Việc coi một điều gì đó như một niềm tin tôn giáo gợi ý rằng
nó được coi là vấn đề của đức tin và lòng nhiệt thành, và không thể
chấp nhận được hoặc ít nhất là khác biệt với lập luận hợp lý. Điều
này thường đặc trưng cho một điều cấm kỵ.
Phần kết luận
Truyền thống không sử dụng vũ khí hạt nhân xuyên suốt cuộc
xung đột ở Việt Nam. Trong chiến tranh, ba chính quyền Hoa Kỳ đã dần
dần nâng cao mức độ bạo lực và thực hiện các chính sách gây tranh
cãi gay gắt, tuy nhiên tất cả đều đặt ra giới hạn sử dụng vũ khí hạt
nhân. Bất chấp những chi phí khổng lồ và những thất vọng của cuộc
chiến, các nhà lãnh đạo Mỹ vẫn tránh sử dụng thứ có thể giành chiến
thắng bằng cách sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật.
Chúng ta có thể phân biệt nhiều động cơ khác nhau dẫn đến việc
không sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam: thứ nhất, lo sợ leo thang
vô ý, bắt nguồn từ tính toán về nguy cơ leo thang không kiểm soát,
cộng với khả năng xảy ra một kết quả thảm khốc vô cùng—yếu tố chi
phối thúc đẩy McNamara và những người khác; thứ hai, bảo tồn truyền
thống không sử dụng, điều mà Ball đã nhấn mạnh; và cuối cùng, một
điều cấm kỵ, một niềm tin chuẩn mực rằng sử dụng vũ khí hạt nhân là
sai lầm.
Do đó, có vẻ như khả năng chính quyền Johnson sử dụng vũ khí
hạt nhân ở Việt Nam gần như bằng không, bất kể các tướng
Westmoreland, Sharp hay Wheeler nghĩ gì. Ngược lại, đối với Nixon và
Kissinger như đối với Eisenhower trước đó, ít bị ảnh hưởng bởi niềm
tin đạo đức cá nhân, điều cấm kỵ hoạt động chủ yếu như một công cụ
hạn chế việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Mặc dù Nixon đã nói một đường
lối cứng rắn và gửi công hàm cho Bắc Việt đe dọa sử dụng vũ lực trên
diện rộng nếu họ không đồng ý đàm phán, nhưng cuối cùng ông và
Kissinger đã nhiều lần bị đẩy lui khỏi khát vọng đánh đòn hạ gục
trước sự lên án của dư luận trong nước và thế giới. Họ sẽ không thể
sử dụng vũ khí hạt nhân nếu không gây ra sự phản đối kịch liệt nhất.
Nixon có lẽ không đích thân chia sẻ điều cấm kỵ hạt nhân. Ông không
nghĩ việc sử dụng vũ khí hạt nhân là sai nhưng ông bị hạn chế vì
những người khác, kể cả các thành viên trong bộ máy quan liêu của
ông, đã giữ nó. Như Kissinger sau này lập luận, Chưa bao giờ khoảng
cách quân sự giữa một siêu cường và một quốc gia phi hạt nhân lại
lớn hơn; chưa bao giờ nó ít có khả năng được viện dẫn hơn.[201]
Điều cấm kỵ có tầm quan trọng như thế nào đối với việc ngăn
chặn việc giải thích việc không sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam?
Lực lượng hạt nhân của Liên Xô và Trung Quốc có thể đã ngăn cản bất
kỳ ý định tấn công quân sự nào của Mỹ vào các thánh địa của Việt Nam
bên trong Trung Quốc, nhưng chúng không ngăn cản được ý định tấn
công miền Nam Trung Quốc bằng vũ khí hạt nhân trong bất kỳ cuộc
chiến tranh mở rộng nào. Mức độ mà Hoa Kỳ có thể leo thang cuộc
chiến ở Việt Nam là câu hỏi mở nhất.[202] Ở đây, nỗi lo sợ về một
phản ứng hạt nhân của Liên Xô hay Trung Quốc không còn tác động mạnh
mẽ đến các nhà lãnh đạo Mỹ. Đúng hơn, họ lo lắng về khả năng xảy ra
một cuộc chiến tranh thông thường quy mô lớn, những hậu quả chính
trị và quân sự lâu dài không chắc chắn của nó, cũng như khả năng leo
thang thành chiến tranh hạt nhân ngày càng xa vời. Bởi vì những tính
toán này không chắc chắn,
Nhưng sẽ là sai lầm nếu đưa ra sự phân đôi quá rõ ràng giữa
sức mạnh của điều cấm kỵ và sức mạnh của nguy cơ leo thang, bởi vì
chúng không hoàn toàn độc lập. Sự tồn tại của điều cấm kỵ về vũ khí
giúp hình thành các phán đoán về điều gì tạo nên sự leo thang trên
chiến trường. Nếu các nhà lãnh đạo quốc gia chỉ đơn giản coi vũ khí
hạt nhân chiến thuật chỉ là một loại vũ khí khác, thì tác động leo
thang của việc sử dụng chúng có thể sẽ được đánh giá ít nghiêm trọng
hơn nhiều. Do đó, điều cấm kỵ, bằng cách giúp xác định ngay từ đầu
những gì tạo nên sự leo thang, đã góp phần nâng cao nhận thức của
những người ra quyết định về những rủi ro như vậy trong chiến tranh.
Điều gì sẽ xảy ra nếu Hoa Kỳ thực sự sử dụng
vũ khí hạt nhân ở Việt Nam? Ít nhất là từ thời điểm Mỹ tiến hành các
cuộc không kích nhằm đáp trả sự kiện Vịnh Bắc Bộ vào đầu tháng 8 năm
1964, giới lãnh đạo Bắc Việt đã dự đoán sẽ bị tấn công bằng vũ khí
hạt nhân. Vào thời điểm đó, họ gửi phụ nữ và trẻ em về nông thôn và
bắt đầu lên kế hoạch cho thương vong lên tới hàng triệu người. Chưa
bao giờ họ có ý định đầu hàng nếu không thống nhất được với miền Nam
dưới sự lãnh đạo và kiểm soát tối cao của Hà Nội. Vì vậy, thật khó
để thấy việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật có thể tạo ra sự
khác biệt nhỏ nhất đối với kết quả cuối cùng như thế nào. Bắc Việt
hoàn toàn dự kiến sẽ bị thiêu hủy với số lượng lớn, và nếu một
cuộc tấn công hạt nhân xảy ra, họ vẫn sẵn sàng kiên trì.[203]
Trường hợp Việt Nam minh họa thế nào, mười năm
sau chiến tranh Triều Tiên, bất chấp sự phát triển tạm thời của tất
cả các loại vũ khí hạt nhân nhỏ, hiệu suất thấp, dễ sử dụng hơn,
chúng lại ít được sử dụng hơn bao giờ hết. Mặc dù những lo ngại về
sự leo thang rõ ràng đã đóng một vai trò trong việc ngăn cản việc sử
dụng chúng, nhưng những lo ngại đó đã được củng cố mạnh mẽ bởi những
cân nhắc về mặt chính trị và quy phạm. Vào thời điểm Chiến tranh
Việt Nam, điều cấm kỵ hạt nhân đã có tác dụng mạnh mẽ và lan rộng
hơn; nó ngày càng trở nên ít thăm dò hơn, được coi là hiển nhiên
hơn. Hơn nữa, bản thân điều cấm kỵ này càng trở nên cố thủ hơn do
Chiến tranh Việt Nam. Mọi nghi ngờ còn lại về việc liệu Chiến tranh
Triều Tiên có được tiến hành đúng đắn liên quan đến vũ khí hạt nhân
hay không đã được Việt Nam dập tắt, điều này khẳng định rằng ngay cả
vũ khí hạt nhân chiến thuật cũng không thể sử dụng được về mặt chính
trị.
Ngay cả Henry Kissinger cũng buộc phải đối mặt với những hạn
chế mang tính quy phạm về quyền lực vật chất. Mặc dù ông đã viết một
cuốn sách ca ngợi việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật nhưng sau
đó ông đã rút lui khỏi điều đó. Khi vào Nhà Trắng, ông thấy tiếc
rằng các quốc gia hạt nhân không nhất thiết phải sử dụng sức mạnh
này để áp đặt ý chí của mình. Khả năng hủy diệt tỏ ra khó chuyển
thành mối đe dọa chính đáng ngay cả đối với các quốc gia không có
khả năng trả đũa.[204] Ông cho rằng điều này là do sức tàn phá khủng
khiếp của vũ khí hạt nhân. Nhưng như Kissinger biết rõ, vũ khí dưới
kiloton không hẳn là tuyệt vời đến thế. Cho nên hắn có chút không
thành thật. Nhưng như sự sẵn sàng chiến đấu chống lại Hoa Kỳ của
người Bắc Việt đã minh họa, chỉ sức mạnh vật chất thôi không đủ để
răn đe. Một trong những bài học lớn của Việt Nam dành cho sinh viên
và những người thực hành quan hệ quốc tế là những giới hạn mang tính
quy phạm và chính trị đối với sức mạnh vật chất. Không nơi nào điều
này được minh họa rõ ràng hơn việc không sử dụng vũ khí hạt nhân
trong chiến tranh.
[1] Robert McNamara, Nhìn lại: Bi kịch và bài học của Việt
Nam (New York: Times, 1995), tr. 174.
[2] James Blight, chủ biên. Bỏ lỡ những cơ hội? Xem xét
lại các quyết định của Chiến tranh Việt Nam, 1945-68. Hội nghị Hà
Nội, ngày 20-23 tháng 6 năm 1997. Bản ghi chép. Viện Nghiên cứu Quốc
tế Watson, Đại học Brown, tháng 4 năm 1998, trang 9-10.
[3] Điều này được thảo luận chi tiết trong Yuen Foong
Khong, Analogies at War: Korea, Munich, Điện Biên Phủ, and the
Vietnam Decisions of 1965 (Nhà xuất bản Đại học Princeton, 1992).
[4] William W. Kaufmann, Chiến lược McNamara (New York:
Harper & Row, 1964), trang 15-16. Khổng, Tương tự trong chiến tranh.
[5] Daniel Ellsberg, Bí mật: Hồi ký Việt Nam và Hồ sơ Lầu
Năm Góc (New York: Viking, 2002), tr.63.
[6] Ví dụ, xem Henry Kissinger, Vũ khí hạt nhân và Chính
sách đối ngoại (Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1957); Robert Osgood,
Limited War: The Challenge to American Strategy (Nhà xuất bản Đại
học Chicago, 1957); Morton H. Halperin, Chiến tranh giới hạn trong
thời đại hạt nhân. (New York: Wiley, 1963).
[7] McGeorge Bundy, Nguy hiểm và Sống sót (New York:
Random House, 1988), tr. 536.
[8] Như trên, tr. 536.
[9] Bundy, Nguy hiểm và Sống sót. Ông chỉ dành tám trang
trong cuốn sách 735 trang về lịch sử hạt nhân cho Việt Nam.
[10] Tham mưu trưởng liên quân phản đối đề xuất gửi một số
lượng nhỏ quân đội Mỹ tới khu vực và khuyến nghị can thiệp quy mô
lớn, thậm chí sử dụng vũ khí hạt nhân hoặc không can thiệp. Bản ghi
nhớ cuộc họp về Lào, ngày 29 tháng 4 năm 1961, FRUS, 1961-63,
24:150-54.
[11] Bản ghi nhớ của JCS gửi Bộ trưởng Quốc phòng, ngày 2
tháng 3 năm 1964, JCSM-174-64. FRUS, 1964-68, 1:115.
[12] PP, Tập. III, tr. 623.
[13] PP, Tập. III, tr. 238.
[14] PP, Tập. III, tr. 175.
[15] Bản ghi nhớ (W. Bundy), Thảo luận về các hành động mở
rộng có thể có liên quan đến Việt Nam, 27 tháng 4 năm 1964, Hồ sơ
Hội nghị Ban Thư ký Điều hành, 1949-72, Hộp 343, Manila (SEATO) Đài
Bắc và Sài Gòn, 20 tháng 4 -29, RG 59, NA. Tôi cảm ơn William Burr
về tài liệu này. Điện tín của Đại sứ quán tại Việt Nam gửi Bộ Ngoại
giao Sài Gòn, ngày 4 tháng 5 năm 1964, trong FRUS 1964-68 1: 286.
[16] Bản ghi nhớ của Chủ tịch Nhóm công tác NSC (W. Bundy)
gửi Bộ trưởng Ngoại giao, ngày 24 tháng 11 năm 1964, FRUS, 1964-68,
1:941.
[17] Kaiser, Bi kịch Mỹ, tr. 366-7.
[18] Như trên, tr. 360.
[19] PP, Tập. III, tr. 238.
[20] PP, Tập. III, tr. X
[21] Kaiser, Bi kịch nước Mỹ, tr. 378. Chương 12 của
Kaiser cung cấp một phân tích mở rộng về quá trình ra quyết định
đằng sau báo cáo này.
[22] Đến đầu năm 1963, số lượng triển khai vũ khí hạt nhân
trên đất liền của Mỹ tới Guam, Okinawa, Philippines và Đài Loan đã
tăng lên khoảng 2400, tăng 66% so với mức năm 1961. Kho dự trữ trên
bờ ở Thái Bình Dương đạt đỉnh điểm khoảng 3.200 vũ khí vào giữa năm
1967, trong đó có 2.600 chiếc ở Hàn Quốc và Okinawa, và bắt đầu giảm
sau đó. Robert Norris, William Arkin và William Burr, Họ ở đâu, Bản
tin của các nhà khoa học nguyên tử (tháng 11-tháng 12 năm 1999),
trang 30-31.
[23] Lịch sử chỉ huy CINCPAC năm 1963, 1964, 1966. Tôi rất
biết ơn Viện Nautilus đã cung cấp các bản sao của những tài liệu
này.
[24] PP, Tập. III, trang 636, 639.
[25] Ted Gittinger, ed., The Johnson Years: A Vietnam
Roundtable (Austin, Tex: Thư viện Lyndon Baines Johnson: Trường Công
vụ Lyndon B. Johnson), tr. 64.
[26] Bản ghi nhớ từ JCS gửi McNamara, ngày 22 tháng 1 năm
1964, được trích dẫn trong McNamara, In Retrospect, trang 107-110;
Bản ghi nhớ của SecDef gửi Taylor, ngày 21 tháng 2 năm 1964; Bản ghi
nhớ từ JCS gửi McNamara, ngày 2 tháng 3 năm 1964, và Bản ghi nhớ từ
SecDef gửi Tổng thống, ngày 16 tháng 3 năm 1964, trong FRUS 1964-68,
1:97-99, 112-118, 153-167.
[27] Biên bản cuộc gặp với Tổng thống Johnson, Washington,
DC, ngày 17 tháng 2 năm 1965. FRUS, 1964-68, 2:305.
[28] Cùng nguồn, FRUS, 1964-68, 2:305. Vào tháng 5 năm
1962, Eisenhower cũng đã khuyến nghị với Kennedy việc sử dụng vũ khí
hạt nhân trong cuộc khủng hoảng ở Lào.
[29] Biên bản đối thoại giữa Ngoại trưởng Rusk và Thủ
tướng Khánh, Sài Gòn, 18/4/1964. FRUS, 1964-68, 1:244.
[30] Điện tín từ Bộ trưởng Ngoại giao gửi Bộ Ngoại giao,
Honolulu, ngày 1 tháng 6 năm 1964. FRUS, 1964-68, 1:410.
[31] Xem Chương 5 và 6. David Kaiser lập luận rằng
Eisenhower đã chứng tỏ trong cuộc họp rằng ông đã được thông báo đầy
đủ về chính sách của chính quyền và cơ sở lý luận của nó. Kaiser, Bi
kịch Mỹ, tr. 403.
[32] Dean Rusk gửi Tổng thống, ngày 23 tháng 2 năm 1965,
Triển khai, tập. 2, tab 61-87, NSCH, Box 40, NSF, LBJL, trích dẫn
trong McNamara, In Retrospect, p. 173.
[33] Cuộc họp Ban chấp hành NSC, Washington, DC, ngày 24
tháng 5 năm 1964, FRUS, 1964-68, 1:371.
[34] Bản ghi nhớ đối thoại, Bữa tối thư ký của Bộ trưởng
Ngoại giao Rumani Manescu, Washington, DC, 14/10/1965, FRUS,
1964-68, 3:455-6.
[35] Lịch sử bi thảm của Rusk về vấn đề Triều Tiên chắc
chắn đã ảnh hưởng đến những quan điểm này. Chính trong sự giám sát
của ông với tư cách là Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao về các vấn đề
Viễn Đông, cuộc tấn công bất ngờ của Trung Quốc qua sông Áp Lục vào
tháng 11 năm 1950 đã xảy ra. Rusk bị ám ảnh bởi điều này suốt cuộc
đời. Vì lẽ đó, ông có khuynh hướng coi mọi vấn đề của chủ nghĩa cộng
sản ở châu Á là mối đe dọa xâm lược từ phương Bắc, và mù quáng không
nhìn nhận vấn đề ở miền Nam là phong trào phản kháng nội bộ, không
ngăn chặn sự xâm lược của Bắc Việt.
[36] George Ball, Các giả định làm nền tảng cho chính sách
Việt Nam của chúng ta có giá trị đến mức nào? bản ghi nhớ, ngày 5
tháng 10 năm 1964. In lại trên tờ The Atlantic Monthly, tháng 7 năm
1972, trang 41-42. Nhấn mạnh thêm.
[37] Quả bóng, giá trị thế nào? P. 43.
[38] Bản ghi nhớ của Phó Tổng thống Humphrey gửi Tổng
thống Johnson, Washington, ngày 17 tháng 2 năm 1965. FRUS, 1964-68,
2:311. Trên thực tế, chính quyền Eisenhower không loại trừ khả năng
xảy ra chiến tranh với Trung Quốc vào năm 1953. Xem Chương 5.
[39] PP, Tập. III, tr. 175.
[40] Trích trong bản ghi nhớ của Walt Rostow gửi Ngoại
trưởng Rusk, ngày 23 tháng 11 năm 1964. PP, Tập. III, tr. 645. Xem
thêm Ước tính Tình báo Quốc gia Đặc biệt, SNIE 50-2-64, Washington,
25 tháng 5 năm 1964, FRUS, 1964-68, 1:380.
[41] Chen Jian, “Sự tham gia của Trung Quốc vào Chiến
tranh Việt Nam, 1964-69, The China Quarterly, Số 142 (tháng 6 năm
1995), trang 366-7; Kaiser, Bi kịch Mỹ, trang 439-40.
[42] Herring, Cuộc chiến tranh dài nhất nước Mỹ, trang 5,
46.
[43] Cả Ball và McNamara kể từ đó đều tuyên bố rằng họ đã
đánh giá quá cao nguy cơ chiến tranh với Trung Quốc. Trong hồi ký
năm 1982 của mình, Ball thừa nhận rằng, nhìn lại, ông đã phóng đại
nguy cơ về mối đe dọa từ Trung Quốc và khả năng tham gia chiến
tranh, nhưng vào thời điểm đó chúng ta hầu như không biết gì về
những gì đang diễn ra trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc.
George W. Ball, Quá khứ có khuôn mẫu khác: Hồi ký (New York: Norton,
1982), tr. 505, fn. 10. McNamara sau này đã mô tả sự đánh giá hoàn
toàn không chính xác về mối đe dọa của Trung Quốc đối với an ninh
của chúng ta nhưng đó là quan điểm được chia sẻ rộng rãi giữa các
quan chức hàng đầu. McNamara, Nhìn lại, trang 218-19.
[44] FRUS 1964-68, 2:94, 96.
[45] Bản ghi nhớ của Quyền Bộ trưởng Ngoại giao Ball gửi
Tổng thống Johnson, ngày 13 tháng 2 năm 1965. FRUS, 1964-68, 2:255.
[46] Trích từ Cuộc trò chuyện giữa Bộ trưởng Rusks với
Tổng thống Tưởng Giới Thạch, ngày 16 tháng 4 năm 1964. Tại
http://www.seas.gwu.edu/nsarchive/coldwar/documents.
[47]Cuộc họp NSC lần thứ 528, ngày 22 tháng 4 năm 1964.
FRUS, 1964-68, 1:258; Giấy tờ Lầu Năm Góc, Tập. III, tr. 65.
[48] Điện tín từ Bộ trưởng Ngoại giao gửi Bộ Ngoại giao,
Honolulu, ngày 1 tháng 6 năm 1964, FRUS, 1964-68, 1:410.
[49] Rusk gặp Đại sứ Alphond, Đại sứ quán Pháp, 20/7/1964.
FRUS, 1964-68, 1:557.
[50] Bản ghi nhớ cuộc trò chuyện giữa Tổng thống Johnson
và Thủ tướng Pearson, Khách sạn Hilton, NY, ngày 28 tháng 5 năm
1964. FRUS, 1964-68, 1:395; Điện tín của Bộ trưởng Ngoại giao gửi Bộ
Ngoại giao, Honolulu, ngày 1 tháng 6 năm 1964, Ibid, tr. 410.
[51] Lyndon Johnson, The Vantage Point: Perspectives of
the Presidency, 1963-1969 (New York: Holt, Rinehart và Winston,
1984, 1971).
[52] Bundy, Nguy hiểm và Sống sót, tr. 537; Robert
McNamara, Vai trò quân sự của vũ khí hạt nhân: Nhận thức và nhận
thức sai lầm, Đối ngoại, Tập. 3 (Mùa thu 1983), trang 58-80.
[53] Theodore H. White, Sự hình thành của Tổng thống 1964
(New York: Nhà xuất bản Athenaeum, 1965), tr. 311
[54] Bundy, Nguy hiểm và Sống sót, tr. 537.
[55] Như trên, tr. 538.
[56] Xem Morton Halperin, “Đề xuất cấm sử dụng vũ khí hạt
nhân,” Viện phân tích quốc phòng, Nhóm nghiên cứu đặc biệt, Bản ghi
nhớ nghiên cứu số. 4 (Wash. DC: IDA, 1961); Thornton Read, Đề xuất
vô hiệu hóa vũ khí hạt nhân (Princeton: Trường Woodrow Wilson,
1961); Robert Tucker, Đề xuất không sử dụng vũ khí hạt nhân lần đầu
(Princeton: Trường Woodrow Wilson, 1963).
[57] Walt W. Rostow, Sự khuếch tán quyền lực (New York:
MacMillan, 1972), tr. 175.
[58] Fred Kaplan, The Wizards of Armageddon (New York:
Touchstone, 1983), trang 270-72. Nhà vật lý Herbert York, nhà tư vấn
vũ khí cho chính phủ, người đi cùng McNamara trong chuyến đi tới
SAC, kể lại rằng các vị khách cũng rất ấn tượng, kinh ngạc và thậm
chí choáng váng như ông khi lần đầu tiên nghe báo cáo về kế hoạch
chiến tranh một năm trước đó. Herbert York, Chế tạo vũ khí, Nói
chuyện hòa bình (New York: Basic Books, 1987) trang 185, 204.
[59] York, Chế tạo vũ khí, tr. 204. Kaufmann, Chiến lược
McNamara, Ch. 2.
[60] McNamara gửi Chủ tịch JCS, ngày 10 tháng 2 năm 1961,
Phụ lục A, đính kèm trong JCS 2101/408, CCS 3001 Chính sách An ninh
Quốc gia Cơ bản (10 tháng 2 năm 1961), RG 218, NA, như được trích
dẫn trong Marc Trachtenberg, The Berlin Crisis, trong Trachtenberg,
Lịch sử và Chiến lược (Princeton, NJ: Nhà xuất bản Đại học
Princeton, 1991), tr. 220.
[61]McNamara, Vai trò quân sự của vũ khí hạt nhân, và
McNamara, Nhìn lại.
[62]Ellsberg, Bí mật, trang 57, 59.
[63] Như trên. trang 59, 60.
[64] Ball, Quá khứ có hình mẫu khác, tr. 384.
[65] Dean Rusk, Như tôi đã thấy (New York: WW Norton &
Co., 1990), tr. 457.
[66] Điện tín từ Bộ trưởng Ngoại giao gửi Bộ Ngoại giao,
Honolulu, ngày 1 tháng 6 năm 1964, FRUS, 1964-68, 1:410.
[67] Rusk, Như tôi đã thấy, tr. 248.
[68] Như trên, tr. 366.
[69] Bundy, Nguy hiểm và Sống sót, tr. 537.
[70] Quả bóng, Hiệu lực thế nào, tr. 42.
[71] Như trên, tr. 42.
[72] Bản ghi nhớ nói chung đã có ảnh hưởng quan trọng đến
việc William Bundy soạn thảo các giấy tờ tùy chọn vào tháng sau,
trong đó phương án C ít nhiều tuân theo các lập luận của Ball về
chiến lược Việt Nam. Kaiser, Bi kịch Mỹ.
[73] Krock Papers, Thư viện Mudd, Hộp 1, trích dẫn trong
Kaiser, American Tragedy, p. 432
[74] Cùng nguồn, trang New York Times, 25-4-1965, tr. 1;
Ngày 27 tháng 4 năm 1965, tr. 1,36.
[75] Bản ghi nhớ của Trợ lý Đặc biệt của Tổng thống về các
vấn đề An ninh Quốc gia (Bundy) gửi Bộ trưởng Quốc phòng McNamara,
ngày 30 tháng 6 năm 1965, FRUS, 1964-68, 3:91.
[76] McNamara, Nhìn lại, tr. 194.
[77] LBJ, các cuộc trò chuyện được ghi âm, phát hành năm
1995, như được trích dẫn trong Kaiser, American Tragedy, p. 433.
[78] Ilya Gaiduk, Liên Xô và Chiến tranh Việt Nam
(Chicago: Ivan R. Dee, 1996), tr. 73.
[79] Như trên, tr. 47.
[80] Samuel Cohen, Sự thật về bom neutron (New York:
Morrow, 1983), tr. 95, 84.
[81] Thomas Allen, Trò chơi chiến tranh (New York: McGraw
Hill, 1987), trang 193-206.
[82]New York Times, ngày 27 tháng 5 năm 1964, tr. 1.
[83] Lawrence Wittner, Chống bom: Lịch sử Phong trào Giải
trừ Vũ khí Hạt nhân Thế giới, 1954-1970 (Stanford: Nhà xuất bản Đại
học Stanford, 1998), tr. 438.
[84] McNamara, Nhìn lại, tr. 150.
[85] Johnson nhận được 61,1% số phiếu phổ thông và 90% số
phiếu đại cử tri. White, Quá trình hình thành Tổng thống 1964, trang
315-16.
[86] Cohen, Sự thật về bom neutron, tr. 84.
[87] Như trên, tr. 93.
[88] Cùng nguồn, trang 93-94.
[89] Bản ghi nhớ cho Rostow từ Robert Ginsburgh, ngày 12
tháng 9 năm 1967. Thư mục: Robert S. McNamara–SEA,NSF, Files of Walt
Rostow, Box 3, LBJL, p. 2.
[90] McNamara, Nhìn lại, tr. 275, trích dẫn JCSM-286-67,
Bản ghi nhớ của Bộ trưởng Quốc phòng, Chủ đề: Hoạt động chống lại
Bắc Việt, ngày 20 tháng 5 năm 1967; vàJSM-288-67, Bản ghi nhớ gửi Bộ
trưởng Quốc phòng: Chủ đề: Tình hình Quân sự Hoa Kỳ trên toàn thế
giới, ngày 20 tháng 5 năm 1967, CF, VN, NSF, LBJL.
[91] McNamara, Nhìn lại, trang 160-61, 275.
[92]Để biết thêm về Jasons, xem Gregg Herken, Cardinal
Choices: President Science Advisor from the Atomic Bomb to SDI (New
York: Oxford University Press, 1992), trang 152-56.
[93] Freeman Dyson, Bình luận về Báo cáo của Jason, ngày 8
tháng 1 năm 2003.
[94] Steven Weinberg, liên lạc với Peter Hayes, ngày 25
tháng 12 năm 2002.
[95]Freeman Dyson, Làm xáo trộn vũ trụ (New York: Sách cơ
bản, 1979), tr. 149.
[96] Dyson, Bình luận về Báo cáo của Jason.
[97] Weinberg, giao tiếp.
[98] Dyson, Làm xáo trộn vũ trụ, tr. 149.
[99] F. Dyson, R. Gomer, S. Weinberg và SC Wright, “Vũ khí
hạt nhân chiến thuật ở Đông Nam Á,” Nghiên cứu S-266, Phân khu
Jason, DAHC 15-67C-0011, Washington, DC, tháng 3 năm 1967 ( sau đây
là Báo cáo của Jason). Được giải mật vào tháng 12 năm 2002. Tôi biết
ơn Peter Hayes của Viện Nautilus vì đã cung cấp một bản sao của nó
và nỗ lực suốt 19 năm của ông để nó được giải mật.
[100] Như trên, tr. 2.
[101] Như trên, tr. 4.
[102] Như trên, tr. 12.
[103] Như trên, tr. 25.
[104] Như trên, trang 4, 15..
[105] Như trên, tr. 4.
[106] Như trên, tr. 4.
[107] Như trên, tr. 46.
[108] Như trên, tr. 47.
[109] Như trên, tr. 7.
[110] Như trên, tr. 49.
[111] Như trên, tr. 50.
[112] Như trên, tr. 50.
[113] Như trên, tr. 51.
[114] Phỏng vấn tác giả, Austin, TX, ngày 2 tháng 12 năm
1998.
[115] Jason Division: Các chuyên gia tư vấn của Division
cũng là giáo sư bị tấn công, Khoa học, ngày 2 tháng 2 năm 1973, tr.
461.
[116] Dyson, Làm xáo trộn vũ trụ, tr. 149.
[117] Seymour Deitchman, Bình luận về báo cáo của JASON,
ngày 25 tháng 2 năm 2003.
[118] Trao đổi với tác giả, 3-3-2003.
[119] Giấy tờ Walt Rostow, Giấy tờ Tom Johnson, LBJL.
[120] Bản ghi nhớ gửi Tướng Wheeler từ Robert N.
Ginsburgh, ngày 31 tháng 1 năm 1968, NSF, Walt Rostow Papers, Box 7,
LBJL.
[121] Bản ghi nhớ của Walt Rostow gửi Tổng thống Johnson,
ngày 3 tháng 2 năm 1968. NSF, Rostow, Hộp 7, LBJL.
[122] Tướng Wheeler gửi Tướng Westmoreland và Đô đốc Sharp
(JCS 01154), ngày 1 tháng 2 năm 1968, Hồ sơ NS, Lịch sử NSC, Bài
phát biểu ngày 31 tháng 3, Tập 2, Hộp 47, LBJL.
[123] Cable from General Sharp to General Wheeler (JCS
01154), 2/2/1968, NSF, NSC Histories, Bài phát biểu ngày 31 tháng 3,
Tập 2, hộp 47, LBJL.
[124] Bản ghi nhớ viết tay của Robert Ginsburgh gửi Walt
Rostow, truyền các bản sao của cáp Wheeler. Không ghi ngày tháng
nhưng đôi khi trước ngày 10 tháng 2 năm 1968. Ngoài ra Bản ghi nhớ
của Walt Rostow gửi Tổng thống, ngày 10 tháng 2 năm 1968. Cả hai đều
có trong NSF, Rostow, Box 7, LBJL.
[125] Bản ghi nhớ gửi Tổng thống từ Walt Rostow, ngày 2
tháng 2 năm 1968. NSF, Rostow, Hộp 7, LBJL.
[126] Bản ghi nhớ gửi Tổng thống của Tướng Wheeler, ngày 3
tháng 2 năm 1968, CM-2944-68, NSF, Lịch sử NSC, Bài phát biểu ngày
31 tháng 3, Tập. 6, Khe Sanh báo cáo, AS, Hộp 48, LBJL. John Prados
và Ray W. Stubbe, Thung lũng Quyết định: Cuộc vây hãm Khe Sanh
(Boston: Houghton Mifflin, 1991), tr. 291.
[127] Bản ghi nhớ của Walt Rostow gửi Tổng thống Johnson,
ngày 3 tháng 2 năm 1968. NSF, Rostow, Hộp 7, LBJL.
[128] David M., Barrett, ed., Lyndon B. Johnsons Vietnam
Papers (College Station: Texas A&M University Press, 1997), p. 722.
[129] William C. Westmoreland, Báo cáo của một người lính
(Garden City, NY: Doubleday, 1976), tr. 338.
[130] Washington Post, ngày 12 tháng 2 năm 1968.
[131] Wheeler nghi ngờ Khe Sanh sẽ cần vũ khí nguyên tử,
New York Times, 15/02/1968.
[132] Fulbright và Rusk xung đột trên Atom Talk,
Washington Post, 17 tháng 2 năm 1968.
[133] Tin đồn về việc sử dụng vũ khí nguyên tử được các
chuyên gia Asian Trips khuấy động, New York Times, ngày 11 tháng 2
năm 1968. Các nhà khoa học là Richard Garwin của Đại học Columbia,
Henry Kendall của MIT và Stanford, Julius P. Molnar của Phòng thí
nghiệm Điện thoại Bell, và David Israel của Bộ Quốc phòng.
[134] Sử dụng A-Arm được gọi là Lunacy của Wilson,
Washington Post, ngày 12 tháng 2 năm 1968.
[135] Như trên.
[136] Thư gửi Tổng thống của Nghị sĩ Charles Bennett, ngày
31 tháng 1 năm 1968, và Thư gửi Charles Bennett từ Barefoot Sanders,
ngày 1 tháng 2 năm 1968. NSF, Country File, Vietnam, Box 102,
Folder: Vietnam 7F (2)b, 12/67-3/68, Quan điểm và Tuyên bố của Quốc
hội [1 trên 2], LBJL.
[137] Công văn của các Tổng thống: Lyndon B. Johnson,
1968-69, Quyển I (Washington, DC: GPO, 1970), tr. 234.
[138] Washington Post, ngày 10 tháng 2 năm 1968. Hai ngày
trước đó, Johnson đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ ký nghị định thư liên
quan đến hiệp ước tạo ra một khu vực không có vũ khí hạt nhân ở Mỹ
Latinh. Nó cam kết Hoa Kỳ không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ khí
hạt nhân chống lại bất kỳ quốc gia Mỹ Latinh nào tham gia hiệp ước.
Public Papers, Tuyên bố của Tổng thống về Hiệp ước cấm vũ khí hạt
nhân ở châu Mỹ Latinh, ngày 14 tháng 2 năm 1968, tr. 223.
[139]Ellsberg, Bí mật, tr. 201.
[140] Bản ghi nhớ của Robert McNamara gửi Tổng thống
Johnson, ngày 19 tháng 2 năm 1968. NSF, Rostow, Hộp 7, LBJL; Ghi chú
cuộc họp của Tom Johnson, Thư mục: Ngày 20 tháng 2 năm 1968–1:05
chiều–Bữa trưa thứ Ba.
[141] Washington Post, ngày 10 tháng 2 năm 1968. Nhấn mạnh
thêm.
[142] Việc sử dụng vũ khí hạt nhân là lời mời dẫn đến thảm
họa, Washington Post, ngày 9 tháng 3 năm 1968.
[143] Tóm tắt các Ghi chú của M. Bundy liên quan đến cuộc
họp của Wise Men, ngày 26 tháng 3 năm 1968. Hồ sơ Ghi chú Cuộc họp,
Nhóm Cố vấn Đặc biệt, Hộp 2, LBJL.
[144] Westmoreland, Báo cáo của một người lính, tr. 340.
[145] Herring, Cuộc chiến dài nhất nước Mỹ, tr. 205.
[146] Bản ghi nhớ gửi Tổng thống của Walt Rostow, ngày 2
tháng 2 năm 1968; và Bản ghi nhớ dành cho Chủ tịch, JCS, Chuyển phát
một số loại bom, đạn phân mảnh có kiểm soát (COFRAM), vào Đông Nam
Á, cả trong NSF, Lịch sử NSC, Bài phát biểu ngày 31 tháng 3, Hộp 47,
LBJL. Prados và Stubbe, Thung lũng Quyết định, trang 293-4.
[147] Thomas W. Graham, Ý kiến của công chúng Mỹ về
NATO, Răn đe mở rộng và sử dụng vũ khí hạt nhân: Phân hạch trong
tương lai? CSIA Thỉnh thoảng Paper số 4 (Trung tâm Khoa học và Quan
hệ Quốc tế, Trường Chính phủ Kennedy, Nhà xuất bản Đại học Harvard
của Mỹ, 1989), trang 14-15. Nghiên cứu của Graham, dựa trên kết quả
của hơn 90 cuộc khảo sát dư luận, một số chưa bao giờ được công bố,
là phân tích toàn diện nhất về thăm dò dư luận về vũ khí hạt nhân
trong Chiến tranh Lạnh. Để có sự so sánh chi tiết về dư luận trong
cuộc chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam, xem John Mueller, War,
Presidents and Public Opinion (New York: John Wiley & Sons, 1973).
[148] Graham, Ý kiến công chúng Mỹ, tr. 14.
[149] Mueller, Chiến tranh, các Tổng thống và Ý kiến
Công chúng, tr. 105.
[150] Graham, Ý kiến công chúng Mỹ, tr. 15.
[151] Tàn lụi, bỏ lỡ cơ hội?, tr. 88.
[152] HR Haldeman với Joseph DiMona, The Ends of Power
(New York: Times Books, 1978), trang 82-83. Về lý thuyết người điên
của Nixon, xem Jeffrey Kimball, Nixons Vietnam War (Lawrence:
University of Kansas Press, 1998), Ch. 4.
[153] Vào tháng 3 năm 1955, tờ New York Times đưa tin rằng
Nixon đã cảnh báo Cộng sản Trung Quốc một cách thẳng thắn nhất rằng
họ sẽ phải đối mặt với vũ khí nguyên tử nếu họ bắt tay vào bất kỳ
cuộc xâm lược mới nào…[và] một cuộc chiến nổ ra ở Thái Bình Dương
….Chất nổ nguyên tử chiến thuật hiện nay đã trở thành thông thường
và sẽ được sử dụng để chống lại các mục tiêu của bất kỳ thế lực hung
hãn nào….New York Times, ngày 13 tháng 3 năm 1955.
[154] Ball, Quá khứ có hình mẫu khác, tr. 410.
[155] Roger Morris, Sự vĩ đại không chắc chắn: Henry
Kissinger và Chính sách đối ngoại của Mỹ (New York: Harper & Row,
1977), tr. 154.
[156] What the President Saw: A Nation Coming to its Own,
Time, 29 tháng 7 năm 1985, 48-53. “Nixon nói rằng ông ấy đã cân nhắc
việc sử dụng vũ khí nguyên tử trong 4 lần,” New York Times ngày 22
tháng 7 năm 1985. Ba lần còn lại là trong Chiến tranh Yom Kippur năm
1973, sự gia tăng tranh chấp biên giới giữa Liên Xô và Trung Quốc
(ông ấy đã đưa ra lời đe dọa hạt nhân ngụ ý) và cuộc chiến tranh Ấn
Độ-Pakistan năm 1971.
[157] “Phỏng vấn Henry A. Kissinger: Chúng ta chưa bao giờ
tiến gần đến chiến tranh hạt nhân, Washington Post, ngày 11 tháng 8
năm 1985.
[158]Stephen Ambrose, Nixon: The Triumph of a Politician,
1962-1962, (New York: Simon and Schuster, 1989), tr. 223.
[159] Richard M. Nixon, No More Vietnams (New York: Arbor
House, 1985), tr. 102; Richard M. Nixon, RN: Hồi ký của Richard
Nixon (New York: Grosset và Dunlap, 1978) trang 347-8.
[160] Richard M. Nixon, Cần thiết ở Việt Nam: Ý chí chiến
thắng, Readers Digest, tháng 8 năm 1964, trang 37-43.
[161] William Bundy, Một trang web rối rắm: Việc hoạch
định chính sách đối ngoại dưới thời Tổng thống Nixon (New York: Hill
và Wang, 1998), tr. 15.
[162] Ambrose, Nixon, tr. 193.
[163] Kissinger, Vũ khí hạt nhân và chính sách đối ngoại.
[164] US News and World Report, tháng 3 năm 1976.
[165] Terry Terriff, Chính quyền Nixon và việc xây dựng
chiến lược hạt nhân của Hoa Kỳ (Ithaca: Nhà xuất bản Đại học
Cornell, 1995), trang 54-60.
[166] Kimball, Chiến tranh Việt Nam của Nixon, tr. 117;
Terriff, Chính quyền Nixon, trang 52-53; 60-69.
[167] SM-71-69, Hồ sơ đặc biệt Haig, Hồ sơ Việt Nam (tháng
1-tháng 3 năm 1969), Hộp 1007, Hồ sơ NSC, NPMP.
[168] Bản ghi nhớ của Kissinger từ Haig, ngày 2 tháng 3
năm 1969, và Bản ghi nhớ của Kissinger từ Laird, ngày 21 tháng 2 năm
1969, Hồ sơ đặc biệt của Haig, Hồ sơ Việt Nam (tháng 1 đến tháng 3
năm 1969), Hộp 1007, Hồ sơ NSC, NPMP.
[169] Bản ghi nhớ cho Laird từ Kissinger, ngày 3 tháng 3
năm 1969, Hồ sơ đặc biệt Haig, Hồ sơ Việt Nam (tháng 1-tháng 3 năm
1969), Hộp 1007, Hồ sơ NSC, NPMP.
[170] Để thảo luận về điều mà nhà sử học Jeffrey Kimball
gọi là trình tự thời gian không trung thực của Kissinger về sự phát
triển của kế hoạch này trong hồi ký của ông, và nỗ lực cẩn thận để
xây dựng lại trình tự thời gian chính xác, xem Kimball, Nixon's
Vietnam War, trang 159-165. Kissinger ngụ ý rằng việc lập kế hoạch
chỉ bắt đầu vào tháng 9 và tháng 10 (chứ không phải sớm nhất là vào
tháng 4). Sự ủng hộ của ông đối với kế hoạch dường như lớn hơn những
gì ông tiết lộ trong hồi ký của mình.
[171] Seymour Hersh, Cái giá của quyền lực: Kissinger
trong Nhà Trắng Nixon (New York: Summit Books, 1983), tr. 120.
Kimball, Chiến tranh Việt Nam của Nixon, tr. 164.
[172] Cùng nguồn, trang 128-9. HR Haldeman, Nhật ký
Haldeman: Bên trong Nhà Trắng Nixon (G. Putnams Sons, 1994), trang
69-70, 83.
[173] William Burr và Jeffrey Kimball, Cảnh báo hạt nhân
bí mật của Nixon: Ngoại giao chiến tranh Việt Nam và bài kiểm tra
mức độ sẵn sàng của Tham mưu trưởng liên quân, tháng 10 năm 1969,
Lịch sử Chiến tranh Lạnh, 2/3 (tháng 1 năm 2003).
[174] Nhóm Tháng Chín, như một số người gọi nó, bao gồm
Anthony Lake, Winston Lord, Laurence Lynn, Roger Morris, Peter
Rodman, Helmut Sonnenfeldt, William Watts, Đại tá Alexander Haig,
Đại tá William Lemnitzer, và Đại úy Rembrandt C. Robinson . Kimball,
Chiến tranh Việt Nam của Nixon, trang 163.
[175] Henry Kissinger, Những năm ở Nhà Trắng (Boston:
Little, Brown, 1979), tr. 284.
[176] Kimball, Chiến tranh Việt Nam của Nixon, tr. 163.
[177] Lập kế hoạch Dự phòng ở Việt Nam: Khái niệm Hoạt
động, ngày 16 tháng 9 năm 1969. Tôi cảm ơn Jeffrey Kimball đã chia
sẻ tài liệu này.
[178] Tad Szulc, Ảo tưởng về hòa bình: Chính sách đối
ngoại trong những năm Nixon (New York: Viking Press, 1978), tr. 150.
Theo các cuộc phỏng vấn của Szulcs, Kissinger tiếp tục nói: Nhóm này
sẽ có nhiệm vụ xem xét khả năng tung ra một đòn quyết định, dã man
chống lại Bắc Việt Nam về mặt quân sự. Bạn phải bắt đầu mà không có
bất kỳ định kiến nào cả. Bạn phải ngồi xuống và vạch ra xem đâu sẽ
là một đòn quyết định và dã man. Bạn phải xem xét lựa chọn từ mọi
góc độ, bạn phải xem xét từng chi tiết về cách nó sẽ được thực hiện
về mặt quân sự, kịch bản chính trị sẽ như thế nào. Như trên, tr.
150.
[179] Như trên, tr. 151.
[180] Như trên, tr. 153.
[181] Như trên, tr. 152.
[182] Hersh, Giá quyền lực, tr. 98. Winston Lord nói với
Jeffrey Kimball trong một cuộc phỏng vấn năm 1994 rằng ông không tin
vào ý kiến cho rằng vũ khí hạt nhân được xem xét. Kimball, Chiến
tranh Việt Nam của Nixon, tr. 163.
[183] Hersh, Giá quyền lực, tr. 129.
[184] Để biết thông tin đầy đủ, xem Burr và Kimball, Cảnh
báo hạt nhân bí mật của Nixon.
[185] Nixon, Hồi ký, trang 403-5. Nixon và Kissinger sau
đó đều hối hận vì đã lùi bước, cho rằng lẽ ra họ nên bắt đầu các
hoạt động ném bom tích cực vào miền Bắc Việt Nam sớm hơn nhiều, vào
tháng 2 năm 1969. Kimball, Nixons Vietnam War, tr. 173.
[186] Morris, Sự vĩ đại không chắc chắn, trang 165-6.
Morris là nhân viên của NSC đã từ chức năm 1970 sau vụ đánh bom bí
mật vào Campuchia.
[187] Hersh, Giá quyền lực, tr. 128; Morris, Sự vĩ đại
không chắc chắn, tr. 165; Kimball, Chiến tranh Việt Nam của Nixon,
tr. 164.
[188] Kimball, Chiến tranh Việt Nam của Nixon, tr. 145.
[189] Ambrose, Nixon, tr. 301; Bundy, Một trang web rối
rắm, tr. 80.
[190] Hersh, Giá quyền lực, tr. 129.
[191] Ellsberg, Bí mật, tr. 233.
[192] Hersh, Cái giá của quyền lực, tr. 129.
[193] Herkken, Cố vấn chiến tranh, tr. 17.
[194] White House Tapes, 25/04/1972, EOB Tape 332-25,
NPMP.
[195] Nhật ký Haldeman. Trích dẫn từ White House Tapes,
ngày 2 tháng 5 năm 1972, Cuộc trò chuyện tại Phòng Bầu dục, 717-20,
NPMP.
[196] Băng Nhà Trắng, ngày 4 tháng 5 năm 1972, Băng EOB
334-44, NPMP.
[197] Băng ghi âm của Nhà Trắng, ngày 5 tháng 5 năm 1972.
[198] Bản ghi nhớ về hồ sơ của Tổng thống (Chỉ dành cho
những đôi mắt bí mật), “Cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia,”
ngày 8 tháng 5 năm 1972, NPMP, Hồ sơ NSC, Hộp 998, Haig Memcons
(tháng 1-tháng 12 năm 1972), tr.10 .
[199] Alexander M. Haig, Jr. Vòng tròn bên trong: Nước Mỹ
đã thay đổi thế giới như thế nào: Một cuốn hồi ký. New York: Warner
Books, 1992), tr. 28.
[200] Như trên, tr. 554.
[201] Henry Kissinger, Ngoại giao (New York: Simon &
Schuster, 1994), trang 607-8.
[202] Peter Hayes, Pacific Powderkeg: Những vấn đề nan
giải hạt nhân của Mỹ ở Hàn Quốc (Lexington, MA: Lexington Books,
1991), p. 42.
[203] Robert S. McNamara, James G. Blight và Robert K.
Brigham, Lập luận không có hồi kết (New York: Public Relations,
1999), p. 407.
[204] Henry Kissinger, Những năm ở Nhà Trắng (Boston:
Little, Brown, 1979) trang 66-67.
VỀ CƠ BẢN BỊ TIÊU DIỆT
Về cơ bản bị tiêu diệt: Bối cảnh
Khám phá FOIA & Làm thế nào Nautilus có được câu chuyện
Dự án Công bố Toàn cầu: Danh sách Tài liệu
Tuyên bố của Thượng nghị sĩ Dianne Feinstein về Nghiên cứu
năm 1967 phân tích tính khả thi của việc sử dụng vũ khí hạt nhân
chiến thuật trong chiến tranh Việt Nam
Về cơ bản bị tiêu diệt: Thông cáo báo chí
Về cơ bản bị tiêu diệt: Phỏng vấn báo chí
Về cơ bản bị tiêu diệt: Tin tức truyền thông
Về cơ bản bị tiêu diệt: Phản ứng từ Việt Nam
Tóm tắt: Vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Đông Nam Á
Quân nổi dậy: Ngày ấy và bây giờ
Phỏng vấn Daniel Ellsberg
Vũ khí hạt nhân và chiến tranh Việt Nam
Vũ khí hạt nhân chiến thuật năm 1966
Hướng tới Đường mòn Hồ Chí Minh
Về cơ bản bị tiêu diệt: JASON là gì?
Bình luận của các tác giả (The JASONs) về vũ khí hạt nhân
chiến thuật ở Đông Nam Á
JASON là gì? Tác giả Freeman Dyson
JASON là gì? Tác giả Robert Gomer
JASON là gì? Tác giả S. Courtenay Wright
JASON là gì? Tác giả Steven Weinberg
Các lập luận của JASON có còn hiệu lực không?
Tài khoản của người trong cuộc: Seymour Deitchman
Vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Đông Nam Á
Những trích dẫn chính từ vũ khí hạt nhân chiến thuật ở
Đông Nam Á
Op-Ed: Một ý tưởng tồi ở Việt Nam, một ý tưởng thậm chí
còn tệ hơn ngày nay
Op-Ed: Lập trường hợp chống lại tai họa
Viện Nautilus
2342 Shattuck Ave. #300, Berkeley, CA 94704 | Điện thoại:
(510) 423-0372 | Email: nautilus@nautilus.org
https://themessenger.com/opinion/democrats-2024-magic-bullet-mass-mail-in-voting
https://asiatimes.com/2023/09/stage-set-for-a-disagreeable-asean-summit-in-jakarta/
https://asiatimes.com/2023/08/recommitting-totaiwan-chipmaker-tsmc-eyes-rd-lead/
https://asiatimes.com/2023/08/intel-expands-in-china-despite-sanctions/
https://asiatimes.com/2023/09/china-bans-iphone-while-touting-huaweis-mate60-pro/
https://asiatimes.com/2023/09/us-drone-swarm-program-could-redefine-modern-war/
https://asiatimes.com/2023/09/chinas-terahertz-tech-heralds-the-future-of-underwater-war/
https://asiatimes.com/2023/09/economic-growth-in-g7-versus-brics-a-reality-check/
https://asiatimes.com/2021/06/brics-could-be-the-worlds-economic-beacon/
https://asiatimes.com/2023/08/china-claims-breakthrough-in-us-nuke-sub-detection/
https://fortune.com/well/2023/09/09/g20-summit-india-covid-super-spreader-event-sanchez-biden/?
https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0304387810000817
https://www.koreatimes.co.kr/www/nation/2023/09/113_358761.html
https://www.scmp.com/news/china?module=oneline_menu_section_int&pgtype=author
https://storymaps.arcgis.com/stories/2eae918ca40a4bd7a55390bba4735cdb
https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_bombing_campaigns_of_the_Vietnam_War
https://www.thecollector.com/us-strategic-bombing-in-the-vietnam-war-success-or-failure/
THÁNG 8/23
Giai Cấp Thị Dân Và Các Nhóm Trưởng Gỉa Học Làm Sang Nguyễn Mạnh Quang
Sự Thật Về Giới Tu Sĩ Và Hàng Giáo Phẩm Thiên Chúa Giáo La Mã Nguyễn Mạnh Quang
Những Việc Cần Làm Với Thiên Chúa Giáo La Mã Nguyễn Mạnh Quang
26 Tội Danh Tiêu Biểu Của Thiên Chúa Giáo La Mã Nguyễn Mạnh Quang
https://www.larousse.fr/encyclopedie/personnage/H%C3%B4_Chi_Minh/124051
https://www.persee.fr/doc/rint_0294-3069_2020_num_117_1_1748
https://www.persee.fr/doc/rint_0294-3069_2020_num_117_1_1748
https://www.herodote.net/Le_fondateur_du_Viet_Nam_moderne-synthese-2213.php
https://www.retronews.fr/colonies/echo-de-presse/2019/09/10/la-vie-saigon
https://www.humanite.fr/histoire/guerre-du-vietnam/1945-ho-chi-minh-proclame-lindependance-582973
https://www.larousse.fr/encyclopedie/divers/guerre_d_Indochine/124937
https://www.histoiredumonde.net/spip.php?page=recherche&recherche=Sainteny
https://www.histoiredumonde.net/Amiral-Thierry-d-Argenlieu.html
https://www.histoiredumonde.net/Jean-de-Lattre-de-Tassigny.html
https://www.cairn.info/revue-relations-internationales-2007-2-page-29.htm
https://www.justiceinfo.net/en/45336-sexual-abuse-church-is-it-a-crime-against-humanity.html
https://baptistnews.com/article/what-the-sbc-should-learn-from-the-ravi-zacharias-tragedy/?gclid
https://www.abuselawsuit.com/church-sex-abuse/accused-clergy/
https://en.wikipedia.org/wiki/Catholic_Church_sexual_abuse_cases
https://companiesmarketcap.com/automakers/largest-automakers-by-market-cap/
https://www.marketwatch.com/investing/index/djusau?countrycode=xx
https://www.marketbeat.com/compare-stocks/automotive-stocks/
https://www.macrotrends.net/stocks/charts/GPI/group-1-automotive/stock-price-history
https://www.wallstreetzen.com/industries/best-automobile-stocks
https://www.westonaprice.org/podcast/viruses-broken-down/#gsc.tab=0
THÁNG 7/23
Kiểm duyệt thể hiện bản chất mọi rợ của bọn dân chủ cộng sản
Ukraine : Con tốt thí của các Tập Đoàn Công Nghiệp Chiến Tranh
Thuyết Âm Mưu diểm sách
https://databank.worldbank.org/source/world-development-indicators
Tù nhân quân sự Rochelle Walensky tội phản quốc | Tin tức thực tế (realrawnews.com)
https://www.piie.com/microsites/globalization/what-is-globalization?gclid
https://ballotpedia.org/Donald_Trump_presidential_campaign,_2016
https://www.npr.org/2016/11/05/500782887/donald-trumps-road-to-election-day
https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_post%E2%80%932016_election_Donald_Trump_rallies
https://news.usni.org/2023/06/19/carrier-uss-ronald-reagan-now-in-the-south-china-sea
https://www.realcleardefense.com/2023/06/20/uss_ronald_reagan_enters_the_south_china_sea_941763.html
https://foreignpolicy.com/2022/07/11/afghanistan-taliban-mining-resources-rich-minerals/#
https://en.wikipedia.org/wiki/Mining_in_Afghanistan#:~:text=Afghanistan
https://yourlocalepidemiologist.substack.com/p/covid-19-vaccines-and-sudden-deaths
https://indepthnh.org/wp-content/uploads/2021/10/COVID-Report-from-Rep.-Weyler-3.pdf
https://en.wikipedia.org/wiki/United_States_assistance_to_Vietnam
https://www.nolo.com/legal-encyclopedia/is-violating-a-shelter-in-place-order-a-crime.html#:
https://japantoday.com/category/world/bill-gates-to-meet-xi-jinping-in-beijing-on-friday
https://time.com/5888024/50-trillion-income-inequality-america/
https://moderndiplomacy.eu/2023/05/24/more-than-30-countries-want-to-join-the-brics/
https://factsanddetails.com/southeast-asia/Vietnam/sub5_9g/entry
https://search.archives.un.org/united-front-for-liberation-of-oppressed-races-fulro
https://military-history.fandom.com/wiki/United_Front_for_the_Liberation_of_Oppressed_Races
https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1964-68v05/terms
https://en.wikipedia.org/wiki/CIA_activities_in_Indonesia#:~:
https://www.vox.com/2020/5/11/21249203/venezuela-coup-jordan-goudreau-maduro-guaido-explain
https://theintercept.com/2020/05/09/venezuela-coup-regime-change/
https://www.historynet.com/ho-chi-minh-truman-letter-vietnam/#:~:text
https://projects.voanews.com/china/global-footprint/data-explorer/
https://www.aiddata.org/methods/tracking-underreported-financial-flows
https://www.cgdev.org/topics/sustainable-development-finance
https://www.cgdev.org/blog/breaking-logjam-african-debt-relief-third-way
https://www.cgdev.org/blog/will-china-play-its-part-addressing-african-debt-distress
https://stories.starbucks.com/stories/2023/starbucks-ceo-laxman-narasimhan-visits-partners-in-china/
https://www.chinadaily.com.cn/a/202302/13/WS63e99f3ba31057c47ebae6be.html
Indian
South Korea
Vietnam
Indonesia
Brazil
Komorro
Hoa Kỳ Hủy Bỏ Hoàn Toàn Việc Cưỡng Bách Thử Nghiệm Vaccin Covid 19
Vua Hàm Nghi xuống hịch Cần Vương - Võ Quang Yến - Chim Việt Cành Nam - Chim Việt (free.fr)
NATURAL RESOURCES
https://www.aiddata.org/data/aiddatas-global-chinese-development-finance-dataset-version-2-0
Phong-su-tu-lieu/Duong-Dai-Hai-va-to-chuc-ma-Tong-LD-lao-cong-VN-hai-ngoai-i25655/
https://www.atlanticcouncil.org/blogs/natosource/brzezinski-the-west-should-arm-ukraine/
https://www.criminalelement.com/the-murder-of-franklin-delano-roosevelt-tony-hays/
https://constitutioncenter.org/blog/looking-back-at-the-day-fdr-died
https://millercenter.org/president/fdroosevelt/death-of-the-president
https://macleans.ca/culture/books/the-huge-secret-about-fdrs-death/
https://www.heritage-history.com/index.php?c=read&author=josephson&book=roosevelt&story=death
https://www.vfw.org/join/member-benefits/publication-subscriptions
https://centurypast.org/books-nonfiction-subject-directory/military/
https://www.army.mil/e2/downloads/rv7/2020-2021_Weapon_Systems_Handbook.pdf
https://archive.org/details/Janes-WorldWarIiTanksAndFightingVehicles-TheCompleteGuide.pdf
https://centurypast.org/books-nonfiction-subject-directory/military/
https://www.sandboxx.us/blog/the-ultimate-guide-to-the-patriot-air-defense-system/
https://peoplesdispatch.org/2021/05/09/g7-or-failed-colonial-powers-telling-the-world-what-to-do/
https://share.america.gov/biden-us-to-donate-500-million-covid-19-vaccine-doses/
https://share.america.gov/theme/theme-government-civil-society/
https://openvault.wgbh.org/catalog/V_3267C58E4C104A54A0AFDF230D618AE6
https://share.america.gov/us-supports-waiving-rights-covid-19-vaccines/
https://share.america.gov/us-supports-waiving-rights-covid-19-vaccines/
https://www.greencarreports.com/news/1139636_2023-vinfast-vf-8-city-edition-test-drive-review
https://www.theautopian.com/2023-vinfast-v8-city-edition-review-it-breaks-do-not-buy/
https://jalopnik.com/vinfast-vf8-electric-car-first-drive-not-ready-for-u-s-1849892217
https://www.thedrive.com/news/the-2023-vinfast-vf8-got-skewered-in-first-drive-reviews
https://www.roadandtrack.com/news/a43875030/2023-vinfast-vf8-first-drive-unacceptable/
https://start.cortera.com/company/research/m3r5nvk0q/nisbett-medical-llc/
https://finance.yahoo.com/news/georgia-structured-family-caregiving-medicaid-071900972.html
https://www.congress.gov/bill/117th-congress/house-bill/5908
https://www.thecrimson.com/article/1973/10/10/thieus-prisons-some-pows-cant-go/
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_d%E1%BB%8Bch_Ph%E1%BB%A5ng_Ho%C3%A0ng
https://www.military.com/history/6-wild-us-government-conspiracy-theories-explained.html
https://www.splcenter.org/fighting-hate/extremist-files/ideology/conspiracy-propagandists
https://academic.oup.com/book/25369/chapter-abstract/192461943?redirectedFrom=fulltext
https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_conspiracy_theories#Espionage
https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_conspiracy_theories#Espionage
https://en.wikipedia.org/wiki/Conspiracy_theories_in_United_States_politics
https://www.livescience.com/11375-top-ten-conspiracy-theories.html
https://journals.sagepub.com/doi/abs/10.1177/000271628145800119?journalCode=anna
https://www.historynet.com/ho-giap-and-oss-agent-henry-prunier/?f
https://www.historynet.com/tag/office-of-strategic-services-oss/
https://www.motortrend.com/reviews/2023-vinfast-vf8-electric-suv-first-drive-review/
https://www.motortrend.com/reviews/2023-vinfast-vf8-electric-suv-first-drive-review/
https://immigrantinvest.com/blog/top-10-richest-countries-world-en/
https://www.indexmundi.com/facts/indicators/NY.GDP.TOTL.RT.ZS/rankings
https://mronline.org/2023/04/15/if-the-u-s-cant-boss-the-world-it-will-spitefully-destroy-it/
https://mronline.org/2023/04/20/biden-doj-indicts-four-americans-for-weaponized-free-speech/
https://mronline.org/2023/04/19/militarism-and-the-coming-wars/
http://www.ucsj.org/wp-content/uploads/2012/12/Roots-of-Svoboda_2.pdf
https://www.europeaninterest.eu/article/darkest-side-dark-europe-neo-nazis-european-parliament/
https://mronline.org/2023/01/04/on-the-influence-of-neo-nazism-in-ukraine/
https://peoplesdispatch.org/2022/09/27/fascism-returns-to-europes-centerstage/
https://progressive.international/wire/2022-10-04-neo-fascism-in-italy-europes-involution/en
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A7_ngh%C4%A9a_ph%C3%A1t_x%C3%ADt
https://avt.edu.vn/nuoc-duc/thu-tuc/chu-nghia-phat-xit-la-gi.html
https://bigthink.com/thinking/10-rules-conspiracy-theory-true-false/
https://www.rd.com/list/conspiracy-theories-that-turned-out-to-be-true/
https://www.livescience.com/11375-top-ten-conspiracy-theories.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95_ch%E1%BB%A9c_H%E1%BB%A3p_t%C3%A1c_
https://ustr.gov/countries-regions/europe-middle-east/middle-east/north-africa#:
https://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/wjbxw/202302/t20230220_11027664.html
https://wachouston.org/student-resources/discussions/memberships-landing-page-6/?
https://www.oxfordenergy.org/wpcms/wp-content/uploads/2021/02/OEF-126.pdf
https://www.specialeurasia.com/2022/07/14/rimpac-united-states-pacific/
https://news.usni.org/2022/06/29/rimpac-2022-kicks-off-in-hawaii-with-21-partner-nation-ships
https://www.heritage.org/sites/default/files/2022-10/2023_IndexOfUSMilitaryStrength.pdf
https://www.defense.gov/News/Feature-Stories/story/Article/3105469/rimpacs-got-impact/
https://www.capitol.hawaii.gov/sessions/session2023/bills/HR153_.HTM
https://www.japantimes.co.jp/news/2023/04/10/asia-pacific/china-taiwan-military-exercises-day-three/
https://onlinelibrary.wiley.com/doi/abs/10.1002/9781444351071.wbeghm020
https://behind-the-news.com/how-the-rockefellers-trumped-the-world/
https://www.bibliotecapleyades.net/esp_sociopol_rockefeller.htm
https://piotrbein.net/2020/12/18/rockefeller-lockstep-2010-was-blueprint-for-2020-covid-19-pandemic/
https://www.technocracy.news/the-great-reset-a-breakdown-of-the-global-elites-master-plan/
https://wolfstreet.com/2016/10/19/powers-on-forefront-of-war-on-cash/
https://historyofvaccines.org/vaccines-101/what-do-vaccines-do/different-types-vaccines
https://www.sciencedirect.com/topics/immunology-and-microbiology/inactivated-vaccine
https://www.chicoer.com/2021/07/22/letter-is-vaccine-comparable-to-mass-genocide
https://www.reuters.com/investigates/special-report/health-coronavirus-vaccines-skeptic/
Bill Gates and George Soros are targets of another COVID-19 conspiracy theory - Poynter
How Bill Gates became the voodoo doll of Covid conspiracies - BBC News
'Crazy and evil': Bill Gates surprised by pandemic conspiracies | Reuters
https://www.cnet.com/science/features/how-covid-19-infected-the-world-with-lies/
https://slate.com/technology/2021/07/noble-lies-covid-fauci-cdc-masks.html
https://www.nytimes.com/2022/05/12/business/softbank-earnings-report-loss.html
https://www.investopedia.com/articles/economics/08/japan-1990s-credit-crunch-liquidity-trap.asp
https://dodbuzz.com/stock-market-stunned-many-investors-amid-of-considerable-risk/
https://thezebra.org/2021/08/
https://thethaiger.com/news/business/economic-aftershocks-of-russias-invasion-on-thailands-economy
Hàm Nghi - Thành Thái - Duy Tân - Khải Định - Bảo Đại
Above The Law. Unherd. New Republic.Transparency. Fortinet. Tech Target. Justice Initiative. FreedomWatch. PreventGennocide. National Library Of Medicine
https://www.defense.gov/News/Feature-Stories/story/article/2293108/
Breaking News & Views for the Progressive Community | Common Dreams
https://revealnews.org/podcast/the-pentagon-papers-secrets-lies-and-leaks-2021/
https://covertactionmagazine.com/2022/04/27/who-whacked-cia-spy-chief-william-colby/
https://www.c-span.org/video/?409091-1/william-colby-church-committee-hearing
https://www.timetoast.com/timelines/american-involvement-in-ww2
https://www.diffen.com/difference/World_War_I_vs_World_War_II
https://www.newagebd.net/article/159019/how-cia-plots-undermined-african-decolonisation
https://oig.justice.gov/sites/default/files/archive/special/9712/ch01p1.htm
https://www.cjr.org/opinion/what-the-dominion-lawsuit-reveals-about-the-future-of-fox-news.php
https://www.cjr.org/the_media_today/florida_blueprint_desantis_book_media.php
https://www.cliffsnotes.com/literature/a/animal-farm/character-list
https://courses.lumenlearning.com/suny-hccc-worldhistory2/chapter/the-treaty-of-brest-litovsk/
https://courses.lumenlearning.com/suny-hccc-worldhistory2/chapter/the-british-naval-blockade/
https://courses.lumenlearning.com/suny-hccc-worldhistory2/chapter/the-hundred-days-offensive/
https://www.compact.nl/en/articles/compact-a-magazine-in-transition/
https://www.sciencedirect.com/topics/social-sciences/military-industrial-complex
https://open.lib.umn.edu/sociology/chapter/13-5-the-military-industrial-complex/
https://www.americanforeignrelations.com/E-N/The-Military-Industrial-Complex.html
https://www.presidency.ucsb.edu/documents/fact-sheet-united-states-vietnam-education-cooperation
http://www.fetp.edu.vn/en/programs/master-in-public-policy-program/admissions/overview/
https://en.wikipedia.org/wiki/China_in_the_Vietnam_War#:~:text=Confronting%20U.S.%20escalation,
https://tunguyenhoc.blogspot.com/2013/05/ai-giet-pham-quynh-nguoi-nang-long-voi.html
https://vanlangseattle.org/public/documents/nguyendutruyenkieu.html
https://www.deseret.com/1989/5/16/18807144/china-admits-it-sent-troops-to-fight-the-u-s-in-vietnam
https://sputniknews.vn/20220314/ong-nguyen-chi-vinh-khong-the-noi-khac-14204378.html
https://rwmalonemd.substack.com/p/one-million-strong?utm_source=post-email-title&publication_id
citizenfreepress.com
stevekirsch.substack.com
https://knollfrank.github.io/HowBadIsMyBatch/batchCodeTable.html
https://www.theguardian.com/society/2020/sep/08/how-philanthropy-benefits-the-super-rich
https://www.gobankingrates.com/money/wealth/secrets-rich-person-knows/
https://theglobalhues.com/top-10-charitable-people-in-the-world/
https://www.propublica.org/article/billionaires-tax-avoidance-techniques-irs-files
https://www.webmd.com/alzheimers/ss/slideshow-raise-chances-dementia
https://prosecutenow.io/dld/LitigationConsolidationSummary.pdf
https://prosecutenow.io/dld/Executive-Summary_Prosecute-Now_dg_final_2.pdf
https://www.ojp.gov/ncjrs/virtual-library/abstracts/prosecution-fraud-and-official-corruption
https://www.globalcompliancenews.com/anti-corruption/anti-corruption-in-the-united-states/
https://www.commoncause.org/our-work/ethics-and-accountability/legislative-ethics/
https://www.foodandwaterwatch.org/2021/03/08/a-safe-sustainable-food-system/
https://www.gobankingrates.com/money/wealth/secrets-rich-person-knows/
https://www.gobankingrates.com/net-worth/politicians/donald-trump-net-worth/
https://www.gobankingrates.com/retirement/social-security/what-happens-social-security-you-die/
https://www.weforum.org/events/world-economic-forum-annual-meeting-2023?gclid
https://qz.com/davos-2023-world-economic-forum-attendees-1849990706
https://www.webmd.com/drugs/2/drug-6616/losartan-oral/details
https://www.nature.com/scitable/forums/genetics-generation/america-s-hidden-history-the-eugenics-movement-123919444/
http://en.kremlin.ru/ - http://programmes.putin.kremlin.ru/en/tiger/ - http://en.kremlin.ru/multimedia/video
https://mronline.org/2022/07/22/how-corrupt-is-ukrainian-president-volodymyr-zelensky/
http://johnhelmer.net/the-ukrainain-demilitarized-zone-negotiations-start-at-dead-end/
https://uncutnews.ch/pilot-verraet-die-elite-will-von-ungeimpften-piloten-herumgeflogen-werden/
https://dnyuz.com/2023/01/18/how-to-divide-the-working-class/
https://thespectator.com/topic/twilight-of-the-democrats-gerontocracy/
https://journals.sagepub.com/doi/abs/10.1177/0169796X0301900209?journalCode=jdsb
https://socialistcall.com/2022/11/30/socialists-should-support-the-popular-resistance-in-china/
https://novact.org/2014/04/eng-women-in-popular-resistence/?lang=en
https://www.thequint.com/voices/opinion/ukraine-war-why-popular-resistance-is-big-problem-for-russia
https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S1045235418302600
https://vinhdanhquanlucvietnamconghoa.blogspot.com/2008/05/quc-ca-vit-nam-cng-ha.html
https://www.danchimviet.info/nguon-goc-ban-quoc-ca-viet-nam-cong-hoa/04/2018/9553/
https://gocnhosantruong.com/component/k2/3293-nguon-goc-la-co-vang-va-ban-quoc-ca-viet-nam-cong-hoa
https://viettudomunich.org/2022/08/16/nguon-goc-ban-quoc-ca-viet-nam-cong-hoa/
https://baovecovang2012.wordpress.com/2022/03/23/quoc-ky-quoc-ca-viet-nam-co-gs-nguyen-ngoc-huy/2/
https://levinhhuy.wordpress.com/2016/05/29/quoc-ca-viet-nam/
https://freenations.net/germany-in-crisis-faces-war-reparations-claims
https://www.thoughtco.com/totalitarianism-definition-and-examples-5083506
The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative
The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative
THÁNG 10
Thành Tựu Lớn Nhất Của Trump & Những Thành Tựu Của Tồng Thống Sau 42 tháng. Kim Âu (st)
Donald Trump Học Ở Đại Học Nào? Kim Âu (st)
Donald Trump Trị Gía Bao Nhiêu? Kim Âu (st)
Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Thời Trump Kim Âu (st)
Những Tội Phạm Tỷ Phú Kim Âu (st)
Coronavirus, Có Phải Là Vũ Khí Sinh Học Không? Kim Âu (st)
UN, WHO, Gates Tìm Cách Thu Hút Quần Chúng Kim Âu (st)
Coronavirus Lockdown Những Chuyện Chưa Kể Kim Âu (st)
Nhận Thức Sai Lầm Về Virus Kim Âu (st)
Covid 19 Không Phải Là Một Loại Virus Mới Kim Âu (st)
Covid 19, Cuộc Lừa Đảo Vĩ Đại Kim Âu (st)
11 Thuyết Âm Mưu Kim Âu (st)
Vũ Hán, Từ Cách Mạng Văn Hóa Đến Covid 19 Kim Âu (st)
Covid 19= Nói Dối Hoàn Toàn Kim Âu (st)
Cuộc Điều Tra Của Thẩm Phán Durham Kim Âu (st)
Nếu Ứng Cử Viên Tổng Thống Qua Đời.. Điều Gì Sẽ Xảy Ra Kim Âu (st)
Bất Ngờ Tháng Mười 2020 Kim Âu (st)
Chủ Nghĩa Toàn Cầu vs Toàn Cầu Hóa Kim Âu (st)
Chỉ Có 6% Chết Vì COVID 19 Kim Âu (st)
Đọc: Death By China Kim Âu (st)
Trump's Agenda 2020 Kim Âu (st)
Những Ý Tưởng Nền Tảng Của Republican 2020 Kim Âu (st)
Truyền Thông Bất Lương Che GIấu 7 Sự Việc Quan Trọng Kim Âu (st)
Covid 19 Khai Thác Và Thao Túng Tâm Lý Sợ Hãi Kim Âu (st)
CoronavirusThay Đổi Thế Giới Vinh Viễn Kim Âu (st)
Trang Quyền Lợi Cử Tri (Voter) Kim Âu (st)
Kiểm Soát Dân Số: Hệ Tư Tưởng Ma Qủy Kim Âu (st)
Chiến Dịch Bôi Nhọ Các Bác Sĩ Xác Nhận Thuốc Trị Covid 19 Kim Âu (st)
Yale School of Public Health that was recently published in the American Journal of Epidemiology
Những Khoảnh Khắc Jane Phạm
Cờ Vàng Trong Tâm Tôi Christine Cao
Thôi Về Đi Con Christine Cao
Nợ Quốc Gia Dưới Thời Obama Kim Âu
Dư Luận Viên Báo Nói : Biến Tướng Của Hồng Vệ Binh Kim Âu
Event 21 Mẹ Đẻ Của COVID 19 Kim Âu
Khi Người Quốc Gia Trở Về Bùi Anh Trinh
Người Quốc Gia Hà Văn Sơn Về Nước Bùi Anh Trinh
Dân Chủ Với PheTa: Đó Là Dân Chủ Rừng Rú Kim Âu
https://www.worldometers.info/coronavirus/coronavirus-death-rate/
https://www.worldometers.info/coronavirus/coronavirus-death-rate/
https://www.contagionlive.com/news/cdc-reports-13-million-flu-cases-thus-far-in-201920-season
https://www.kff.org/other/state-indicator/influenza-and-pneumonia-death-rate/?c
https://www.state.gov/the-united-states-announces-assistance-to-combat-the-novel-coronavirus/
https://www.cdc.gov/coronavirus/2019-ncov/cases-updates/cases-in-us.html
https://usafacts.org/visualizations/coronavirus-covid-19-spread-map/
Vai Trò Của Trung Cộng Trong Chiến Tranh Việt Nam Kim Âu -ST
VĂN HÓA - LỊCH SỬ
https://founders.archives.gov/documents/Jefferson/99-01-02-7861
https://www.presidency.ucsb.edu/documents/proclamation-3204-obstruction-justice-the-state-arkansas
https://en.wikipedia.org/wiki/Red_Guards - https://en.wikipedia.org/wiki/Red_Guards_(USA)
TỔNG HỢP BÀI VỞ CÁC DIỄN ĐÀN
The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative -
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
Những Yếu Tố Thuận Lợi Giúp Cho Chữ Quốc Ngữ Latin Phát Triển
Hậu Qủa Thời Pháp Thuộc: Lịch Sử,Văn Hóa Việt Bị Xóa Trắng Kim Âu
Vatican 5 Lần Vận Động Ngoại Cường Xâm Lược Việt Nam Nguyễn Mạnh Quang
Giáo Hội La Mã: Lịch Sử - Hồ Sơ Tội Ác Nguyễn Mạnh Quang
https://hockinhthanh.weebly.com/uploads/7/8/3/9/7839436/khai_huyen_-_warren_w._wiersbe.pdf
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu